Xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu gắn với xây dựng cảnh quan, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa, du lịch và thực hiện chương trình OCOP ở khu vực Bắc Trung Bộ

pdf
Số trang Xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu gắn với xây dựng cảnh quan, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa, du lịch và thực hiện chương trình OCOP ở khu vực Bắc Trung Bộ 17 Cỡ tệp Xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu gắn với xây dựng cảnh quan, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa, du lịch và thực hiện chương trình OCOP ở khu vực Bắc Trung Bộ 1 MB Lượt tải Xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu gắn với xây dựng cảnh quan, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa, du lịch và thực hiện chương trình OCOP ở khu vực Bắc Trung Bộ 0 Lượt đọc Xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu gắn với xây dựng cảnh quan, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa, du lịch và thực hiện chương trình OCOP ở khu vực Bắc Trung Bộ 28
Đánh giá Xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu gắn với xây dựng cảnh quan, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa, du lịch và thực hiện chương trình OCOP ở khu vực Bắc Trung Bộ
4.8 ( 20 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 17 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ CHIẾN LƢỢC PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI KIỂU MẪU GẮN VỚI XÂY DỰNG CẢNH QUAN, BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, DU LỊCH VÀ THỰC HIỆN CHƢƠNG TRÌNH OCOP Ở KHU VỰC BẮC TRUNG BỘ I. ĐẶT VẤN ĐỀ Nông nghiệp, nông thôn, nông dân trở thành một nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2011-2020, bắt đầu từ Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của BCH Trung ương Đảng, với mục tiêu xây dựng nông nghiệp, nông thôn với cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch. Phát triển nông thôn hướng đến mục tiêu không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới. Đến Nghị quyết Đại hội Đảng XII, Đảng đã chỉ rõ định hướng phát triển nông nghiệp cần tập trung xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao, hàng hóa lớn, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cho nông sản, nhưng phải đảm bảo phát triển bền vững, an ninh lương thực quốc gia và vệ sinh, an toàn thực phẩm, đảm bảo các tiêu chuẩn theo yêu cầu xuất khẩu, có khả năng tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu. Sau gần 10 năm triển khai, xây dựng NTM đã trở thành một phong trào sôi nổi, rộng khắp trên cả nước và đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Diện mạo nông thôn khởi sắc rõ rệt; nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả cao; đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của người dân được cải thiện; năng lực, nhận thức của cán bộ thực hiện và người dân được nâng cao… Tính đến tháng 06/2019, cả nước đã có 4.458 xã đạt chuẩn NTM, chiếm 50,01% tổng số xã, tăng gần gấp 3 lần so với năm 2015, về đích trước hơn 01 năm so với mục tiêu 50% số xã đạt chuẩn vào năm 2020. Số tiêu chí bình quân/xã đạt 15,26 tiêu chí, vượt mục tiêu 15 tiêu chí/xã vào năm 2020. Ở cấp huyện, đã có 82 huyện thuộc 36 tỉnh, thành được công nhận đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM, tăng 67 huyện so với năm 2015. Về kinh tế, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn tăng nhanh, năm 2010 là 12,84 triệu đồng/người, đến năm 2018 đạt khoảng trên 34 triệu đồng/người, tăng 2,64 lần so với năm 2010 và tăng 3,72 lần so với năm 2008 (sớm vượt xa mục tiêu đến năm 2020 thu nhập của dân cư nông thôn tăng gấp 2,5 lần so với năm 2008 