Vai trò của các yếu tố bằng lời, kèm lời và phi lời trong hội thoại

pdf
Số trang Vai trò của các yếu tố bằng lời, kèm lời và phi lời trong hội thoại 11 Cỡ tệp Vai trò của các yếu tố bằng lời, kèm lời và phi lời trong hội thoại 386 KB Lượt tải Vai trò của các yếu tố bằng lời, kèm lời và phi lời trong hội thoại 3 Lượt đọc Vai trò của các yếu tố bằng lời, kèm lời và phi lời trong hội thoại 16
Đánh giá Vai trò của các yếu tố bằng lời, kèm lời và phi lời trong hội thoại
4 ( 13 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 11 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

13, SốTr.2,29-39 2019 Tạp chí Khoa học - Trường ĐH Quy Nhơn, ISSN: 1859-0357, Tập 13, SốTập 2, 2019, VAI TRÒ CỦA CÁC YẾU TỐ BẰNG LỜI, KÈM LỜI VÀ PHI LỜI TRONG HỘI THOẠI NGUYỄN THỊ THU HẠNH Khoa Ngoại ngữ, Trường Đại học Quy Nhơn TÓM TẮT Bài báo giới thiệu một số vai trò của các yếu tố bằng lời, kèm lời và phi lời trong hội thoại. Những yếu tố này góp phần không nhỏ trong việc tạo nên một cuộc thoại hoàn chỉnh. Chúng giúp các tham thoại dễ dàng hơn trong diễn đạt ý tưởng và hiểu rõ hơn những gì đối phương ngầm muốn thông báo. Trong xã hội hiện đại ngày nay, mỗi chúng ta cần trở nên tinh tế hơn trong giao tiếp, biết tự kiềm chế những hành vi của mình và tập cách quan sát ngôn ngữ cử chỉ để hiểu rõ hơn đối tác mà ta đang tiếp chuyện. Chính những dấu hiệu này giúp chúng ta tăng thêm sức mạnh và đạt hiệu quả cao khi giao tiếp với những người xung quanh. Từ khoá: Vai trò, yếu tố bằng lời, kèm lời và phi lời, hội thoại. ABSTRACT The roles of the verbal, non-verbal and paraverbal markers in conversation The paper presents and discusses some of the roles of verbal, paraverbal and non-verbal markers in conversation. These factors contribute to creating a complete conversation. They make the participants easier in expressing ideas and better understanding what the partners want to announce. In our modern society, each of us needs to become more sophisticated in communication, self-restraint, and try to observe the body language to better understand the partner(s) we are talking to. These markers help us increase the strength and get the effectiveness in communication. Keywords: The roles, verbal, paraverbal and non-verbal markers, conversation. 1. Đặt vấn đề Trong cuộc sống hàng ngày, con người thường có nhu cầu tương tác với nhau. Chúng ta tương tác với nhau bằng nhiều cách như: nói, viết, nhắn tin hay đôi khi chỉ bằng một cái nhìn hay một cử chỉ nhỏ của tay, chân hoặc nét mặt. Xã hội càng phát triển thì người ta càng có nhiều phương tiện để giao tiếp: điện thoại, fax, email, messenger, zalo, viber... Đôi khi những tin tức chúng ta gửi cho nhau, những bộ phim chúng ta cùng xem hay ta đã xem và đề nghị bạn mình hãy xem hay những tấm ảnh cũng có thể dùng để trao đổi ý tưởng của chúng ta. Nhìn chung, phương tiện mà mỗi cá nhân trong xã hội dùng để tương tác với nhau cực kỳ phong phú và đa dạng, và các tương tác như thế ta gọi chung là tương tác xã hội (social interaction). Các tương tác xã hội có thể chia thành hai loại chính: tương tác bằng lời và tương tác phi lời. Tương tác bằng lời (verbal) là những tương tác bằng hội thoại (conversation): phỏng vấn, hội thảo, tranh luận, hội họp... Tương tác phi lời (non- verbal) là những tương tác như trong các vũ điệu, các bài thể dục tập thể, hay các tín hiệu giao thông trên đường...; Và giữa hai loại lớn này, tồn Email: hanhnguyendhqn@yahoo.com Ngày nhận bài: 21/12/2018; Ngày nhận đăng: 20/02/2019 * 29 Nguyễn Thị Thu Hạnh tại loại thứ ba gọi là tương tác hỗn hợp (mixed), là loại tương tác trộn lẫn những hành động bằng lời và những hành động phi lời được sử dụng hài hoà, đan xen trong suốt cuộc thoại. Loại tương tác này thường gặp trong khám bệnh, quán ăn, quầy tạp hoá, cửa hàng quần áo… Trong khuôn khổ của bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến các yếu tố bằng lời (verbal), kèm lời (paraverbal) và phi lời (non-verbal) trong giao tiếp (cụ thể là những đoạn thoại mà chúng tôi trích ra từ những câu chuyện ngắn), nhằm cố gắng chỉ ra tính đa kênh và các vai trò của các yếu tố này trong hội thoại. 