Tóm tắt luận văn Thạc sỹ Luật học: Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

doc
Số trang Tóm tắt luận văn Thạc sỹ Luật học: Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 33 Cỡ tệp Tóm tắt luận văn Thạc sỹ Luật học: Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 230 KB Lượt tải Tóm tắt luận văn Thạc sỹ Luật học: Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 6 Lượt đọc Tóm tắt luận văn Thạc sỹ Luật học: Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 116
Đánh giá Tóm tắt luận văn Thạc sỹ Luật học: Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
5 ( 22 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT QUẢN THỊ NGỌC THẢO NGUY£N T¾C THÈM PH¸N Vµ HéI THÈM XÐT Xö §éC LËP Vµ CHØ TU¢N THEO PH¸P LUËT Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 62 38 01 04 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016 Công trình được hoàn thành tại: Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí 2. PGS.TS Nguyễn Tất Viễn Phản biện 1: ........................................................................... Phản biện 2: ........................................................................... Phản biện 3............................................................................. Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Đại học Quốc gia tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội Vào hồi…………giờ…..…ngày…… tháng……. năm 2016 Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Trung tâm Thông tin - Thư viện Đại học Quốc Gia Hà Nội MỞ ĐẦU 1. Tính cần thiết của việc nghiên cứu Trong xu hướng hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa hiện nay, với ý nghĩa là giá trị chung của nhân loại, độc lập trong hoạt động xét xử nói chung và trong tố tụng hình sự nói riêng đã được ghi nhận trong Hiến pháp của hầu hết các quốc gia trên thế giới, không phụ thuộc vào thể chế chính trị và cách thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Ở Việt Nam, sau khi cách mạng tháng Tám thành công, hệ thống tư pháp thực dân phong kiến bị xóa bỏ, hệ thống tư pháp của chính quyền dân chủ nhân dân được thiết lập, nguyên tắc độc lập của Tòa án được ghi nhận từ rất sớm. Các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013 đều ghi nhận nguyên tắc này. Trong tiến trình cải cách tư pháp, nguyên tắc độc lập xét xử đã trở thành một trong những nội dung được quan tâm nhất. Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới", Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02-06-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đều xác định phải đảm bảo tính độc lập của Tòa án và các chức danh tư pháp trong hoạt động tố tụng. Tuy nhiên việc nghiên cứu chuyên đề về những thay đổi tác động đến thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử chưa được tiến hành thường xuyên. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện quyền tư pháp của Tòa án, làm cho người dân giảm lòng tin vào các cơ quan tư pháp, vào công lý. Trong nghiên cứu khoa học chưa có công trình nào xác định đầy đủ các yếu tố bảo đảm theo hướng tiếp cận cho riêng lĩnh vực tư pháp hình sự, chưa có phương pháp đánh giá đủ tin cậy về thực trạng Thẩm phán và Hội thẩm xét xử vụ án hình sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ở Việt Nam. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, tăng cường bảo vệ quyền con người và hội nhập quốc tế đã làm cho việc bảo đảm trên thực tế nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật vừa là nhu cầu tự thân của hệ thống tư pháp, vừa là yêu cầu khách quan. Với những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài Luận án " Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật " là rất cần 1 thiết. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án * Mục đích Mục đích của luận án là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, đề xuất các giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc này đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. * Nhiệm vụ Để thực hiện mục tiêu nêu trên, luận án có những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở lý luận của việc quy định nguyên tắc "Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong luật tố tụng hình sự Việt Nam: tính tất yếu của nguyên tắc này trong thể chế tư pháp với các mô hình tố tụng hình sự khác nhau; khái niệm, nội dung, ý nghĩa và mối quan