của Nghị quyết Trung ương 7 khóa X). Cùng với đó, đời sống tinh thần ở nông thôn cũng được cải thiện đáng kể. Nông thôn là nơi diễn ra những phong trào sôi nổi về văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, các lễ hội truyền thống được duy trì và phát triển cùng với việc thực hiện nếp sống văn minh, xóa bỏ các hủ tục, mê tín, dị đoan… Nhiều hoạt động trồng cây xanh, thắp sáng đường quê, bảo vệ môi trường… đã được cộng đồng dân cư tích cực tổ chức thực hiện tạo nên nhiều vùng quê nông thôn trong lành, sáng, xanh, sạch, đẹp. Tuy nhiên, nông nghiệp, nông thôn Việt Nam vẫn còn một số mặt hạn chế cơ bản, đe dọa đến tính bền vững trong giai đoạn đầy khó khăn của “Chuyển đổi” cấu trúc trong 10-20 năm tới, cụ thể là: 57 - Cơ cấu lại nền nông nghiệp chưa thực hiện đồng đều giữa các địa phương. Nông nghiệp phát triển thiếu bền vững, chất lượng và khả năng cạnh tranh của nhiều loại nông sản chưa cao, tình trạng mất an toàn vệ sinh thực phẩm chậm được khắc phục. Công nghiệp chế biến phát triển chậm, số lượng lớn sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu ở dạng thô hoặc sơ chế. Nông sản xuất khẩu chủ yếu là xuất thô, chưa định rõ loại hình chất lượng, 80% lượng nông sản chưa xây dựng được thương hiệu, chưa có logo, nhãn mác. Quá ít chuỗi giá trị hoàn chỉnh, thiếu gắn kết giữa doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp vừa và nhỏ địa phương, và với tổ chức của nông dân. Đầu tư xã hội thấp khoảng 3 tỷ USD, trong đó 50% là ngân sách nhà nước, chỉ có 16,7% là của doanh nghiệp. - Lao động nông nghiệp vẫn chiếm gần 40% trong tổng số lao động xã hội, chủ yếu làm thủ công nên năng suất lao động thấp (chỉ bằng 38% năng suất lao động bình quân cả nước). Thu nhập và đời sống của người dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn, chậm được cải thiện; tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Chênh lệch thu nhập giữa các hộ nông thôn có xu hướng gia tăng, từ 9,7 lần năm 2014 lên 9,8 lần năm 2016; tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn cao gấp 4 lần ở các thành thị. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệ tái nghèo bình quân chiếm 5,1% số hộ thoát nghèo,có nơi trên 50%, tập trung ở các vùng miền núi phía Bắc, duyên hải miền Trung, Tây nguyên. - Vai trò chủ thể của nông dân, sức mạnh chủ động của cộng đồng cơ sở chưa được đề cao. Một số địa phương chạy theo phong trào trong xây dựng NTM. Đa số mới chú trọng phát triển hạ tầng, chưa quan tâm đúng mức tới phát triển sản xuất, kinh doanh, xây dựng đời sống văn hóa, nâng cao đời sống của người dân. Tính gắn kết cộng đồng có xu hướng lỏng lẻo, không gian văn hóa truyền thống dần bị phá vỡ, nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp bị xói mòn. Văn hóa chưa được chú trọng khai thác để trở thành động lực và nguồn lực cho phát triển KTXH nông thôn. - Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa tăng nhanh, việc thực hiện các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường, gìn giữ cảnh quan, bảo vệ tài nguyên còn nhiều hạn chế. Nguồn chất thải từ công nghiệp và đô thị và từ các nguồn thải của nông nghiệp, nông thôn, nhất là trong các làng nghề, sản xuất chăn nuôi, thủy sản gia tăng gây ô nhiễm môi trường. Trong bối cảnh mới, đặc biệt là bức tranh nông thôn mới giai đoạn 2021-2030 cần nhận diện được các mối quan hệ nông thôn và đô thị, kinh tế và môi trường, văn hóa và kinh tế, đặc biệt là: i) các vấn đề về tổ chức xã hội, quản lý nhà nước vùng nông thôn và nguồn nhân lực cho phát triển nông thôn gắn với cơ chế, chính sách cho đặc thù theo vùng, miền; ii) các vấn đề về quy hoạch, kiến trúc cảnh quan, môi trường; về hệ thống đổi mới sáng tạo nông