Trao đổi kinh nghiệm - Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2

pdf
Số trang Trao đổi kinh nghiệm - Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2 27 Cỡ tệp Trao đổi kinh nghiệm - Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2 341 KB Lượt tải Trao đổi kinh nghiệm - Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2 0 Lượt đọc Trao đổi kinh nghiệm - Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2 17
Đánh giá Trao đổi kinh nghiệm - Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2
4.7 ( 19 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 27 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Trao đổi kinh nghiệm MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG NÓI TRONG GIỜ DẠY TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH LỚP 2 A. Nêu vấn đề. I – Lý do chọn đề tài. 1. Thực hiện nhiệm vụ , mục tiêu SGK Tiếng Việt 2 năm 2000 Cũng như bộ SGK Tiếng Việt tiểu học cải cách giáo dục cũ, bộ SGK Tiếng Việt tiểu học mới tổ chức rèn luyện kỹ năng sử dụng Tiếng Việt cho học sinh thông qua các phân môn Tập đọc, Từ ngữ - Ngữ pháp, Chính tả, Tập viết, Kể chuyện và Tập làm văn . Phân môn Tập đọc rèn cho học sinh các kỹ năng đọc (đọc thành tiếng, đọc thầm, đọc hiểu, đọc diễn cảm) , nghe và nói. Bên cạnh đó, thông qua hệ thống bài đọc theo chủ điểm và những câu hỏi , những bài tập khai thác nội dung bài đọc, phân môn Tập đọc cung cấp cho học sinh những hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người, cung cấp vốn từ, vốn diễn đạt, những hiểu biết về tác phẩm văn học (như đề tài, cốt truyện, nhân vật,... ) và góp phần rèn luyện nhân cách cho học sinh. Phân môn Từ ngữ - Ngữ pháp, được gọi bằng tên mới là Luyện từ và câu, cung cấp những kiến thức sơ giản về Tiếng việt bằng con đường quy nạp và rèn luyện kĩ năng dùng từ, đặt câu( nói, viết, ) kĩ năng đọc cho học sinh . Phân môn Chính tả rèn các kĩ năng viết, nghe và đọc. Trong giờ Chính tả, nhiệm vụ của học sinh là viết một đoạn văn ( nhìn - viết, nghe- viết, nhớ - viết) và làm bài tập chính tả, qua đó rèn luyện các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ. Các bài chính tả nhiều khi cũng cung cấp cho học sinh vốn từ, vốn hiểu biết về các mảng khác nhau của đời sống. Phân môn Tập viết chủ yếu rèn kĩ năng viết chữ. Phân môn Kể chuyện rèn kĩ năng nói, nghe và đọc. Trong giờ kể chuyện, học sinh kể lại những câu chuyện phù hợp với chủ điểm mà các em đã học (trong SGK hoặc trong các sách khác), nghe thầy, cô hoặc bạn kể rồi kể lại một câu chuyện bằng lời của mình, trả lời câu hỏi hoặc ghi lại những chi tiêt chính của câu chuyện đó. Phân môn Tập làm văn rèn cả 4 kĩ năng nghe, nói, viết và đọc. Trong giờ Tập làm văn, học sinh được cung cấp kiến thức về cách làm bài và làm các bài tập (nói, viết) xây dựng các loại văn bản và các bộ phận cấu thành của văn bản. Nhận biết được tầm quan trọng của việc đổi mới SGK lớp 2 và môn Tiếng việt ở lớp 2, là một trong những giáo viên được tiếp cận với chương trình và SGK mới, tôi vừa dạy vừa nghiên cứu để tìm ra những sáng kiến mới nhằm nâng cao nghiệp vụ chuyên môn và mong được góp sức giúp cho công tác giáo dục ngày càng phát triển và đổi mới. 2. Đáp ứng yêu cầu đổi mới trong dạy và học: Theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy và học, Tiếng việt là môn học rất cần phải tạo điều kiện cho học sinh tự giác luyện tập và rút kinh nghiệm qua thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Trong kinh nghiệm này, tôi xin đề cập đến vấn đề:” Rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2 “. 