2. Cơ sở lý luận Giao tiếp (communication) bằng ngôn ngữ là hoạt động diễn ra thường xuyên, liên tục trong cộng đồng ngôn ngữ. Giao tiếp được hiểu một cách đơn giản nhất và chung nhất là một quá trình thông tin diễn ra giữa ít nhất là hai người giao tiếp trao đổi với nhau, gắn với một ngữ cảnh và một tình huống nhất định. (Berge, 1994, tr. 67 - dẫn theo 2) Như vậy, cả ba yếu tố “quá trình trao đổi thông tin giữa hai người”, “hai người giao tiếp trao đổi với nhau”, và “gắn với một tình huống và ngữ cảnh” đều cần thiết cho một cuộc giao tiếp được thực hiện. (2, tr. 18). 2.1. Hội thoại Hoạt động giao tiếp phổ biến nhất và căn bản nhất của con người là hội thoại (conversation) (5, tr. 76). Vậy hội thoại là gì? “Hội thoại là giao tiếp. Sự giao tiếp là một hoạt động của con người trong xã hội. Vì thế khi nghiên cứu về hội thoại không thể bỏ qua những yếu tố liên quan đến con người và xã hội như tâm lý, phong tục, văn hoá, dân tộc…” (5, tr. 78). Hội thoại có thể chỉ gồm hai bên. Đó là song thoại (P: dialogue). Cũng có thể có ba bên hoặc nhiều bên. Đó là tam thoại (P: trilogue), hoặc đa thoại (P: polylogue) (5, tr. 76). Tuy nhiên trong các loại hội thoại thì song thoại là quan trọng nhất (5, tr. 77). Hội thoại có đặc tính cơ bản là giao tiếp hai chiều. Quan sát các cuộc thoại, ta thường thấy xuất hiện các cặp kế cận (adjacency pair) như: chào - chào; hỏi - trả lời; buộc tội - phủ nhận/ chấp nhận (6, tr. 119). Tuy nhiên, không phải lúc nào các cuộc thoại cũng diễn ra một cách ổn định như vậy, bởi vì lúc đó những người tham gia hội thoại đều có mặt cùng nhau, họ có quyền bày tỏ ý kiến của mình: đồng ý hay không đồng ý, hay thể hiện thái độ của mình đối với một sự việc, một lập luận nào đó. Để bày tỏ quan điểm của mình về một vấn đề nào đó mà đối phương vừa đề cập, người ta có nhiều cách để thể hiện tùy vào vai vế, vào mối quan hệ, văn hoá và cả vào nội dung câu chuyện… mà họ sẽ thể hiện như thế nào và bằng cách nào. Nói chung, họ sẽ tương tác với nhau bằng tất cả các giác quan. Vậy nên, thông tin giữa những tham thoại có thể được truyền và nhận bằng nhiều kênh như: thị giác, thính giác, khứu giác và xúc giác... Ngoài ra, ngôn ngữ không phải là phương tiện duy nhất để giao tiếp, thế nên hội thoại được tạo ra không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cử chỉ, nét mặt, ngữ điệu, âm điệu, tư thế đứng/ ngồi, và cả bằng tiếng cười hay sự im lặng... nghĩa là bằng tất cả các dấu hiệu bằng lời và phi lời. 2.2. Các phương tiện giao tiếp và vai trò của chúng Mọi cuộc thoại đều có mục đích, đều chứa đựng một hoặc nhiều chủ đề. Ở đó mỗi cá nhân còn có thể tìm thấy những mục đích riêng... Những chủ đề, mục đích có thể được biểu hiện tường 30 Tập 13, Số 2, 2019 minh hoặc ngầm ẩn đằng sau các lời thoại, thể hiện qua những hành vi tại lời hay qua những hành vi ngôn ngữ gián tiếp (5, tr. 80). Kasper và Miller (1974) (dẫn theo 6, tr. 132-133) nhận định: “Hầu hết những hiểu lầm của chúng ta đối với người khác không phải do ta không có khả năng nghe người ta nói hoặc không tiếp thu được cấu trúc cú pháp mà người ta nói hoặc không hiểu những từ người ta sử dụng… Mà do một khó khăn rất cơ bản trong giao tiếp đó là chúng ta thường không hiểu được ý định giao tiếp của người nói.” Vì vậy, những dấu hiệu phi lời đặc biệt là cử chỉ, điệu bộ, nét mặt