thôn và huy động nguồn lực xã hội…; iii) về khía cạnh kinh tế nông nghiệp, nông thôn, cần tập trung vào các đột phá về thể chế phát triển nông nghiệp, nông thôn; chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; đổi mới mô hình tổ chức, liên kết sản xuất, phát triển thị trường; iv) bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa đặc sắc, gắn phát triển văn hóa với sinh kế, với phát triển du lịch, với bảo vệ môi trường; v) quản lý, bảo vệ môi trường, cảnh quan nông thôn trong tương lai như thiết kế cảnh quan nông thôn “xanh-sạch-đẹp”, phát huy tốt nhất các giá trị văn hóa và môi trường nông thôn, gắn cảnh quan cho đời sống của cư dân và phát triển kinh tế… Khu vực Bắc Trung Bộ bao gồm 6 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ n, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, là phần phía bắc của miền Trung Việt Nam, khu vực có đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội đa dạng, xây dựng NTM ở BTB có nhiều sắc thái nổi bật trên nhiều góc độ. Kết quả cho thấy, khu vực Bắc Trung Bộ đã 58 hình thành những mô hình NTM theo đặc điểm địa lý, địa hình như vùng núi, biên giới, vùng dân tộc thiểu số, vùng đồng bằng, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo; có những mô hình NTM kiểu mẫu ở phạm vi cấp huyện, cấp xã, cộng đồng thôn bản cho đến khu dân cư kiểu mẫu, vườn mẫu; có những mô hình NTM theo đặc điểm văn hóa, thế mạnh du lịch, tiềm năng sản phẩm OCOP… Tất cả các yếu tố đó kết hợp với nhau tạo nên hình ảnh NTM đa sắc màu ở khu vực Bắc Trung Bộ. Do đó, xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu gắn với xây dựng cảnh quan, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa, du lịch và thực hiện Chương trình OCOP ở khu vực Bắc Trung Bộ sẽ trở thành một định hướng quan trọng, phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển nông thôn bền vững, hướng đến sự gắn kết và thúc đẩy đời sống văn hóa – kinh tế - xã hội – môi trường trong xây dựng nông thôn mới ở các địa phương. II. THÀNH TỰU TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI CỦA KHU VỰC BẮC TRUNG BỘ 2.1 Kết quả chung về xây dựng nông thôn mới Thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2010-2020, khu vực Bắc Trung Bộ đã đạt được nhiều kết quả cao trên các lĩnh vực phát triển kinh tế, hạ tầng, văn hóa, xã hội… Mặc dù có xuất phát điểm tương đối thấp so với mặt bằng chung của cả nước, thường xuyên phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức về thiên tai, bão lũ, ô nhiễm môi trường…, nhưng sau hơn 9 năm triển khai xây dựng NTM, khu vực Bắc Trung Bộ đã có kết quả cụ thể như sau: - Xây dựng bộ máy chỉ đạo và triển khai Chương trình: từ năm 2016, thực hiện Nghị quyết số 100/2015/QH13, Quyết định số 41/QĐ-TTg ngày 10/10/2016 về Quy chế quản lý, điều hành thực hiện các Chương trình MTQG, các tỉnh đã kiện toàn lại BCĐ thực hiện chương trình, theo đó 1 BCĐ chung là đơn vị chỉ đạo thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM và Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững. VPĐP NTM cấp tỉnh cũng đã được củng cố, là đầu mối thường trực giúp BCĐ thực hiện chương trình MTQG xây dựng NTM. Ở cấp huyện và cấp xã đều thành lập BCĐ các Chương trình MTQG cấp huyện, xã; VPĐP NTM cấp huyện cũng được kiện toàn. Tại các thôn, Ban phát triển thôn cũng được thành lập, trong đó Trưởng ban là trưởng thôn hoặc bí thư chi bộ thôn, các thành viên là trưởng các chi hội chính trị - xã hội và những người có uy tín trong cộng đồng. Ngoài ra, ở các thôn còn hình thành các tổ tự quản gồm một vài chục hộ trong cùng một khu dân cư. - Về kết quả chung so với cả nước Theo số liệu tổng hợp hàng năm của VPĐP NTM Trung ương, kết quả xây dựng