Vai trò của trò chơi vận động đối với sự phát triển của trẻ mẫu giáo lớn

pdf
Số trang Vai trò của trò chơi vận động đối với sự phát triển của trẻ mẫu giáo lớn 9 Cỡ tệp Vai trò của trò chơi vận động đối với sự phát triển của trẻ mẫu giáo lớn 273 KB Lượt tải Vai trò của trò chơi vận động đối với sự phát triển của trẻ mẫu giáo lớn 0 Lượt đọc Vai trò của trò chơi vận động đối với sự phát triển của trẻ mẫu giáo lớn 65
Đánh giá Vai trò của trò chơi vận động đối với sự phát triển của trẻ mẫu giáo lớn
4.1 ( 4 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

100 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI VAI TRÒ CỦA TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TRẺ MẪU GIÁO LỚN Phạm Tràng Kha, Lưu Xuân Bình Trường Đại học Thủ đô Hà Nội Tóm tắt: Trong chương trình mẫu giáo, số lượng trò chơi vận động đã giảm rất nhiều. Tuy nhiên, nhu cầu vui chơi và hoạt động thi đua, thi đấu ở trẻ vẫn rất cao; do vậy việc tổ chức hướng dẫn và sử dụng phương pháp trò chơi vào giảng dạy trong giờ thể dục và các hoạt động giáo dục khác có một vai trò quan trọng. Trò chơi vận động giúp cho trẻ nắm vững hơn những kĩ năng vận động và phát triển toàn diện các mặt: thể lực, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm, thẩm mỹ và xã hội. Từ khóa: trò chơi, vận động, trẻ mầm non… Nhận bài ngày 25.11.2019; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 25.12.2019 Liên hệ tác giả: Phạm Tràng Kha; Email: ptkha@hnmu.edu.vn 1. MỞ ĐẦU Trò chơi nói chung chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống của trẻ mầm non, vì vậy trò chơi được coi là một trong những phương tiện giáo dục quan trọng cho trẻ. Trong thực tế ở trường Mầm non, các loại trò chơi như: trò chơi học tập, trò chơi đóng vai theo chủ đề, trò chơi xây dựng, trò chơi vận động (TCVĐ)… được sử dụng thường xuyên. Trong sự đa dạng của các trò chơi dành cho trẻ, đặc biệt phải chú ý đến loại TCVĐ, vì trong loại trò chơi này, tất cả trẻ em tham gia chơi đều được thu hút vào vận động. Những vận động đó được quy định bởi nội dung và luật của trò chơi, đồng thời đạt được một mục đích nào đó đặt ra trước khi chơi, hay tự trẻ tham gia chơi đề ra. Chẳng hạn như rèn luyện kỹ năng vận động gì, quy định điều kiện của trò chơi…. Ở trường mầm non, TCVĐ vừa là phương tiện để dạy trẻ vận động, vừa là hình thức tổ chức giáo dục thể chất (GDTC) một cách tích cực, thoải mái, giúp trẻ giải quyết nhiệm vụ rèn luyện thân thể một cách dễ dàng, vừa là phương tiện để giáo dục toàn diện cho trẻ. 2. NỘI DUNG 2.1. Trò chơi vận động và vai trò của nó đối với sự phát triển của trẻ Trò chơi vận động thuộc loại trò chơi có luật. Thường do người lớn nghĩ ra và tổ chức cho trẻ chơi. Đó là loại trò chơi đòi hỏi trẻ phải phối hợp các thao tác vận động để giải TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 36/2019 101 quyết các nhiệm vụ vận động được đặt ra như là nhiệm vụ chơi, qua đó thể chất của trẻ được phát triển. Chơi là phương tiện giáo dục phát triển trí tuệ: Nội dung chủ yếu của chơi phản