không chỉ là phương tiện giúp người nghe giải mã, hiểu rõ hơn các thông tin được truyền đạt bằng lời nói, mà nó còn là phương tiện giúp người nói dễ dàng diễn đạt ý tưởng của mình. Phương tiện giao tiếp là tất cả các yếu tố mà con người sử dụng để thể hiện thái độ, tình cảm, mối quan hệ và những biểu hiện khác của mình trong giao tiếp. Có thể chia các phương tiện giao tiếp thành hai nhóm chính: ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ thường song hành và bổ sung cho nhau. Trong hội thoại, sự hiện diện của các tham thoại cung cấp nhiều thông tin quan trọng, ví dụ: nhìn vào cách ăn mặc, diện mạo, tư thế, tác phong, khoảng cách giữa các tham thoại trong khi giao tiếp... cũng có thể giúp ta phần nào suy đoán được về giới tính, tuổi tác, dân tộc, thành phần xuất thân và cả tính cách của các tham thoại. Trong khi giao tiếp, ngoài phương tiện bằng lời để chuyển tải thông tin, người ta còn có thể dùng cả cử chỉ, điệu bộ, nét mặt để góp phần làm cho đối phương hiểu rõ hơn những gì mình muốn thông báo hay có khi nhờ chúng mà các tham thoại có thể che dấu điều gì đó mà họ không muốn cho đối phương biết... Nhìn chung, các cử chỉ, điệu bộ, nét mặt góp phần không nhỏ trong việc giúp cho cuộc thoại được diễn ra tốt đẹp. Có ba loại đấu hiệu trong hội thoại, đó là dấu hiệu bằng lời (verbal material), kèm lời (paraverbal) và phi lời (non-verbal). 2.2.1. Dấu hiệu và vai trò của yếu tố bằng lời Dấu hiệu của những yếu tố bằng lời là những dấu hiệu thuộc về ngữ âm (phonology), từ vựng (lexicology), ngữ pháp (morpho-syntax), ở đây cụ thể là khẩu ngữ (spoken language). Khẩu ngữ là thứ ngôn ngữ được sử dụng trong hội thoại, nó là “thứ ngôn ngữ xã hội sinh động và cũng rất chuẩn mực” (5, tr. 77). Trong hội thoại, các phát ngôn đều không được chuẩn bị trước, chúng hoàn toàn là những phản ứng nhanh, tức thì nên người nói không thể làm chủ tuyệt đối những thao tác nhận thức (cognitive), không thể làm chủ được hoàn toàn những hệ thống tín hiệu mà họ đã được học; hoặc cũng có trường hợp người nói chưa thể hiện hết ý của câu đang nói thì bỗng dừng lại vì một lý do nào đó… những trường hợp này không phải là sai phạm về mặt ngữ pháp truyền thống mà đó là mục đích, là chiến lược giao tiếp của người nói. Về phía người nghe, có thể họ không phát ngôn một câu hoàn chỉnh để đáp lại người nói, mà thay vào đó chỉ là những tiếng ậm ừ, à há...; đây cũng không phải là sai phạm ngữ pháp truyền thống mà là những dấu hiệu phản hồi từ phía người nghe nhằm thông báo cho người nói biết rằng thông điệp của anh ta vẫn đang được tiếp nhận. “Thái độ, phản ứng của người nghe là những điều khiển ngược (A: back channel) tới quá trình hội thoại. Nó có vai trò đáng kể trong việc khuyến khích lượt lời tiếp tục hay chuyển hướng và dừng lại.” (5, tr. 90). 31 Nguyễn Thị Thu Hạnh 2.2.2. Dấu hiệu và vai trò của các yếu tố kèm lời và phi lời Giao tiếp là trao đổi, tiếp xúc với nhau, tuy nhiên ngôn ngữ không phải là công cụ giao tiếp duy nhất. Trong giao tiếp, nếu chỉ dùng lời nói thì có khi sẽ không đủ để diễn đạt hết ý, thỉnh thoảng làm cho cuộc thoại trở nên đơn điệu và không hấp dẫn, thậm chí đôi khi còn khó hiểu. Trong nhiều trường hợp, ngôn ngữ đóng vai trò thứ yếu. Trong những trường hợp này, thông tin không được chuyển tải bằng lời nói mà bằng năm giác quan. Người ta có thể sử dụng cử chỉ, điệu bộ để chuyển tải thông tin, ví dụ: vỗ tay, nheo mắt, cúi/ lắc/ gật đầu, nhếch mép, vỗ vai, ôm ấp... Vì vậy trong hội thoại, ngoài ngôn ngữ còn có nhiều yếu tố khác cùng tham gia giao tiếp, đó là những yếu tố kèm lời và phi lời, những yếu tố này đã góp phần không nhỏ làm cho cuộc thoại có thể diễn ra liên tục. Đối với những dấu hiệu thuộc về âm học hay thị giác như tiếng nức