NTM ở khu vực Bắc Trung Bộ đạt những bước tiến nhanh trong giai đoạn vừa qua. Tính đến tháng 6/2019, Bắc Trung Bộ đã có 51,9% số xã đạt chuẩn NTM, đứng thứ 3 cả nước chỉ sau 2 khu vực có nhiều điều kiện thuận lợi hơn là Đồng bằng sông Hồng (82,7%) và Đông Nam Bộ (70%). Mặc dù vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên có khó khăn, năm 2010 chưa có xã nào đạt chuẩn NTM, thì kết quả 51,9% số xã đạt chuẩn là một thành tích đặc biệt ấn tượng của Bắc Trung Bộ. 59 90.0 83 80.0 70 70.0 60.0 52 50 46 50.0 38 40.0 27 26 30.0 17 20.0 19 14 15 12 08 10.0 43 42 .0 Cả nước TDMNPB ĐBSH 2010 2015 BTB 2016 DHNTB 2017 Tây Nguyên 2018 ĐNB ĐBSCL 6/2019 Nguồn: VPĐP NTM Trung ương, 6/2019 Biểu đồ 1. Tỷ lệ xã đạt chuẩn NTM của các vùng miền qua các năm (%) Cùng với kết quả về xã đạt chuẩn NTM, số tiêu chí đạt chuẩn bình quân/xã của Bắc Trung Bộ đạt 15,8 tiêu chí/xã, cao hơn so với bình quân cả nước với 15,3% và chỉ đứng sau Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ. 20 18 18 16 17 16 15 15 15 14 14 12 12 10 8 6 4 6.2 5.4 4.7 5.4 05 5.1 3.5 3.2 2 0 Cả nước TDMNPB 2010 ĐBSH 2015 BTB 2016 DHNTB 2017 Tây Nguyên 2018 ĐNB ĐBSCL 6/2019 Nguồn: VPĐP NTM Trung ương, 6/2019 Biểu đồ 2. Số tiêu chí đạt chuẩn bình quân/xã theo các vùng So với mục tiêu của Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ, đến năm 2020 khu vực Bắc Trung Bộ là 59% số xã đạt chuẩn và đạt bình quân 16,5 tiêu chí/xã, thì kết quả đến tháng 6/2019 khu vực Bắc Trung Bộ đã sấp xỉ mục tiêu đề ra. Về số xã đạt dưới 10 tiêu chí, khu vực Bắc Trung Bộ hiện nay còn 139 xã đạt dưới 10 tiêu chí, chiếm 8,77%, tập trung chủ yếu ở 2 tính là Nghệ n (64 xã) và Thanh Hóa (35 xã). Tỷ lệ xã dưới 10 tiêu chí cũng thấp hơn nhiều so với bình quân của cả nước (15,16%), Bắc Trung Bộ chỉ thấp hơn so với Đồng bằng sôn Hồng (0,1%), Đông Nam Bộ (4,4%) và Đồng bằng sông Cửu Long (6,6%). Ở cấp độ huyện/thị xã, khu vực Bắc Trung Bộ có 6 huyện đạt chuẩn nông thôn mới thuộc 3 tỉnh là Nghệ n (3), Thanh Hóa (2) và Hà Tĩnh (1), Quảng Trị, Quảng 60 Bình và Thừa Thiên Huế là các tỉnh trong vùng chưa có huyện/thị xã nào được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Về kết quả cụ thể ở các địa phương, Hà Tĩnh là tỉnh có thành tích đạt cao nhất trong vùng với tỷ lệ 69,3% số xã đạt chuẩn và số tiêu chí bình quân cũng đạt 17,21%. Khó khăn nhất là tỉnh Quảng Trị mới chỉ đạt 44,44% số xã đạt chuẩn và số tiêu chí bình quân đạt 14,87% (thấp nhất vùng), mặc dù tỷ lệ xã đạt chuẩn thấp nhất là 35,58% nhưng Thừa Thiên Huế lại có số tiêu chí bình quân khá cao với 16,13%, chỉ thấp hơn tỉnh Hà Tĩnh. Nguồn: VP NTM Trung ương, 6/2019 Biểu đồ 3. Kết quả đạt chuẩn NTM của các tỉnh khu vực BTB Đối với chỉ tiêu về số xã đạt dưới 10 tiêu chí, Hà Tĩnh là địa phương duy nhất hiện nay trong vùng không còn xã dưới 10 tiêu chí. Mặc dù Thanh Hóa và Nghệ n có số lượng xã đạt dưới 10 tiêu chí lớn, nhưng xét về tỷ lệ thì Quảng Trị là cao nhất với 19,66% số xã, tiếp đến là Nghệ n với 14,85%, Thừa Thiên Huế chỉ còn 2,88% số xã (tương đươi 3 xã) dưới 10 tiêu chí. Như vậy, nhìn chung kết quả xây dựng NTM khu vực Bắc Trung Bộ đã đạt được những kết quả tích cực, mặc dù trong bối cảnh các địa phương có nhiều xã ở khu vực miền núi, xã ven biển với điều kiện nhiều khó khăn. 2.2 Nông thôn mới về kinh tế, môi trƣờng và văn hóa Nhìn chung, sau gần 10 năm, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu khu vực Bắc Trung Bộ đã được đầu tư xây dựng, nâng cấp, đạt khối lượng khá lớn, nâng mức chuẩn theo tiêu chí, trên nhiều khía canh: 61 - Về cơ sở hạ tầng đời sống: tỷ lệ số xã đạt các tiêu chí về nhà ở, điện, trường học, hạ tầng cơ sở thương mại đạt ở mức cao, 85,3% số xã đạt