ánh thế giới xung quanh trẻ, và chính nhờ có chơi mà trẻ hiểu sâu sắc hơn nữa cuộc sống xung quanh. Tất cả những điều trẻ lĩnh hội được trước lúc chơi dưới nhiều hình thức hoạt động khác nhau sẽ được chính xác hơn, phong phú hơn trong quá trình chơi nhờ sự phát triển của dự định chơi, nhờ sự cụ thể hoá các động tác chơi và các vai chơi trong trò chơi… Thông qua trò chơi, những tri thức đã nắm được trước kia bắt đầu tham gia vào những mối liên hệ mới, và trẻ tập điều khiển những tri thức ấy như K.Đ. Usinxki nói: Chúng tự làm chủ những điều mà chúng biết. Chơi là phương tiện giúp trẻ lĩnh hội tri thức mới: Trong một số trường hợp khi tham gia trò chơi, dưới sự hướng dẫn của người lớn trẻ khám phá ra nhiều điều mới lạ, thú vị ở thế giới xung quanh. Trong quá trình thực hiện các thao tác chơi, hành động chơi trẻ nhận ra được một vài thuộc tính, mối quan hệ nào đó của sự vật hiện tượng. Ví dụ: trẻ hình dung ra được thế nào là to hơn, nhỏ hơn; thế nào là cao hơn, thấp hơn, gần hơn, xa hơn… Sự phát hiện ra những tri thức mới đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tính tích cực nhận thức của trẻ, thôi thúc trẻ tham gia một cách chủ động, sáng tạo trong khi chơi Trò chơi là phương tiện phát triển các quá trình tâm lý nhận thức của trẻ: Chơi không chỉ là phương tiện củng cố, mở rộng chính xác hoá biểu tượng đã có; cung cấp những tri thức mới cho trẻ mà còn là phương tiện phát triển các quá trình tâm lý nhận thức cho trẻ như: cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng và ngôn ngữ. Khi tham gia vào trò chơi, các chuẩn cảm giác về hình dạng, kích thước, màu sắc của trẻ được củng cố và chính xác hoá, nhờ đó trẻ dễ dàng thực hiện hành động chơi, nội dung chơi (phân loại đồ vật theo màu sắc…). Khi tham gia vào trò chơi, trí tưởng tượng của trẻ được phát triển mạnh mẽ. Trong quá trình chơi, đứa trẻ học thay thế đồ vật này bằng đồ vật khác; nhận đóng vai nọ, vai kia, nảy sinh hoàn cảnh tưởng tượng... để thực hiện hành động chơi, nội dung chơi. Đó là cơ sở quan trọng để nảy sinh và phát triển trí tưởng tưởng của trẻ. Thật vậy, trong khi chơi trẻ có thể làm bất cứ việc gì (nào là lái xe, chữa bệnh, vận chuyển lương thực, thu hoạch trái cây...); có bất cứ cái gì mình muốn (muốn có ngựa thì dùng chiếc gậy, muốn có ôtô tàu hoả thì chỉ cần bám vào vai nhau; trẻ hình dung sàn nhà lớp học khi thì là con đường từ đồng về làng, khi thì là đường tàu hoả “tu tu tu, xìch xình xịch”... Khi tham gia vào trò chơi, trẻ suy nghĩ về hành động chơi, thao tác chơi (làm bác sĩ thì phải làm gì, như thế nào, sử dụng vật thay thế như thế nào? Trẻ học được cách giải quyết nhiệm vụ, tìm kiếm phương tiện thích hợp nhất để thực hiện dự định đã đề ra, qua đó tư duy của trẻ được phát triển mạnh mẽ. Vui chơi còn là phương tiện phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trước hết khi tham gia trò chơi, trẻ sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp với bạn, trao đổi 102 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI suy nghĩ của