nở, thổn thức (sob), tiếng cười (laugh), nụ cười mỉm (smile) và cả tiếng thở dài (sigh)… đều có thể được nghe thấy và nhìn thấy. Ngoài ra, một số dấu hiệu được truyền qua kênh khứu giác (như mùi nước hoa, mùi xà phòng, mùi dầu gió…) hay qua kênh xúc giác (như cử chỉ động chạm của các tham thoại)…; tất cả chúng được xếp vào dấu hiệu phi lời và kèm lời. Một vài dấu hiệu phi lời và kèm lời được coi như là điều kiện tiên quyết để cuộc thoại có thể mở đầu, tiến triển và kết thúc. Những dấu hiệu nổi bật nhất là những dấu hiệu về khoảng cách (distance), hướng người (direction of body) và ánh mắt (look). Những dấu hiệu này đóng vai trò quan trọng trong kết cấu (structure) của tương tác, nội dung (content) của cuộc thoại và cả mặt dụng học (pragmatics). 2.2.2.1. Dấu hiệu kèm lời Theo C.K.Orecchioni (tr. 133-137), dấu hiệu kèm lời là các yếu tố như: ngữ điệu lời nói, sự ngừng (gaps, silences), nghỉ (pause, silences), cường độ cấu âm, cách nói, đặc điểm phát âm và những đặc tính khác nhau của giọng nói... Tất cả các yếu tố này được truyền qua kênh thính giác (audio channel) và chúng được sử dụng rất rộng rãi trong các cuộc thoại, góp phần làm cho các cuộc thoại trở nên phong phú và đầy màu sắc. Những dấu hiệu kèm lời là: - Cường độ, âm lực phát âm. Lại có tín hiệu âm thanh của những hành vi ngôn ngữ. Tiếng hét dù rất nhẹ cũng vẫn không phải là tiếng thì thầm, người ta vẫn nhận ra âm điệu của tiếng hét. Tiếng thì thào mạnh nhất vẫn không thể là tiếng quát. - Tốc độ trong nói năng. Trong gia đình - giữa những người có quan hệ mật thiết - người ta nói nhanh. Ngoài xã hội, khi nói những chuyện trang trọng, “chính thức” thì người ta nói chậm. - Tốc độ nối tiếp và sự chồng chéo lượt lời (turn at talk) phản ánh tính nhanh nhạy của những lời đan xen và tầm quan trọng của cuộc thoại, một quan hệ bình thản, chậm chạp hay rất khẩn trương, căng thẳng… (5, tr. 124). 2.2.2.2. Dấu hiệu phi lời Khác với các dấu hiệu kèm lời, các dấu hiệu phi lời được truyền qua kênh thị giác (visual channel). Cũng theo C.K.Orecchioni (tr. 137-138), có ba tiểu loại phi lời sau: - Dấu hiệu tĩnh (the statics) là tất cả các dấu hiệu tạo nên vẻ bề ngoài của các tham thoại, ví dụ như diện mạo, vóc dáng, nếp nhăn, vết sẹo, trang phục, cách trang điểm, đồ nữ trang, huân huy chương… 32 Tập 13, Số 2, 2019 Loại ngôn ngữ thể chất này có chức năng cung cấp cho người đối thoại những thông tin về tuổi tác (nếp nhăn, tóc bạc…), giới tính, dân tộc, tính khí và tình trạng sức khỏe… của các tham thoại. - Dấu hiệu chậm (the slow moves): chủ yếu là thái độ (nhiệt tình tiếp chuyện hay thờ ơ không muốn kéo dài cuộc thoại…) và tư thế (đứng, ngồi, khom lưng hay ưỡn ngực…) của các tham thoại khi tham gia vào hội thoại. - Dấu hiệu nhanh (the rapid moves): như cái nhìn (nhìn rụt rè, e ngại, nhìn thẳng hay không dám nhìn thẳng vào người đối thoại với mình…), cử chỉ, điệu bộ. Đặc điểm nổi bật trong hành vi giao tiếp là việc truyền đạt thông tin, không chỉ bằng các phương tiện ngôn ngữ mà còn bằng các cử chỉ, điệu bộ, nét mặt. Trong nhiều tình huống giao tiếp, mặc dù cử chỉ, điệu bộ, nét mặt... là những yếu tố bên ngoài, nhưng chúng lại là những yếu tố không thể thiếu. Trong quá trình giao tiếp, các tham thể thường quan sát các phản ứng bên ngoài của đối phương, thông qua đó họ có thể thay đổi chiến lược giao tiếp cho phù hợp với tình hình, hoặc nhờ đó họ có thể hiểu rõ hơn những gì đối phương muốn truyền đạt với họ. Ngoài ra, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt còn giúp ta biết rõ về mức độ quan hệ của các tham thể. Những cử chỉ thân mật, gần gũi hay xã giao, lãnh đạm… đều được phản ánh qua các tín hiệu vồ vập, nắm/ bắt tay nhau, vỗ vai, xoa đầu…, ánh nhìn, nét mặt, nụ cười... Nhìn