chuẩn tiêu chí về nhà ở cư dân, 95,4% số xã đạt tiêu chí về điện, 71,2% đạt tiêu chí về trường học… Tuy vậy, mặc dù đã có sự cải thiện đáng kể, nhưng so với mặt bằng các tiêu chí thì hệ thống giao thông vẫn còn nhiều khó khăn, mới chỉ 67,3% số xã đạt tiêu chí về giao thông, đặc biệt là tiêu chí về cơ sở vật chất văn hóa mới chỉ 59,6% số xã đạt chuẩn. Hai tỉnh gặp nhiều khó khăn nhất về giao thông là Quảng Bình và Quảng Trị, với tỷ lệ xã đạt tiêu chí về giao thông tương ứng là 57,4% và 56,4%. Nguồn: Tổng hợp từ các địa phương, 2018 Biểu đồ 4. Mức độ hoàn thành các tiêu chí của vùng Bắc Trung Bộ năm 2018 - Hạ tầng kinh tế và đời sống: hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất được đầu tư hoàn thiện, 89,1% số xã trong vùng đã đạt tiêu chí về thủy lợi, góp phần thúc đẩy hoạt động tổ chức sản xuất ở các địa phương. Đến hết năm 2018, số xã đạt tiêu chí về sản xuất đã là 85,3%, nhiều tỉnh có tỷ lệ rất cao như: Hà Tĩnh (95,6%), Thanh Hóa (92,8%), thấp nhất trong vùng là tỉnh Quảng Trị, mới chỉ đạt 62,3%. Đối với đời sống người dân, thu nhập bình quân đầu người trong vùng có sự cải thiện rõ rệt trong giai đoạn 2010-2018. Tính trên cả vùng, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn tăng từ 10,3 triệu đồng/người/năm năm 2010 lên 27,7 triệu đồng/người/năm năm 2018 (gấp 2,69 lần). Trong số 6 tỉnh thì thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn năm 2018 của Hà Tĩnh và Thừa Thiên Huế cao nhất (lần lượt là 32,5 và 32,3 triệu đồng/người), trong khi đó Quảng Trị và Nghệ n có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất (lần lượt là 20 và 22,9 triệu đồng/người). 40 32 017 30 20 10 32 16 09 30 015 009 10 28 015 09 20 28 013 10 23016 07 15 20 10 10 009 5 0 0 Hà Tĩnh Thừa Thiên Quảng Bình Thanh Hóa Bình quân Huế 2010 2018 Nghệ An Quảng Trị Tốc độ tăng thu nhập bình quân hàng năm Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của các tỉnh Biểu đồ 5. Thu nhập bình quân đầu người giai đoạn 2010-2018 62 Về tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người hàng năm giai đoạn 2011-2018, Hà Tĩnh cũng có tốc độ tăng nhanh nhất, bình quân 17,16%/năm. Thừa Thiên Huế và Quảng Trị có tốc độ tăng chậm nhất (lần lượt là 8,93 và 9,19%/năm). So với khu vực thành thị, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn có tốc độ tăng bình quân hàng năm nhanh hơn (13,1%/năm so với 12%/năm). Khoảng cách thu nhập giữa thành thị - nông thôn cũng được thu hẹp, năm 2010 khoảng cách thu nhập bình quân giữa thành thị - nông thôn của vùng là 1,8 lần, mức này giảm còn 1,7 lần vào năm 2018. Ngoài tỉnh Thanh Hóa là có khoảng cách nới rộng từ 1,6 lần năm 2010 lên 1,96 lần năm 2018. Các địa phương còn lại đều có xu hướng thu hẹp dần, đặc biệt là tỉnh Hà Tĩnh, giảm từ 2 lần xuống 1,57 lần trong giai đoạn 2010-2018. Tỷ lệ hộ nghèo ở các tỉnh Bắc Trung Bộ đều giảm nhanh. Nổi bật nhất là Thanh Hóa với tỷ lệ hộ nghèo năm 2010 cao nhất trong vùng với 26,96% thì đến năm 2018 trở thành tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo theo tiếp cận đa chiều thấp nhất với chỉ 6,23% hộ nghèo. Quảng Trị là tỉnh còn tỷ lệ hộ nghèo tương đối cao với 12,03% số hộ là hộ nghèo. - Về môi trường, văn hóa và cảnh quan + Đời sống văn hóa, tinh thần của người dân khu vực nông thôn không ngừng được cải thiện, các địa phương đều chủ động, tích cực triển khai phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, gắn với mục tiêu xây dựng nông thôn mới, hình thành nhiều phong trào xây dựng cảnh quan, văn hóa làng, xã. Nhiều cách làm hay, sáng tạo đã được các địa phương áp dụng, trở thành những điển hình, góp phần xây dựng cảnh quan, tạo động lực, nâng cao trách nhiệm của cộng đồng trong