3. Phù hợp với đặc điểm của địa bàn dân cư: Trường tiểu học Cát Linh nằm ở địa bàn dân cư có mặt bằng dân trí chưa cao. Do chưa có sự quan tâm chu đáo, chặt chẽ của cha mẹ nên các em học sinh ở đây có một thực tế rất đáng quan tâm đó là các em ngại giao tiếp, giao tiếp kém hoặc có thì nói năng cộc lốc, không biết cách diễn đạt hết ý của mình. 4. Tầm quan trọng của lời nói trong giao tiếp: Không biết từ bao giờ, trải qua hàng ngàn năm tiến hoá của loài người, ngôn ngữtiếng nói từ tác dụng sơ khai là trao đổi thông tin đã đóng vai trò biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lý và là một yếu tố quan trọng biểu lộ văn hoá, tính cách con người. Việc giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được ông cha ta rất coi trọng: “Học ăn, học nói, học gói, học mở” “Lời nói không mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” Để đánh giá một con người, chúng ta cũng phải có sự thử thách qua giao tiếp hàng ngày với họ: “Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời” Mặt khác việc giao tiếp, ứng xử khéo léo cũng giúp chúng ta thành công về nhiều lĩnh vực: “ Khéo bán, khéo mua cũng thua người khéo nói” Với trẻ em, lứa tuổi đang hình thành nhân cách, ngay từ khi các em còn rất nhỏ, chúng ta đã rất chú trọng: “Trẻ lên ba, cả nhà học nói” Ngành giáo dục đào tạo nói chung và ngành giáo dục tiểu học nói riêng đã được xã hội trao cho trọng trách đáng tự hào là giáo dục trẻ em ngay từ những ngày đầu bước chân tới trường. Từ bao đời nay, việc giáo dục ở nhà trường đã áp dụng phương châm:” Tiên học lễ, hậu học văn”. Dạy Tiếng việt không có nghĩa là chỉ dạy các em kĩ năng đọc, viết, nghe mà dạy các em biết sử dụng những lời nói biểu cảm trong giao tiếp là một mảng vô cùng quan trọng. Ta thử tưởng tượng một người đọc thông, viết thạo tất cả các loại văn bản, song khi giao tiếp lại để ấn tượng xấu, không gây đươcj mối thiện cảm đối với mọi người thì con người đó có khả năng sống và làm việc có hiệu quả không? Ý thức được vai trò của việc sử dụng ngôn ngữ biểu cảm trong giao tiếp, tôi đã lựa chọn và nghiên cứu kinh nghiệm giảng dạy môn Tiếng việt: “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng việt cho học sinh lớp 2” II. Mục đích nghiên cứu: 1. Biện pháp: Tìm ra những biện pháp phù hợp nhằm giúp trẻ: trước hết mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tiếp đó là rèn những kĩ năng, thói quen dùng lời nói biểu cảm trong giao tiếp, trong các giờ luyện nói của các tiết Tiếng việt trong chương trình SGK lớp 2 năm học 2004-2005. 