chung, cử chỉ, điệu bộ của con người rất đa dạng và trên cơ sở chức năng hoạt động, các cử chỉ thay lời có thể được chia làm các loại nhỏ sau đây: cử chỉ biểu thị hành vi tiếp nhận giao tiếp, cử chỉ tương ứng với một hàm ý, cử chỉ tương ứng với một hành vi giao tiếp độc lập và sự im lặng/ tiếng cười cũng là một hành vi giao tiếp... 3. Phân tích minh họa về dấu hiệu kèm lời và phi lời Như chúng tôi đã đề cập ở trên, mỗi cuộc thoại đều có mục đích riêng của nó. Thế nên những người tham gia hội thoại có thể sử dụng tất cả các phương tiện giao tiếp để tham gia vào cuộc thoại và hoàn thành mục đích của mình. Chúng ta cùng nhau quan sát những thí dụ sau: Thí dụ 1: Bố chìa bao GALANT ra trước mắt tôi. - “Bố thuốc nước cho con đấy à? - Tôi cười: - “Đàn ông với nhau nói chuyện dễ. Con không nhặt được.” - “Thế thì ai?” Mắt bố vằn lên. - Con không biết. (8, tr. 303-304) Thí dụ 2: - “Nhà cậu là cái nhà to trắng trắng cuối làng đúng không?” Nó hỏi. Tôi gật đầu, hơi ngạc nhiên. Nó đề nghị: - Nhà tớ cũng gần đấy. Chúng mình cùng về nhé. (4, tr. 7) Trong hai ví dụ trên Mắt bố vằn lên và Tôi gật đầu là những dấu hiệu kèm lời và phi lời. Chúng đóng vai trò rất quan trọng vì không có chúng thì cuộc thoại đã không diễn ra được liên tục. Có nghĩa là, trong hai đoạn thoại trên, người bố (trong thí dụ 1) và người bạn (trong thí dụ 2) đã sử dụng cả hai loại yếu tố kèm lời và phi lời trong các cuộc thoại này để đạt được mục đích 33 Nguyễn Thị Thu Hạnh của họ: mục đích của người bố là đòi lại tấm ảnh ông chụp chung với một cô gái trẻ ở biển và ông muốn dấu, không cho ai biết về mối quan hệ ngoài luồng này, còn mục đích của người bạn là muốn kết thân với Cédric. 3.1. Dấu hiệu kèm lời Chúng ta tiếp tục quan sát những thí dụ sau: Thí dụ 3: Lạnh toát người khi nghe điều đó nhưng Trinh lập tức trấn tĩnh, nhìn thẳng vào mặt Thanh: - Ai đã đặt điều nói xấu em với anh? Người đàn ông nào? Cô gần như hét lên ở cuối câu, vì sợ hãi hơn là tức giận. - Người mà em vẫn đến, ở lại với anh ta mỗi ngày, người tên là Châu ấy! Mặt Thanh đanh lại. Rõ ràng anh không kiềm chế được nỗi tức giận. Trinh choáng cả người. Ai nói cho Thanh biết? Nhưng trước hết phải tấn công lại đã: - Tự dưng rồi anh kiếm chuyện với em, anh muốn bỏ em sao? - Em đừng đóng kịch với anh nữa. Em không biết người ta nhưng người ta lại biết em. Người bà con anh ở ngay cạnh nhà anh ta, vẫn nhìn thấy em ra vô nhà đó mỗi ngày. Chỉ mấy hôm trước khi anh về, em còn tới ở lại kia mà. Sao em mồm miệng quá vậy! Trinh chỉ muốn chui ngay xuống đất. Thanh biết cụ thể đến như vậy, làm sao chạy tội được. Nhưng cô lập tức hiểu rằng chỉ có cách duy nhất là chối. Dẫu sao thì Thanh cũng đâu có tận mắt nhìn thấy. Cô gào lên: - Anh đi nước ngoài, chơi bời chán chê rồi về đối xử với em vậy sao? - Đừng tìm cách lấp liếm. Em nghĩ anh là một thằng ngu nên muốn làm gì thì làm phải không? Anh không ngu tới mức cưới một con đàn bà lăng loàn về làm vợ đâu. (7, tr. 17-18) Ở thí dụ trên, ta thấy Trinh dùng dấu hiệu kèm lời hét lên ở cuối câu nói của mình là có mục đích riêng của cô ấy. Cô ấy hét lên không phải để cho Thanh nghe rõ hơn những gì cô ấy đang nói mà để che dấu nỗi sợ hãi của mình, che dấu không cho Thanh biết những gì cô đã làm trong thời gian anh sang Mỹ du học và để phản công lại anh, nhằm khỏa lấp sự nghi ngờ trong anh ta. Trinh cố gắng vùng vẫy trước những bằng chứng rõ ràng của Thanh về người con trai tên Châu (người mà cô ấy thường hay qua lại trong thời gian Thanh vắng mặt), cô ấy lấy lý do không phải do cô ấy đã thay lòng đổi dạ trong suốt thời gian qua, mà do Thanh: anh Thanh này vừa đi du học về, có người yêu mới bên đó rồi nên anh ta đang tìm cách gây sự với cô nhằm từ bỏ cô ta: “Tự dưng rồi anh kiếm chuyện với em, anh muốn bỏ em sao?”