việc xây dựng nông thôn xanh, sạch đẹp. Điển hình như phòng trào “khu dân cư kiểu mẫu”, “khu vườn mẫu” ở Hà Tĩnh, hay “con đường hoa” ở Nghệ n… Mặc dù vậy, điều kiện cơ sở hạ tầng về văn hóa ở các địa phương vẫn còn nhiều khó khăn, mới chỉ có 65,1% số xã trong vùng đạt tiêu chí về cơ sở vật chất văn hóa, thấp nhất trong 19 tiêu chí. Thấp nhất là tỉnh Quảng Trị mới chỉ có 60,7% số xã, Nghệ n đạt 61,7%, cao nhất là tỉnh Hà Tĩnh với 73,8%. + Vấn đề sinh môi trường nông thôn được cải thiện, hoạt động thu gom rác thải sinh hoạt, xử lý rác thải sản xuất được các địa phương quan tâm. Tuy nhiên, môi trường khu vực nông thôn hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, đặc biệt là vấn đề ô nhiễm do chất thải chăn nuôi, do chế biến nông lâm thuỷ sản... Chất thải có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường trong các khu, cụm công nghiệp - làng nghề chưa xử lý được. Các mô hình thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức. Tỷ lệ số xã đạt chuẩn về tiêu chí môi trường và an toàn thực phẩm của cả vùng mới chỉ đạt 68,7%, nhiều địa phương đạt thấp như Quảng Trị chỉ đạt 59%, Thừa Thiên Huế đạt 68,3%. Sự đổi mới ở khu vực nông thôn vùng Bắc Trung Bộ là thành quả của gần 10 năm triển khai xây dựng nông thôn mới. Các địa phương đã có những cách làm sáng tạo, đặc biệt như: đầu tư hạ tầng cơ sở có trọng điểm theo hướng ưu tiên phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tạo việc làm, tăng thu nhập thực tế của người dân, đảm bảo an sinh xã hội; nhiều địa phương làm tốt công tác tuyên truyền nên người dân tích cực hưởng ứng phong trào như: Hiến đất xây dựng hạ tầng, đóng góp nguồn lực để xây dựng, nâng cấp đường làng, ngõ xóm, các gia đình tự giác đầu tư sản xuất, cải tạo nhà cửa; các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội đã phát động 63 nhiều phong trào, xây dựng kế hoạch cụ thể của tổ chức mình để thực hiện Chương trình nông thôn mới. 2.3. Phát triển OCOP gắn với kinh tế khu vực nông thôn Triển khai thực hiện Quyết định số 490/QĐ-TTg ngày 07/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2019-2020 (OCOP), cả 6 tỉnh đã ban hành Đề án/kế hoạch triển khai chương trình OCOP, hướng đến mục tiêu phát triển kinh tế khu vực nông thôn dựa trên phát triển nội lực và gia tăng giá trị. Cả vùng phấn đấu đến năm 2020 sẽ chuẩn hóa được 309 sản phẩm, phần đấu khoảng 19 sản phẩm sẽ đạt chứng nhận OCOP 5 sao, cùng với đó là hỗ trợ, thúc đẩy các tổ chức kinh tế (doanh nghiệp, HTX) tham gia sản xuất sản phẩm OCOP. Bảng 1. Mục tiêu xây dựng OCOP của các địa phương đến 2020 STT Tỉnh Số SP đƣợc tiêu chuẩn hóa Số SP đạt 5 sao 1 Thanh Hóa 50 1 2 Nghệ n 90 3 3 Hà Tĩnh 50 10 4 Quảng Bình 59 - 5 Quảng Trị 40 3 6 Thừa Thiên Huế 20 2 Tổng số Nguồn: Tổng hợp từ Đề án/Kế hoạch các tỉnh Cùng với đó, có 3 địa phương là Thanh Hóa, Hà Tĩnh và Thừa Thiên Huế đăng ký là 3/12 tỉnh triển khai thí điểm Chương trình OCOP của cả nước, với các định hướng, chủ đề khác nhau, như: Thanh Hóa phát triển OCOP gắn với định hướng phát triển Trung tâm/điểm bán hàng OCOP gắn với hệ thống du lịch địa phương; Hà Tĩnh: phát triển OCOP gắn với phát triển liên kết du lịch địa phương và khu dân cư kiểu mẫu, phát triển điểm giới thiệu sản phẩm OCOP Hà Tĩnh tại các điểm du lịch ngoài tỉnh; Thừa Thiên Huế phát triển OCOP gắn với làng nghề truyền thống, du lịch làng nghề, phát triển Trung tâm OCOP cấp tỉnh và các gian hàng giới thiệu sản phẩm OCOP tại các khách sạn lớn trên địa bàn thành phố Huế. Các địa phương đều xác định Chương trình OCOP là chương trình phát triển kinh tế quan trọng nhằm thúc đẩy kinh tế khu vực nông thôn, hướng đến phát huy lợi thế về văn hóa, du lịch và tiềm năng sản phẩm ở