mình với các bạn và nghe ý kiến của các bạn để đi đến thoả thuận trong khi chơi, đánh giá lẫn nhau..., qua đó ngôn ngữ của trẻ được phát triển. Chơi là phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ em: Trò chơi ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức, thái độ và hành vi đạo đức của trẻ. Khi tham gia vào trò chơi đứa trẻ trải nghiệm được những thái độ, tình cảm đạo đức và tập được hành vi ứng xử với người xung quanh bằng cách nhập vai của mình, qua đó trẻ học làm người. Trong khi chơi trẻ được thử sức mình, hành động như người lớn, trẻ tự mình thiết lập mối quan hệ với bạn bè trong nhóm chơi và cũng ở nhóm bạn bè này trẻ tìm được vị trí của mình, khẳng định vị trí đó giữa các bạn trong nhóm. Trẻ biết sống cùng nhau, hành động vì nhau, trong khi chơi tình bạn được củng cố, được thử thách... Nội dung chơi lành mạnh hình thành cho trẻ có thái độ tích cực đối với hiện thực, có tinh thần trách nhiệm với người khác, có lòng thương người, biết quan tâm lo lắng cho người khác... Thông qua chơi hình thành hành vi xã hội, hình thành phẩm chất đạo đức quý giá và đúng đắn của con người chân chính. Dựa vào chơi của trẻ, cô giáo cần dạy cho trẻ những quy tắc hành vi xã hội, kiểm tra xem trẻ lĩnh hội và củng cố những quy tắc đó như thế nào. Trong khi chơi, cô giáo trau dồi cho trẻ một số phẩm chất như lòng dũng cảm, tính trung thực, tính kiên nhẫn, tinh thần chủ động... Có thể nói rằng trò chơi như một mắt xích nối liền giữa trẻ với các quy tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội, nó giúp cho quá trình hình thành các phẩm chất đạo đức diễn ra tự nhiên, hiệu quả mặc dù chơi chỉ là giả vờ nhưng hiệu quả giáo dục lại rất thật, rất lớn lao. Chơi là phương tiện giáo dục thể chất cho trẻ em: Chơi mang lại niềm vui cho trẻ, làm cho tinh thần của trẻ được sảng khoái - một yếu tố quan trọng để phát triển thể chất cho trẻ, vì tinh thần sảng khoái, thoả mãn sẽ làm cho thể lực được phát triển tốt hơn. Khi tham gia vào trò chơi, các cơ quan trong cơ thể được vận động một cách tích cực, thúc đẩy sự trao đổi chất, tăng cường hô hấp và tuần hoàn máu... góp phần tăng cường sức khoẻ cho trẻ. Tuy nhiên, các vận động ấy phải diễn ra một cách hợp lý mới mang lại hiệu quả giáo dục, nếu không sẽ phản tác dụng. Chẳng hạn một vận động quá mạnh, vượt quá sức của trẻ, tư thế vận động không đúng cách... sẽ phương hại đến sự phát triển thể chất của trẻ. Vấn đề ở đây là khi lựa chọn trò chơi, cô giáo cần chú ý đến tư thế của trẻ khi chơi và nhiệm vụ chơi phải phù hợp với khả năng của trẻ. Những trò chơi phù hợp với sự phát triển của lứa tuổi sẽ góp phần phát triển và hoàn thiện các vận động cơ bản như: đi, chạy, nhảy, leo, trèo, ném, bắt và góp phần rèn luyện tố chát thể lực như: sức nhanh, sức mạnh, sức bền và sự khéo léo. Chơi là phương tiện giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em: Chơi là hoạt động phản ánh cuộc sống của xã hội. Khi tham gia trò chơi, trẻ cảm nhận được cái đẹp ở sự phong phú, đa dạng về màu sắc, hình dạng, kích