hệ giữa nguyên tắc này với các nguyên tắc khác của luật tố tụng hình sự; nghiên cứu các yếu tố tác động đến việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật tố tụng hình sự Việt Nam và nghiên cứu một số quy định của luật TTHS nước ngoài về nguyên tắc này. Thứ hai, nghiên cứu các quy định pháp luật về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Đánh giá thực tiễn thực thi nguyên tắc này từ khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Thứ ba, đề xuất, luận chứng các yêu cầu, giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật tố tụng hình sự ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án - Đối tượng nghiên cứu: là các vấn đề lý luận và thực tiễn về Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu: luận án tập trung xác định và giới hạn nghiên cứu đối với những yếu tố cơ bản nhất, cần thiết nhất tác động, ảnh hưởng đến việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự tại Tòa án. Từ đó tác giả đề xuất những giải pháp nhằm đảm bảo những bất cập, hạn 2 chế khi áp dụng nguyên tắc này. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Luận án nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng; chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; - Hướng tiếp cận của luận án: Tiếp cận dưới góc độ pháp lý hình sự và tố tụng hình sự: Trên cơ sở lý luận và lịch sử về nhà nước, các học thuyết tổ chức quyền lực nhà nước, về mô hình tố tụng hình sự là cơ sở quan trọng để xem xét, nghiên cứu về nội dung, ý nghĩa và các yếu tố tác động đến việc thực thi Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Thứ nhất, luận án đã tìm hiểu, hệ thống hóa sự hình thành và phát triển của tư tưởng độc lập xét xử, qua đó xác định rõ cội nguồn của tư tưởng độc lập xét xử, tính chất đặc trưng của quyền tư pháp, của mô hình tố tụng hình sự nói chung và hoạt động xét xử hình sự của Tòa án nói riêng. Thứ hai, luận án đã đưa ra nội dung tương đối toàn diện về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS Việt Nam. Thứ ba, luận án đã phân tích, xác định được các yếu tố cơ bản nhất, trong đó có yếu tố phổ quát và yếu tố đặc thù tác động đến việc thực thi nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong Luật TTHS Việt Nam. Thứ tư, luận án đánh giá thực trạng thực thi Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS ở Việt Nam dựa trên cơ sở khảo sát xã hội học với quy mô lớn, độ tin cậy cao. Thứ năm, luận án đã đưa ra các giải pháp bảo đảm thực thi nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS Việt Nam. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Luận án làm rõ cơ sở lý luận về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS làm cơ sở cho các hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật trong xét xử vụ án hình sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. - Luận án nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề trong thực tiễn thực thi Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp 3 luật trong luật TTHS Việt Nam, các yếu tố tác động đến việc thực thi nguyên tắc qua đó tạo cơ sở cho việc bảo đảm thực thi nguyên tắc này ở Việt Nam trong bối cảnh cải cách tư pháp, xây dựng NNPQ Việt Nam XHCN và hội nhập quốc tế. - Kết quả nghiên cứu luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các hoạt động nghiên cứu và giảng dạy về tư pháp, Tòa án nói chung, về các nguyên tắc của luật TTHS và các yếu tố bảo đảm thực thi nguyên tắc nói riêng; 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án được kết cấu làm 4 chương, 11 mục. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Nguyên tắc độc lập xét xử được quy định ngay từ Sắc lệnh số 13/SL, ngày 24-01-1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Nước Việt Nam dân chủ công hòa về tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán, sau đó được Hiến pháp năm 1946 và các bản Hiến pháp sau này quy định. Tuy nhiên, việc nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật mới chỉ dừng lại ở mức độ ban đầu, mang tính khái lược, chủ yếu ở hình thức bình luận khoa học các điều luật của BLTTHS mà chưa có một đề tài khoa học, một luận án tiến sĩ hay luận văn thạc sĩ luật học nào nghiên cứu về nguyên tắc này. Các công trình nghiên cứu giai đoạn này có một phần nội dung trực tiếp đề cập đến nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật chủ yếu là các cuốn Bình luận khoa