khu vực nông thôn, nâng cao đời sống người dân trong xây dựng nông thôn mới. 2.4. Một số điển hình về xây dựng nông thôn mới ở khu vực Bắc Trung Bộ a) Mô hình “khu dân cư kiểu mẫu” và “khu vườn mẫu” tại Hà Tĩnh - Tiêu chí 20 về xây dựng nông thôn mới ở Hà Tĩnh Ngoài 19 tiêu chí trong bộ tiêu chí của Trung ương về xây dựng nông thôn mới, xây dựng khu dân cư mẫu, vườn mẫu là tiêu chí thứ 20, tiêu chí riêng của Hà Tĩnh. Mô hình này được xem là đặc trưng, sáng tạo của Hà Tĩnh nhằm mục tiêu: khôi phục, phát 64 huy các giá trị văn hóa truyền thống, thắt chặt tình làng nghĩa xóm; các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao ngày càng được tố chức thường xuyên hơn; chất lượng gia đình văn hóa, làng văn hóa được nâng lên; ý thức văn hóa ngày càng cao, người dân ứng xử văn minh, lịch sự, tạo nên những làng quê đáng sống, an lành, trù phú. + Khu dân cư kiểu mẫu tiếp cận với 10 tiêu chí: Nhà ở và công trình phụ trợ; vườn hộ và công trình chăn nuôi; hàng rào; đường giao thông; nhà văn hóa và khu thể thao thôn; hệ thống điện; văn hóa, giáo dục, y tế; vệ sinh môi trường; hệ thống chính trị và an ninh trật tự xã hội; chấp hành pháp luật, quy ước, hương ước và các quy định khác của các tổ chức. + Khu vườn mẫu được tiếp cận với nhiều tiêu chí, cụ thể như: quy hoạch và thực hiện quy hoạch (được UBND xã xác nhận); ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật; sản phẩm vườn, gồm sản phẩm hàng hóa đảm bảo an toàn thực phẩm, sản phẩm thuộc nhóm sản phẩm nông nghiệp hàng hóa chủ lực của tỉnh; môi trường - cảnh quan, trong đó trú trọng về hàng rào xanh đạt hơn 80%, tỷ lệ cây xanh trong diện tích đất ở lớn hơn 20%, đảm bảo an toàn vệ sinh môi trường…; thu nhập từ vườn cao hơn 5 lần từ trồng lúa, thu nhập cụ thể theo quy mô… Xây dựng vườn mẫu có tính khả thi cao do mức đầu tư không lớn, các giải pháp khoa học kỹ thuật phần lớn là giải pháp thông thường đã vận hành ở nông thôn. Cụ thể như, đầu tư làm hàng rào cây xanh quanh khuôn viên, sắp xếp lại các công trình phụ trong khuôn viên hộ như: giếng nước, nhà vệ sinh, nhà ủ phân, hệ thống tưới thoát nước thích hợp, áp dụng kỹ thuật chăn nuôi dùng đệm lót sinh học giảm mùi hôi thối, dùng thuốc trừ sâu sinh học, bả sinh học để phòng trừ sâu bệnh... - Mô hình được xác định là điển hình và nhân rộng Sau 5 năm thực, Hà Tĩnh đã có 1.116/1.802 thôn có phương án - dự toán triển khai thực hiện và có 228 thôn đạt chuẩn và 8.178 vườn hộ triển khai xây dựng vườn mẫu, trong đó đã có gần 2.300 vườn đạt chuẩn. Khu dân cư kiểu mẫu, vườn mẫu trong xây dựng NTM tạo sự chuyển biến lớn về nhận thức, ý thức của người dân trong việc phát triển kinh tế vườn, chỉnh trang nhà ở, xây dựng hàng rào xanh, bảo vệ môi trường. Làm thay đổi gần như cơ bản bộ mặt nông thôn ở các khu dân cư từ hạ tầng đến cảnh quan môi trường. Hội nghị toàn quốc triển khai Chương trình xây dựng mô hình khu dân cư NTM kiểu mẫu, vườn mẫu tổ chức tại Hà Tĩnh ngày 14-15/04/2018 đã thống nhất đánh giá, nội dung khu dân cư kiểu mẫu và vườn mẫu chính là giải pháp quan trọng nhằm trực tiếp nâng cao chất lượng đời sống vật chất và giá trị hưởng thụ tinh thần của người dân nông thôn; làm rõ hơn nội hàm về xây dựng NTM ở cấp cộng đồng - khu dân cư, cũng như từng hộ dân, góp phần khẳng định vai trò chủ thể của người dân, cộng đồng và nâng cao chất lượng, tính bền vững, hiệu quả xây dựng NTM. Phó thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ đã yêu cầu các địa phương chủ động học tập kinh nghiệm của Hà Tĩnh để nhân rộng, phù hợp với điều kiện của từng nơi”. b) Mô hình xây dựng cảnh quan trong nông thôn mới ở Nghệ An Phòng trào “con đường hoa” trong xây dựng nông thôn mới được triển khai bởi Hội