thước, âm thanh của đồ vật, đồ chơi. Đặc biệt trong khi chơi, trẻ cảm nhận được vẻ đẹp trong hành vi, trong giao tiếp, ứng xử của các mối quan hệ giữa người với người, giữa người với thế giới hiện thực TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 36/2019 103 Chơi là phương tiện giáo dục lao động cho trẻ em: Khi tham gia chơi, trẻ tái tạo lại những hành động lao động qua đó mà thu nhận được những biểu tượng về lao động, về ý nghĩa xã hội và tính hợp tác của nó. Đồng thời qua tái tạo những hành động lao động của người lớn trong trò chơi mà một số kỹ năng lao động đơn giản được hình thành ở trẻ: kỹ năng lao động tự phục vụ, kỹ năng lao động trực nhật. Cũng trong quá trình chơi, dưới sự hướng dẫn của cô giáo trẻ được giáo dục một số phẩm chất đạo đức cần thiết cho người lao động tương lai: tính mục đích, tính sáng tạo lòng yêu lao động yêu thích lao động. Như vậy có thể nói, chơi là phương tiện giáo dục toàn diện cho trẻ. Nhà giáo dục cần khai thác thế mạnh của hoạt động vui chơi trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ em. Hãy tạo ra môi trường thuận lợi để trẻ được chơi một cách chủ động sáng tạo và chơi hết mình. Đối với trẻ thơ, chơi là cuộc sống của trẻ. Tổ chức cho trẻ chơi là mang lại hạnh phúc cho tuổi thơ, tạo điều kiện cho trẻ phát triển một cách tự nhiên nhất. 2.2. Trò chơi vận động cho trẻ 5-6 tuổi 2.2.1. Đặc điểm trò chơi vận động cho trẻ 5-6 tuổi TCVĐ là trò chơi có tổ chức, có mục đích cụ thể. Nội dung chơi chứa đựng các nhiệm vụ rèn luyện, hoàn thiện các vận động cơ bản, các tố chất thể lực cho trẻ. Trong TCVĐ, các nhiệm vụ vận động được giải quyết như một nhiệm vụ thực hành dưới dạng trò chơi. Chính vì vậy, trẻ vận động một cách tích cực, vui vẻ, thoải mái. Đa số các TCVĐ dành cho lứa tuổi mầm non là những trò chơi mang tính chủ đề, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và khả năng tư duy tưởng tượng của trẻ. Những chủ đề của trò chơi thường được lấy từ thực tiễn xung quanh và thể hiện những hình ảnh về các hiện tượng thiên nhiên, xã hội, các hành vi của con vật. Do đó trò chơi vận động mang tính hiện thực. Khi tham gia TCVĐ, trẻ phải tập trung chú ý, ghi nhớ những lời giải thích của cô (về nội dung chơi, luật chơi, cách chơi) để giải quyết các nhiệm vụ chơi. Do vậy, đặc điểm nổi bật của TCVĐ là đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa quá trình nhận thức và vận động. Mỗi TCVĐ đều có 3 bộ phận liên quan chặt chẽ với nhau: nội dung chơi, hành động chơi và luật chơi. + Nội dung chơi là nhiệm vụ vận động mà trẻ phải thực hiện. Đó là những vận động cơ bản phù hợp với lứa tuổi và được thể hiện dưới dạng hành vi vận động của con vật mà trẻ biết: con gà, con chim, con ếch, con chuột, con mèo… hoặc những phương tiện đồ dùng xã hội: đoàn tàu, xe ôtô, tàu thuỷ, máy bay… Nội dung vận động được hình tượng hoá như vậy sẽ lôi cuốn sự hứng thú, tích cực của trẻ và trẻ tiếp nhận dễ dàng hơn. + Hành động chơi là hệ thống những động tác (thao tác) vận động mà trẻ phải thực hiện trong quá