. Yếu tố kèm lời thứ hai mà Trinh cố tình sử dụng trong đoạn thoại này là “gào lên”. Cô ấy không thể nói chuyện với âm lượng bình thường với Thanh được vì bằng chứng về sự phản bội của cô được anh ta đưa ra quá chính xác. Cô ấy phải gào lên để khỏa lấp những minh chứng rõ ràng ấy, để che giấu tội lỗi của mình và đổ lỗi cho người khác: “Anh đi nước ngoài, chơi bời chán chê rồi về đối xử với em vậy sao?”. Trong đoạn thoại trên, ở ba lượt lời của mình, Trinh đã phải ngừng lại giây lát để suy nghĩ và thay đổi chiến thuật giao tiếp với Thanh: lần thứ nhất là ở đầu đoạn thoại này “lập tức trấn tĩnh, nhìn thẳng vào mặt Thanh” (lúc này cô còn khá bình tĩnh và đang tìm cách che dấu sự thật), lần thứ hai là sau khi Thanh nhắc đến người tên Châu, “Trinh choáng cả người. Ai nói cho Thanh biết? Nhưng trước 34 Tập 13, Số 2, 2019 hết phải tấn công lại đã” (lần này thì cô đã mất bình tĩnh nhưng vẫn còn đủ khôn ngoan để phản công lại Thanh) và lần thứ ba cao trào hơn, khi Thanh đưa minh chứng cụ thể về việc cô thường xuyên lui tới thậm chí ngay trước ngày anh về vẫn còn lui tới nhà người tên Châu đó, thì “Trinh chỉ muốn chui ngay xuống đất. Thanh biết cụ thể đến như vậy, làm sao chạy tội được. Nhưng cô lập tức hiểu rằng chỉ có cách duy nhất là chối.” (dù quá mất bình tĩnh trước chứng cứ cụ thể, rõ ràng của Thanh nhưng cô biết rằng cô không còn cách nào khác là chối tội, vì người ta nói “Trăm nghe không bằng mắt thấy”, biết đâu Thanh sẽ suy nghĩ lại vì những bằng chứng anh đưa ra là anh nghe từ người khác chứ không phải anh tận mắt chứng kiến. Thế nhưng, dù Trinh có cao thủ trong chối tội và phản công cỡ nào cũng không thể tạo lại được niềm tin trong Thanh và anh đã nói thẳng thừng: “Đừng tìm cách lấp liếm...” Thí dụ 4: Kịch bản đổ hết rồi, những gì cô tính trong đầu không có cơ hội thực hiện nữa. Nhưng Trinh không bao giờ cam chịu thất bại. Cô nói thật to cốt để người trong nhà nghe được: - Em đến báo cho anh biết em đã từ hôn với Thanh… và tính chuyện của bọn mình… - Chuyện gì, em nói tính chuyện gì? Giọng Châu tỏ ra hoàn toàn không can dự vào những gì Trinh đang nói. Điều này khiến cô như điên lên. (7, tr. 20) Thí dụ 5: - Anh là một thằng đểu! Anh đã lừa dối tôi, lợi dụng tôi! Trinh gào lên, hài lòng thấy cô gái trong nhà đang thò đầu ra nghe ngóng. (7, tr. 20) Rõ ràng, Cô nói thật to trong thí dụ 4 và Trinh gào lên trong thí dụ 5 là những yếu tố kèm lời và chúng được sử dụng vì mục đích (hay còn gọi là chiến lược) của cô gái tên Trinh. Cô nói to và gào lên như vậy để cho cô gái trong nhà nghe thấy nội dung câu chuyện mà cô đang nói với Châu, và cô thật sự thỏa mãn khi biết chắc chắn rằng cô gái trong nhà đang theo dõi câu chuyện này (vì thấy cô gái trong nhà đang thò đầu ra nghe ngóng). Và cách nói chuyện cũng như âm điệu trong lời nói của Châu thể hiện rằng anh ta không quan tâm cũng không liên can gì đến sự việc mà Trinh vừa thông báo: Giọng Châu tỏ ra hoàn toàn không can dự vào. 3.2. Dấu hiệu phi lời a) Cử chỉ biểu thị hành vi tiếp nhận giao tiếp Thí dụ 6: Chị ngoảnh lại. Nhìn anh rất nhanh. Rồi nhìn ra đầu giường, chỗ để chiếc đèn ngủ. Có một cặp tóc nhỏ và một lọ sơn móng tay màu hồng, hỏi: - Tháng sau, cô ta sẽ về đây? Anh thở dài. - Cô ta có ghét thằng bé không? Anh thở dài. - Thằng bé có ghét cô ta không? Anh lại thở dài và gật. 35 Nguyễn Thị Thu Hạnh - Sẽ ra sao? Anh im lặng, lại thở dài. Rồi nói: - Sẽ quen. (7, tr. 114) Ở thí dụ trên, cử chỉ thở dài và gật của anh là kết quả của một hành vi tiếp nhận những câu hỏi của chị, vợ cũ của anh, chứng tỏ rằng dù anh không trả lời thẳng thắn những câu hỏi của chị nhưng anh đã nghe chúng rất rõ ràng và có lẽ những câu hỏi của chị làm cho anh thật sự khó