Phụ nữ và Đoàn Thanh niên tỉnh Nghệ An, mục tiêu là chung làm đẹp đường làng, ngõ xóm, nhằm xóa những bãi rác tự phát ven đường, góp phần bảo vệ môi trường. Ngoài trồng hoa ven đường, các chi hội phụ nữ, đoàn thanh niên còn triển khai trồng tại các nhà văn hóa, tạo cảnh đẹp cho làng quê và nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường. 65 Cùng với đó là phòng trào xóm, khối “Sáng - Xanh - Sạch - Đẹp” được phát động tại huyện Nam Đàn, huyện được chọn làm một trong 4 mô hình NTM kiểu mẫu của cả nước giai đoạn 2018-2020. Hệ thống tiêu chí cho xóm, khối “sáng – xanh – sạch – đẹp” được UBND huyện ban hành nhằm hướng đến 4 nhóm tiêu chí lớn, cụ thể là: - Sáng: gồm hệ thống điện chiếu sáng các tuyến đường trục xã, thị trấn đi quan xóm, khối..., đảm bảo an toàn, mỹ quan, hệ thống cáp quang viễn thông được được bố trí gọn gàng, đảm bảo mỹ quan; đường giao thông trục, ngõ xóm, khối được nhựa hóa, bê tông hóa, đảm bảo thoát nước, có biển báo, có hàng lang... - Xanh: cây xanh trong vườn, bờ rào được cắt tỉa gọn gàng, bố trí đảm bảo mỹ quan; khuôn viên cơ quan, tuyến đường giao thông được bố trí cây xanh tạo bóng mát, cảnh quan… - Sạch: hộ gia đình sử dụng nước hợp vệ sinh, hệ thống thoát nước đảm bảo vệ sinh, không ô nhiễm mô trường nước thải sinh hoạt, nước thải sản xuất; không có ao tù, nước đọng, ao hồ được đảm bảo cảnh quan... - Đẹp: nhà ở không có nhà tạm, nhà dột nát, kiến trúc phù hợp phong tục, tập quán, có hàng rào sạch đẹp, tạo cảnh quan làng quê; thiết chế văn hóa xóm khối được khang trang, sạch đẹp, đáp ứng các yêu cầu thể thao, văn hóa của người dân... Phong trào “sáng – xanh – sạch – đẹp” là động lực để các xóm, khối trên địa bàn huyện phấn đấu thi đua góp phần xây dựng huyện Nam Đàn trở thành huyện tiêu biểu trong xây dựng NTM kiểu mẫu của cả nước. Mặt khác, bộ tiêu chí còn là kinh nghiệm để tham khảo xây dựng các thôn, xóm NTM kiểu mẫu áp dụng ở các địa phương khác. III. TIỀM NĂNG, LỢI THẾ VÀ THÁCH THỨC CỦA KHU VỰC BẮC TRUNG BỘ 3.1 Tiềm năng, lợi thế của các địa phƣơng ở Bắc Trung Bộ Bắc Trung Bộ là khu vực có lãnh thổ kéo dài, hành lang hẹp, với địa hình gồm cả miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển và hải đảo, có đường biên giới đất liền giáp nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào dài 1.294 km, phía Đông giáp biển với tuyến đường bộ ven biển dài 700 km. Dân cư tập trung chủ yếu ở khu vực đồng bằng và ven biển. Trong vùng có khoảng 25 đồng bào dân tộc thiểu số cư trú, chiếm 12% tổng dân số trong vùng, tập trung chủ yếu ở khu vực dãy Trường Sơn. - Cơ sở hạ tầng và điều kiện tự nhiên đa dạng Bắc Trung Bộ nằm trên trục giao thông huyết mạch Bắc - Nam về đường sắt, đường bộ; có 7 quốc lộ hướng Đông - Tây nối với Lào và biển Đông; có hệ thống sân bay, nhiều cảng biển, di sản văn hóa, vườn quốc gia. Nhờ điều kiện tự nhiên phong phú, diện tích đất đai rộng lớn, đường bờ biển dài với nhiều cửa sông và đầm phá, diện tích rừng và đất rừng lớn, BTB có điều kiện thuận lợi cho phát triển đa dạng các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp. Dân cư nông thôn Bắc Trung Bộ chiếm tới 78,9% (2017), nông thôn có nhiều sắc thái đa dạng, gắn liền với truyền thống văn hóa của từng khu vực sinh sống của dân cư trong vùng. Người dân có truyền thống hiếu học, đây là nơi sinh của nhiều anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, chính trị nổi tiếng và nhiều lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Diện tích đất đai rộng lớn, đặc biệt là đất đỏ vàng ở vùng trung du miền núi, cùng với đó là hệ thống sông ngòi phong phú, đường bờ biển dài, nhiều cửa sông, đầm phá 66
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.