trình chơi. Hệ thống các động tác vận động thường có những lời ca, tiếng hát có vần có nhịp đi kèm: trẻ vừa hát vừa chạy nhảy, vừa hát vừa bò… 104 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI + Luật chơi là những quy định, quy ước mà trẻ phải tuân theo trong khi chơi. Luật chơi ở đây không gò đứa trẻ vào một khuôn mẫu cứng nhắc song nó trở thành động cơ thúc đẩy trẻ vận động tích cực. Ví dụ, trong trò chơi “Cáo và Thỏ”, nếu con thỏ nào bị cáo bắt hoặc vào nhầm hang thì phải ra ngoài một lần chơi. Hay trong trò chơi “Chó sói xấu tính” nếu ai không chạy kịp về chuồng của mình thì bị sói bắt… Trong TCVĐ, mọi trẻ đều được tham gia. Có hoạt động tập thể nên có sự ganh đua, trong đó yếu tố thắng - thua đã kích thích tính tích cực vận động của trẻ. Nói đúng hơn, kết quả chơi đã thúc đẩy trẻ tích cực vận động, song điều lí thú hơn là dù thắng hay thua, mọi trẻ đều vui vẻ thoải mái, không hề buồn bã. Quan sát các cháu chơi trò chơi “Chó sói xấu tính” ta thấy những chú thỏ bị bắt và phải làm sói ở lần chơi tiếp theo không hề buồn bã mà còn tỏ ra khoái chí vui cười thoải mái. 2.2.2. Phân loại trò chơi vận động Dựa vào các tiêu chí khác nhau, có nhiều cách phân loại TCVĐ khác nhau - Dựa vào nguồn gốc của TCVĐ, người ta chia TCVĐ thành 2 nhóm cơ bản: + Nhóm TCVĐ dân gian: Đó là những TCVĐ có từ lâu đời, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ vùng này sang vùng khác và được xem như là thể loại văn hoá dân gian. Khó mà tìm ra được ai là tác giả của trò chơi này và không xác định được ngày, tháng, năm ra đời của chúng. TCVĐ dân gian ở mọi thời đại đều luôn hấp dẫn trẻ em. Ví dụ, trò chơi “Kéo co”, “Bịt mắt bắt dê”, “Mèo đuổi chuột”, “Nhảy dây”, “Thả đỉa ba ba”, “Chi chi chành chành”... luôn sống mãi với thời gian và được trẻ đón nhận một cách tích cực. + Nhóm TCVĐ mới: Đó là những trò chơi được các nhà giáo dục thiết kế - xây dựng. Những trò chơi mới có thể biết tác giả, ngày, tháng, năm ra đời. Dựa vào nội dung, nhiệm vụ vận động của trẻ, người ta thiết kế một số trò chơi vận động nhằm giải quyết nhiệm vụ vận động một cách vui vẻ, thoải mái, tích cực. Ví dụ, trò chơi “Quạ và gà con”, “Chó sói xấu tính”, “Nhổ củ cải”, “Chuyền bóng”… - Dựa vào tính chất của TCVĐ, người ta chia TCVĐ thành 2 nhóm: + Nhóm TCVĐ theo chủ đề. Đó là những trò chơi được xây dựng trên cơ sở những kinh nghiệm, những ấn tượng và những hiểu biết của trẻ về cuộc sống xung quanh. Nội dung chơi, hành động chơi, luật chơi (quy tắc chơi) trong trò chơi này được diễn ra theo chủ đề. Ví dụ, trò chơi “Quạ và gà con”, “Mèo đuổi chuột”… Chủ đề chơi, quy tắc chơi xác định tính chất vận động của trẻ trong khi chơi, và các vận động này thường mô phỏng lại các hành động, các thao tác theo vai: “vai sói” “vai quạ” “vai mèo”… đuổi bắt, “vai gà” “vai chuột” “vai thỏ” chạy trốn. Nhóm TCVĐ theo chủ đề phần lớn là những trò chơi tập thể, số lượng trẻ có thể khác nhau (từ 5- 30 trẻ), điều đó cho phép nhà giáo dục sử dụng trò chơi này với các lứa tuổi khác nhau, trong những điều kiện