2. Thực trạng: Nghiên cứu thực trạng trẻ lớp 2 hiện nay có kiến thức, ý thức ra sao trong giao tiếp hàng ngày cũng như sự bày tỏ quan điểm nhận thức của bản thân,trước những vấn đề mà trẻ phải tự bộc lộ bản thân qua những lời nói, lời phát biểu trả lời theo nội dung bài học và sự giao tiếp với mọi người xung quanh ở trường, ở lớp. 3. Giải pháp: Đề xuất một số giải pháp, phương nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Việt lớp 2 theo hướng lấy học sinh làm trung tâm. III. Phương pháp nghiên cứu: Ngoài việc học hỏi đồng nghiệp tôi còn sử dụng những phương pháp sau: - Phương pháp quan sát. - Phương pháp phân tích - tổng hợp. - Phương pháp thực hành luyện tập. IV. Giới hạn nghiên cứu: Đối tượng: Học sinh lớp 2. A. Nội dung Chương I Những cơ sở lý luận I. Suy nghĩ về đổi mới phương pháp dạy học hiện nay: Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học - một yếu tố rất quan trọng nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động dạy học, giáo dục ở tiểu học. Để thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học đạt hiệu quả chúng ta cần lưu ý tiến hành đổi mới một cách đồng bộ các vấn đề sau: 1. Công tác quản lí: - Quán triệt chủ trương của ngành về đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý các cấp và giáo viên đứng lớp: “Tổ chức các giờ học, các hoạt động giáo dục đảm bảo nhẹ nhàng - tự nhiên – hiệu quả và chất lượng”. - Tăng cường hoạt động kiểm tra chuyên môn, dự giờ rút kinh nghiệm và tổ chức cho giáo viên giao lưu trao đổi và học hỏi kinh nghiệm trong và ngoài trường. - Tổ chức các cuộc thi giáo viên dạy giỏi các cấp về thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, đánh giá đúng chất lượng dạy của giáo viên. - Đổi mới cách đánh giá xếp loại học sinh. 2. Đội ngũ giáo viên: Cần từng bước chuẩn hoá đội ngũ giáo viên: trang bị giáo viên những kiến thức về đổi mới phương pháp dạy học cụ thể qua các chuyên đề, các loại bài học, các hình thức tổ chức dạy học. Đổi mới sinh hoạt chuyên môn hàng tuần ở từng khối lớp, ở tổ chuyên môn... 3. Cơ sở vật chất: Trang bị đầy đủ sách khoa, đồ dùng học tập cho cho học sinh, tăng cường sách hướng dẫn giảng dạy, thiết bị dạy học tối thiểu cho giáo viên. Trở về với mỗi giáo viên, hiện nay việc đổi mới phương pháp dạy học đang thu hút và tác động đến từng cá nhân. Mỗi tiết dạy để đảm bảo sự thành công, việc đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học đang được quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên, cần lựa chọn sao cho phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh. II. Chương trình sách giáo khoa môn Tiếng Việt lớp 2 năm học 2004- 2005: Sách được xây dựng theo 2 trục là chủ điểm và kĩ năng, trong đó chủ điểm được lấy làm khung cho cả cuốn sách, còn kĩ năng được lấy làm khung cho từng tuần, từng đơn vị học. Sách bao gồm 15 đơn vị học, mỗi đơn vị gắn với một chủ điểm, học trong 2 tuần (riêng chủ điểm Nhân dân học trong 3 tuần). Chương trình Tiếng Việt lớp 2 gồm 35 tuần lễ. Mỗi tuần học 9 tiết, học kỳ I gồm 18 tuần (162 tiết), học kỳ II gồm 17 tuần (153 tiết). Được chia làm hai tập: Sách Tiếng Việt lớp 2 tập 1, sách Tiếng Việt lớp 2 tập 2. Tập 1 tập trung vào mảng “Học sinh – Nhà trường – Gia đình” gồm 8 đơn vị học, các chủ điểm có tên gọi như sau: - Em là học sinh (tuần 1, 2). - Bạn bè (tuần 3, 4) - Trường học (tuần 5, 6) - Thầy cô (tuần 7, 8) - Ông bà (tuần 10, 11) - Cha mẹ (tuần 12, 13) - Anh em (tuần 14, 15) - Bạn trong nhà (tuần 16, 17) Tuần 9 dành để ôn tập giữa học kỳ I: Tuần 18 – ôn tập cuối học kỳ I. Tập hai tập trung vào mảng “Thiên nhiên - Đất nước”, gồm 7 đơn vị học, với các chủ điểm sau: - Bốn mùa (tuần 19, 20) - Chim chóc (tuần 21, 22) - Muông