trả lời lúc này (có thể hiển ngôn cử chỉ thở dài của anh bằng câu trả lời: “Vâng” hay “Có”). b) Cử chỉ tương ứng với một hàm ý Quan sát những thí dụ sau đây: Thí dụ 7: Khi chuông đồng hồ thả chín nhịp chuông. Chị ngó vào. Nháy mắt với hai thằng. Ngó nghiêng một lượt, chờ thằng anh xếp gọn sách vở vào cặp rồi tắt điện. Đóng cửa. (7, tr. 110) Thí dụ 8: Chị nói, giọng khản đặc: - Sang đó, ba năm tôi có thể đón con. Anh lắc đầu, cười rất nhạt trong những quầng khói đục: - Đến ngày mai thế nào còn chưa dám nói trước huống hồ là những ba năm sau. - “Con ở với mẹ vẫn tốt hơn.” Chị cố gắng. Anh lắc đầu. Cười mỉa mai chế giễu trên khuôn mặt trắng bệch. Và bấm nút điều khiển tivi. (7, tr. 118) Trong hai thí dụ trên, cử chỉ nháy mắt, lắc đầu, cười nhạt, cười mỉa mai chế giễu đều là những cử chỉ tương ứng với một hàm ý. Cử chỉ nháy mắt của chị ở thí dụ 7 có hàm ý “Đến giờ đi ngủ rồi, các con phải tắt đèn đi ngủ thôi”. Còn cử chỉ lắc đầu, cười nhạt, và cười mỉa mai chế giễu của anh trong thí dụ 8 khi nói chuyện với chị về việc đón con sang nước ngoài đoàn tụ với mẹ và anh trai có hàm ý là “Tôi không tin những gì cô nói. Đến thân cô, chưa chắc cô đã lo nỗi, nói chi đến chuyện đón con sang. Cuộc sống xứ người đâu phải dễ dàng gì, đến ngày mai còn chưa biết ra sao, nói chi đến ba năm.” Người phát tin trong các thí dụ trên hiểu được ý nghĩa của các cử chỉ của đối phương và yên tâm thực hiện tiếp các hành vi lời nói của mình. Vì vậy, chính các cử chỉ biểu thị hành vi giao tiếp đã làm nhiệm vụ liên kết các lời nói (ở đây là hành vi tiếp nhận và lời nói diễn đạt nội dung) lại với nhau. c) Cử chỉ tương ứng với một hành vi giao tiếp độc lập Thí dụ 9: Thằng anh cứ đứng ở hàng ghế thứ năm như bị thôi miên bởi lão béo bụng. Chị gọi to: - Con ơi, ghế của mình ở đây cơ mà. Xuống đây. Thằng anh nhìn mẹ mắt đầy nước. Nó lắc đầu tuyệt vọng. - “Dưới này cơ mà con.” Chị lại gọi. Nó vẫn lắc đầu, nhìn người đàn ông đầy vẻ kinh hãi. Rồi nhìn chị. Nói: 36 Tập 13, Số 2, 2019 - Con hẹn với em là ngồi ở đây. Ô cửa sổ số 5. Chị thở dài đánh sượt và ngồi phịch xuống ghế. Nước mắt ràn rụa trên khuôn mặt méo xệch. Người chồng mới đã xếp xong đồ, chui vào ghế trong. Chị cắn chặt môi, ngó ra vẫy thằng anh: - Xuống đây con. Thằng anh vẫn lắc đầu. Nó nhìn mẹ bằng đôi mắt mở to chưa từng thấy bao giờ. Rồi lại nhìn qua ô cửa kính đã bị lão béo kéo sập tấm chắn nóng xuống và đang nhắm mắt ngủ. Thằng anh chồm người qua một người khách bên ngoài. Chồm qua lão béo. Đấm như điên vào ô cửa tròn đã đóng. Lão béo giật mình. Ngơ ngát và hiểu ra. Rồi lấy tay đẩy tấm nhựa trắng lên. Thằng anh vừa đấm vào ô cửa, vừa hét trong những giọt nước mắt: - Bé ơi. Có thấy anh không? Anh đang ở đây này. Phía sau. Chị cúi gục, khóc ngất đi. (7, tr. 122-123) Ở thí dụ trên, hành động liên tục lắc đầu của thằng anh nhằm thông báo cho người mẹ biết rằng: “Con không xuống hàng ghế dưới ngồi với mẹ đâu”. Các cử chỉ nhìn mẹ mắt đầy nước, lắc đầu, rồi nhìn, vẫn lắc đầu, nhìn mẹ bằng đôi mắt mở to, lại nhìn qua ô cửa kính, đấm như điên và vừa đấm, vừa hét của thằng anh hàm ý muốn cho người mẹ hiểu rằng: “Con đang rất buồn vì phải xa em trai và không biết đến bao giờ hai anh em mới có thể gặp lại nhau. Con đã hẹn với em là con sẽ ngồi ở hàng ghế thứ 5 và con sẽ ở đây cho em có thể nhìn thấy con.” Một thông báo có thể được đồng thời thể hiện bằng hai cách khác nhau, trong đó phần thông báo chính là do cử chỉ đảm nhiệm, còn phần hiển ngôn “Con hẹn với em là ngồi ở đây. Ô cửa sổ số 5.” Có nhiệm vụ cung cấp thông tin giải thích thêm. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, cử chỉ được sử dụng như một phương tiện diễn đạt hàm ý rất đắc dụng, nó giúp các tham thoại hiểu được thông tin hàm ẩn một cách chính xác và đúng đắn. d) Sự im lặng/ tiếng cười là một hành vi giao tiếp Ngoài ra, sự im lặng hay tiếng cười trong giao tiếp cũng là hành vi ngôn ngữ. Chúng có thể được xem là một chiến lược giao tiếp. Chúng có thể thể hiện sự phản đối, sự đồng tình, đôi khi chúng làm đối phương lúng túng, bối rối mà bộc lộ ra những điều còn che đậy (5, tr. 90). Vì vậy, sự im lặng hay tiếng cười cũng có thể tạo thành một lượt lời. Thậm chí trong giao tiếp đôi khi có thể xảy ra liên tiếp những lượt lời là sự im lặng hay tiếng cười. Quan sát những thí dụ sau: Thí dụ 10: - Tự nhiên anh muốn nói chuyện với em. Anh ít khi tâm sự với ai lắm. Trân hỏi: - Vợ anh chẳng hạn? Anh cười, một nụ cười khó tả nhưng đủ để Trân hiểu rằng vợ anh là một cái gì đó mà anh ta cần phải có nhưng cũng chẳng giải quyết được việc gì ngoài sự mêt mỏi. Anh nói: - Em phải thoát khỏi cuộc sống này đi. Đời người ngắn ngủi lắm. Em đã không thích cái gì thì cố gắng đừng làm mà phí thời gian, phí sức. Trân hỏi: - Tại sao anh biết? Anh cười. (7, tr. 100-101) 37 Nguyễn Thị Thu Hạnh Thí dụ 11: Phía sau bức vách vẳng lên một giọng nói mệt nhọc: - Đứa nào về đó bay? Thuyền hỏi: - Má bịnh hay sao mà đi ngủ sớm vậy má? Tụi nó đâu hết rồi? Giọng nói sau vách dằn dỗi: - Má con bay có đứa nào đi đâu mà thèm nói với tao. Thuyền hơi mỉm cười, chị khom người lách vào sau tấm màn cửa nhỏ. (7, tr. 210) Thí dụ 12: - Tụi nó đi từ hồi trưa biểu không về ăn cơm nên chiều khỏi nấu. Má ăn cơm nguội rồi. Thuyền bứt rứt im lặng. Người mẹ vẫn nắm bàn tay con gái: - Con đi tắm đi, má có nấu nồi lá xông hồi nãy, tắm nước đó mau giã rượu. Thuyền ứa nước mắt, chị rụt tay lại, vùng vằng: - Con có say sưa hồi nào mà má lo? Người mẹ quay người vào phía trong: - “Ờ, má sai, má xin lỗi.” Bà thở dài. Im lặng. Có tiếng muỗi bay vo ve phía chân giường. (7, tr. 210) Cử chỉ cười, mỉm cười hay im lặng của hai thí dụ trên là chiến lược giao tiếp của các tham thoại. Trong thí dụ 10, anh hai lần cười nhằm né tránh các câu hỏi của Trân: “Vợ anh chẳng hạn?” hay “Tại sao anh biết?”; hoặc trong thí dụ 11, cô con gái Thuyền mỉm cười nhằm né tránh câu trách giận của người mẹ: “Má con bay có đứa nào đi đâu mà thèm nói với tao.” Và cử chỉ bứt rứt im lặng hay im lặng trong thí dụ 12 nhằm che đậy cảm xúc của cô con gái với việc để mẹ già đau ốm ở nhà ăn cơm nguội, và nỗi chạnh lòng, sự xót xa của cô trước lời xin lỗi của mẹ già khi thể hiện sự chăm lo, quan tâm mà lại gặp phải phản ứng vùng vằng của cô. Tóm lại, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt… là những yếu tố của một hệ thống tín hiệu. Chúng rất phong phú, đa dạng, phức tạp và có những đặc trưng riêng. Chúng góp phần không nhỏ trong việc xây dựng nên một cuộc thoại hoàn chỉnh. Để đạt được mục đích của mình trong giao tiếp, các tham thoại có thể sử dụng luân phiên hoặc đồng thời các yếu tố bằng lời, kèm lời và phi lời này. 4. Kết luận Trong giao tiếp, phương tiện chuyển tải thông tin không chỉ là ngôn từ mà còn có cả những phương tiện khác. Chúng ta giao tiếp bằng toàn bộ cơ thể của chúng ta, bằng tất cả các giác quan mà chúng ta có. Nghĩa là, bên cạnh những phương tiện bằng lời còn có những yếu tố kèm lời và phi lời. Những dấu hiệu phi lời xuất hiện song song với các dấu hiệu bằng lời và cùng với các dấu hiệu bằng lời hình thành nên một hệ thống giao tiếp trọn vẹn, đúng như Abercrombie (dẫn theo 1, tr. 150) nói: “Chúng ta nói bằng cơ quan phát âm nhưng chúng ta hội thoại bằng toàn bộ cơ thể của chúng ta”. Các yếu tố bằng lời, kèm lời và phi lời tuy khác nhau về đặc tính nhưng chúng bổ sung cho nhau và đều có tầm quan trọng như nhau trong hội thoại. Các tham thoại có thể linh hoạt sử dụng 38
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.