với những mục đích khác nhau. TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 36/2019 105 + Nhóm TCVĐ không theo chủ đề. Đó là những trò chơi được xây dựng chủ yếu từ những vận động cơ bản của trẻ. Những vận động này không diễn ra dưới dạng mô phỏng lại các hành động, thao tác theo vai mà do nhiệm vụ chơi, luật chơi quy định. TCVĐ không theo chủ đề có nhiều loại: TCVĐ không theo chủ đề loại “đuổi bắt”. Loại trò chơi này rất gần với TCVĐ theo chủ đề, chỉ khác là không có hình ảnh nhân vật để trẻ mô phỏng. Trò chơi này được xây dựng chủ yếu từ những vận động đơn giản, thường là vận động “chạy” kết hợp với vận động bắt. 2.2.3. Ý nghĩa của trò chơi vận động Nhờ có sự vận động một cách tích cực, hứng thú mà quá trình trao đổi chất của trẻ được tăng cường, hệ tuần hoàn hô hấp, tiêu hoá hoạt động tích cực hơn; hoạt động của hệ thần kinh được linh hoạt bền bỉ hơn, cơ bắp được phát triển mạnh mẽ. TCVĐ góp phần phát triển sự tập trung chú ý, trí nhớ, tư duy tưởng tượng và cảm xúc tình cảm cho trẻ em. Để tham gia trò chơi, trẻ phải tập trung nghe cô giới thiệu nội dung chơi, luật chơi làm cho tri giác, trí nhớ có chủ định của trẻ được phát triển. Khi tham gia trò chơi, trẻ tích cực sáng tạo giải quyết các nhiệm vụ chơi, tình huống chơi trong hoàn cảnh tưởng tượng nhờ đó mà tư duy, trí tưởng tượng của trẻ được phát triển. Những TCVĐ có kèm lời ca, tiếng hát mô tả động tác vận động làm cho ngôn ngữ của trẻ được phát triển. Thực hiện hành động chơi, nhất là hành động chơi theo vai (vai quạ, vai gà con, vai gà mẹ) và kết thúc chơi (ai thắng, ai thua…) mang lại niềm vui vô bờ bến, qua đó xúc cảm, tình cảm của trẻ được phát triển (trẻ lo lắng, chạy thật nhanh khi “quạ” đuổi; vui sướng khi chạy đến bên mẹ, không bị bắt…). Khi tham gia TCVĐ, những biểu tượng về thế giới xung quanh: đặc điểm hoạt động lao động của người lớn, cách thức di chuyển của con vật, của phương tiện giao thông… được mở rộng và củng cố. TCVĐ còn ảnh hưởng đến tính cách và khí chất của trẻ. Trong khi chơi, trẻ thể hiện hành vi, đạo đức, tính cách của mình, trẻ phải tuân theo quy tắc (luật) của trò chơi. Những quy tắc đó điều khiển hành vi của trẻ, tạo điều kiện để trẻ hợp tác với nhau trong khi chơi, hình thành ở trẻ tính trung thực, lòng dũng cảm, tính kiên trì… Thực tế cho hay rằng, trong công tác GDTC cho trẻ ở trường MN, người ta thường tổ chức TCVĐ hoặc ít ra là đưa yếu tố chơi vào các bài tập thể dục, các vận động cơ bản để trẻ thực hiện một cách hứng thú. Cũng là động tác thở, cô tổ chức dưới dạng trò chơi bắt chước tiếng gà gáy “ò ó o…” hoặc ngửi hoa… Bài tập phát triển chung được triển khai một cách nhẹ nhàng, ví dụ “Trồng nụ, trồng hoa”: Trẻ chụm 5 đầu ngón tay lại, nâng cánh tay ngang vai, bàn tay xoè ra (“một hoa”… là động tác vai). Khi làm động tác lườn, cô đưa trẻ vào tình huống thiên nhiên “gió thổi, cây nghiêng” để vặn mình sang hai bên, thậm chí động tác diễn ra không đúng với logic thực tế mà trẻ không hề ý thức được (gió thổi sang trái nhưng “cây” lại nghiêng sang phải). 