thú (tuần 23, 24) - Sông biển (tuần 25, 26) - Cây cối (tuần 28, 29) - Bác Hồ (tuần 30, 31) - Nhân dân (tuần 32, 33, 34) Tuần 27 dành để ôn tập giữa học kỳ II; tuần 35 – ôn tập cuối học kỳ II. 2. Cấu trúc của từng đơn vị học (2 tuần) Tuần thứ nhất: - Tập đọc (2 tiết): Một kể chuyện - Kể chuyện (1 tiết) - Chính tả (1 tiết) -Tập đọc (1 tiết): một văn bản thông thường. - Luyện từ và câu (1 tiết) - Tập viết (1 tiết) - Tập đọc (1 tiết): một văn bản thơ - Chính tả (1 tiết) - Tập làm văn (1 tiết) Tuần thứ hai - Tập đọc (2 tiết): Một truyện kể - Kể chuyện (1 tiết) - Chính tả (1 tiết) - Tập đọc (1 tiết): một văn bản miêu tả - Luyện từ và câu (1 tiết) - Tập viết (1 tiết) - Tập đọc (1 tiết): một truyện vui hoặc truyện ngụ ngôn - Chính tả (1 tiết) - Tập làm văn (1 tiết) Chương III: Một số giải pháp nhằm “Rèn kĩ năng nói trong giờ học Tiếng Việt cho học sinh lớp 2”. I. Phương pháp 1: Phương pháp quan sát: 1. Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu giáo dục. Nhằm quan sát giờ dạy của giáo viên và học tập của học sinh trên lớp. Đánh giá kết quả học tập của học sinh thông qua những lời phát biểu của học sinh trong giờ luyện nói của mỗi tiết học, qua lời nói của học sinh với mọi người xung quanh mọi nơi, mọi lúc qua các bài tập thực hành trong vở bài tập Tiếng Việt in. 2. Biện pháp thực hiện: - Ngoài những sổ sách do nhà trường quy định, giáo viên có thêm một quyển sổ ghi chép những điều quan sát, nhận xét từng học sinh trong lớp. Đó là cuốn sổ “Theo dõi đánh giá hành vi học sinh”. Trong cuốn sổ này, giáo viên ghi chép những hành vi, lời nói giao tiế, những thói quen tốt và cả những điểm còn khiếm khuyết của học sinh, để từ đó có cái nhìn khái quát về việc sử dụng vốn ngôn ngữ biểu cảm của học sinh. Từ đó giáo viên dễ dàng phân loại khả năng giao tiếp của từng học sinh trong lớp, qua đó lập kế hoạch bồi dưỡng nâng cao cho học sinh giỏi và học sinh xuất sắc, luyện kĩ năng nói sao cho đạt trình độ chuẩn cho học sinh khá và học sinh trung bình. Quan sát phản ánh khá trung thực tình trạng của học sinh. - Ưu điểm của phương pháp này là: Sau khi phân loại học sinh, giáo viên chọn lọc những câu hỏi, câu gợi mở sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh để các em phát huy hết khả năng giao tiếp của bản thân trong phần luyện nói của tiết học môn tập đọc và các môn khác trong chương trình. II. Phương pháp 2: Phương pháp phân tích - tổng hợp - Qua những ghi chép cá nhân của giáo viên và những số liệu thống kê, giáo viên xử ký những thông tin ấy bằng cách phân tích, tổng hợp những mẫu lời nói thu thập được từ phía học sinh. Từ đó có thể có sự đánh giá sát thực hơn về tình trạng học sinh. - Biện pháp thực hiện: Giáo viên tiến hành phân nhóm đối tượng học sinh theo các nhóm sau: a. Nhóm học sinh có lời nói lưu loát, mạch lạc. biết thể hiện lời nói biểu cảm trong giao tiếp. Đây chính là những nhóm trưởng, những người dẫn chương trình trong các giờ luyện nói trên lớp, những nhân vật nòng cốt trong các tiểu phẩm của các tiết Tiếng Việt mà học sinh tham gia rèn luyện kĩ năng nói trên lớp. b. Nhóm học sinh có lời nói tương đối trôi chảy, rõ ràng tuy nhiên chưa thể hiện được lời nói biểu cảm trong giao tiếp một cách rõ nét.
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.