106 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI TCVĐ còn là phương tiện để chống mệt mỏi, căng thẳng của trẻ trong hoạt động học tập. Trong quá trình chơi TCVĐ, không những sự căng thẳng thần kinh được giảm bớt mà cơ thể trẻ còn được “nạp thêm” năng lượng, tăng cường thêm khả năng tập trung trong hoạt động. Do vậy người ta thường dùng TCVĐ để chuyển tiếp giữa các hoạt động. 2.3. Vai trò của giáo viên trong việc tổ chức TCVĐ cho trẻ 5-6 tuổi. Hiệu quả của hoạt động vui chơi phụ thuộc khá lớn vào công tác tổ chức, hướng dẫn của giáo viên. Để hướng dẫn trẻ chơi có hiệu quả, giáo viên phải thực hiện tốt các vai trò sau đây: - Lập kế hoạch tổ chức trò chơi cho trẻ. Kế hoạch tổ chức trò chơi cho trẻ phải phù hợp với mục tiêu, nội dung, chủ đề giáo dục, phù hợp với độ tuổi, phù hợp với thời gian, thời điểm tổ chức trò chơi cho trẻ, phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của trường, lớp… - Tổ chức trò chơi cho trẻ ở các thời điểm khác nhau trong ngày ở trường mầm non. Cụ thể là: + Tạo môi trường chơi phù hợp với chủ đề giáo dục, với nội dung chơi, với độ tuổi của trẻ nhằm kích thích hứng thú chơi của trẻ. + Hướng dẫn trẻ chơi một cách tích cực, chủ động sáng tạo trong các góc + Theo dõi quá trình chơi của trẻ, cổ vũ động viên trẻ chơi tích cực, sáng tạo + Tạo tình huống để trẻ hợp tác với nhau trong các nhóm và giữa các nhóm với nhau. + Rèn luyện cho trẻ một số thói quen cần thiết trước khi chơi (tự lấy đồ chơi, vật liệu chơi) trong khi chơi (vui vẻ, hết mình, hợp tác với bạn, không tranh dành đồ chơi, phá quấy bạn khi chơi), kết thúc chơi (cất dọn đồ chơi vào nơi quy định…) - Nhận xét đánh giá trẻ chơi. Nhận xét diễn ra trong suốt quá trình chơi của trẻ. Phương châm của nhận xét đánh giá là động viên khích lệ trẻ chơi hết mình, chơi tích cực sáng tạo. Do vậy phải diễn ra một cách nhẹ nhàng thoải mái và kịp thời. Để tổ chức cho trẻ chơi tốt, rèn luyện thể lực tốt, người giáo viên phải có năng lực sư phạm tốt. Năng lực sư phạm của người giáo viên bao gồm: năng lực tri giác- óc quan sát sư phạm; năng lực xây dựng- nhìn thấy được kết quả hoạt động của mình, đoán trước được hành vi của trẻ; năng lực lí luận dạy học- cho phép truyền đạt mọi vấn đề một cách dễ hiểu nhất đối với trẻ; năng lực biểu cảm- thể hiện qua điệu bộ, nét mặt, lời nói; năng lực giao tiếp- giúp thiết lập mối quan hệ tốt giữa cô và trẻ; năng lực tổ chức- thể hiện trong việc tổ chức sinh hoạt rèn luyện, vui chơi cho trẻ. Tính đa dạng của năng lực sư phạm và mối quan hệ giữa chúng góp phần hình thành phong cách hoạt động của người giáo viên. Để TCVĐ đáp ứng được mục đích giáo dục, rèn luyện kỹ năng vận động, cũng như đáp ứng được nhu cầu vui chơi và vận động của trẻ, cô giáo phải nắm vững tri thức về TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 36/2019 107 TCVĐ. TCVĐ là nơi tập hợp trẻ dễ nhất vì chúng đến với nhau vừa để vui chơi cho thoả thích, vừa để thoả mãn nhu cầu vận động tích cực. Điều đó có lợi cho việc rèn luyện thân thể, tránh được các trò nghịch ngợm vô ích nhiều khi còn gây ra những hậu quả nguy hại đến sức khoẻ và tính mạng của các em và tạo ra sự an toàn xã hội. Vì vậy, khi giáo viên tổ chức TCVĐ cho trẻ, cần phải đảm bảo sao cho vừa có tác dụng rèn luyện sức khoẻ, vừa phát triển được nhận thức của trẻ trong các trò chơi và hình thành được những nét tính cách cần thiết, lại vừa đảm bảo tính chất vui chơi thực sự. Việc lựa chọn TCVĐ cho trẻ cũng phải phù hợp với khả năng vận động của trẻ và có thể coi đó là phương tiện có hiệu quả để GDTC, đồng thời có thể là liệu pháp chống ỳ, một hiện tượng không tốt đã sớm xuất hiện ở một số trẻ ngày nay... Việc tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ mẫu giáo lớn có những đặc thù riêng, thường diễn ra độc lập trong từng lớp do cô giáo của từng lớp phụ trách. Ngoài ra, còn phụ thuộc vào trình độ chuyên môn, độ tinh tế nhạy bén và sáng tạo của cô giáo trong việc tổ chức vui chơi cho trẻ. 3. KẾT LUẬN Trong giáo dục thể chất, TCVĐ là một trong các hình thức cơ bản, đặc biệt đối với trẻ em lứa tuổi mẫu giáo, TCVĐ là một phương thức giáo dục nhẹ nhàng và hiệu quả nhất “Học mà chơi - Chơi mà học”. Thông qua trò chơi, các em thể hiện được khả năng của mình, khám phá và hiểu biết thêm cuộc sống đồng thời tạo ra bầu không khí đoàn kết thân ái giúp đỡ nhau trong học tập, rèn luyện. Đây là phương pháp, phương tiện rèn luyện sức khoẻ, góp phần giáo dục đạo đức nhân cách cho trẻ đạt hiệu quả cao và được trẻ đặc biệt ưa thích. Muốn trẻ hứng thú chơi và vui chơi mang lại hiệu quả giáo dục cao phải có sự hướng dẫn, tổ chức cho trẻ chơi một cách khoa học, đảm bảo được tính đặc thù của loại trò chơi, phải biết sáng tạo biết khai thác tất cả những gì đã có trong thực tế và suy nghĩ tìm tòi tạo thêm nhiều niềm vui mới cho trẻ bằng chính khả năng sư phạm, lòng yêu trẻ, yêu nghề nghiệp của mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2000), Chương trình chăm sóc giáo dục mẫu giáo và hướng dẫn thực hiện (5-6 tuổi), - Nxb Giáo dục Việt Nam. 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Chương trình giáo dục mầm non, - Nxb Giáo dục Việt Nam. 3. Hoàng Thị Bưởi (2000), Phương pháp giáo dục thể chất trẻ em, - Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. E.A. Chimôppaêva (1986), Trò chơi vận động dành cho trẻ mẫu giáo, - Nxb Trẻ. 108 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI MOTOR ACTIVITIES FOR 5-6 YEAR-OLDS CHILDREN'S DEVELOPMENT Abstract: In the kindergarten program, the number of motor activities has decreased greatly. However, the demand of playing and emulation activities in children is still very high, so the organization of guidance and use of game methods in teaching during gymnastics and other educational activities are very important. Outdoor games help children master the motor skills and comprehensively develop aspects: physical, linguistic, cognitive, emotional, aesthetic and social. Keywords: activity, exercise, preschool children...
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.