học BLTTHS năm 1988 của Viện Khoa học pháp lý (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh năm 1999); Bình luận khoa học BLTTHS năm 2003 do PGS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên (Nxb Công an nhân dân năm 2004) chỉ ra cơ sở của việc quy định nguyên tắc này trong BLTTHS là xuất phát từ nguyên tắc Hiến định về tổ chức và hoạt động của Tòa án; Bình luận khoa học 4 BLTTHS năm 2003 của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, NXB Chính trị Quốc gia năm 2005. Bên cạnh đó có một số Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của các cơ sở đào tạo luật ở bậc đại học như Trường Đại học Luật Hà Nội (năm 2008), Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội (năm 2006). Các cuốn sách chuyên khảo về nguyên tắc độc lập xét xử: cuốn do GS.TSKH. Đào Trí Úc chủ biên: “Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002. Cuốn do GS.TSKH. Lê Cảm và PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí chủ biên “Tư pháp trong nhà nước pháp quyền và những yêu cầu đặt ra đối với cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004. Cuốn “Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền” do PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung chủ biên, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2004. Cuốn sách của TS. Tô Văn Hòa: “Tính độc lập của Tòa án - nghiên cứu pháp lý về các khía cạnh lý luận, thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị đối với Việt Nam”, NXB Lao động, Hà Nội, 2007, bàn về một số đặc trưng của hoạt động xét xử ở các nền tư pháp theo hệ thống pháp luật khác nhau. Cuốn của LS.TS. Lưu Tiến Dũng “Độc lập xét xử trong Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2012.. Cuốn sách “Cải cách tư pháp vì một nền tư pháp liêm chính” do GS.TSKH. Đào Trí Úc và PGS.TS. Vũ Công Giao chủ biên, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2014. Cuốn “Độc lập tư pháp ở Việt Nam và tiêu chí đánh giá” do GS.TS Lê Hồng Hạnh và TS. Đặng Công Cường chủ biên, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội, 2015, Ở cấp độ Luận án tiến sĩ, có Luận án của tác giả Nguyễn Hải Ninh “Các yếu tố bảo đảm Độc lập xét xử ở Việt Nam hiện nay”, bảo vệ tại Viện Nhà nước và Pháp luật năm 2012. Một số nội dung Luận án công bố tại các tạp chí như: Nguyễn Hải Ninh: “Quan niệm khoa học về Độc lập xét xử”, Tạp chí Thanh tra số 10/2012. Nguyễn Hải Ninh: “Sự hình thành và phát triển tư tưởng Độc lập xét xử”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 10/2012. Ngoài ra, còn có một số bài viết được công bố trên các tạp chí, diễn đàn khoa học pháp lý liên quan đến nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đó là bài viết của các tác giả: Nguyễn Ngọc Chí: “Một số yếu tố ảnh hưởng đến nguyên tắc "Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", Tạp chí Nhà 5 nước và pháp luật, số 2/2009; Nguyễn Quang Hiền (2013); Đinh Thế Hưng: “Tiếp tục bàn về sự độc lập của Thẩm phán”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9/2010; Trần Văn Độ: “Sửa đổi, bổ sung các quy định của Hiến pháp năm 1992 về các cơ quan tư pháp”, Tạp chí Cộng sản số 845 số 3/2013; Nguyễn Tất Viễn: “Trao đổi ý kiến: tổ chức Tòa án theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW về CCTP”, bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử, 2010. Ngoài ra, còn nhiều các công trình nghiên cứu khác có liên quan. 1.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài Trong số các công trình nghiên cứu ở nước ngoài, đối với các nước phát triển, có nền tư pháp ổn định hàng thế kỷ qua, vấn đề độc lập của Tòa án tuy có được bàn đến nhưng ít hơn so với các nước đang phát triển và các nước kém phát triển. Trước khi Liên xô sụp đổ (1991), đã có nhiều công trình nghiên cứu về độc lập của tư pháp, điển hình như cuốn sách “Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền” của tác giả L.B A-lêch- xây-ep-va, Matxcơva, 1991 ư: Luận án TSKH của tác giả V.V E-rơ-shôp “Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền”- Matxcơva, 1992; cuốn sách “Những đặc trưng mang tính bản chất của quyền tư pháp” của tác giả L.A. Vô-skôbi-tôp-va, NXB Stavropol, 2003; Luận án Phó tiến sĩ “Các vấn đề pháp lý của quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp ở Kư-rgư-xtan” của tác giả T.I. Ga-ni-ep-va, Ekaterenburg, 2006. Ở ngoài nước, các nghiên cứu được thực hiện khá công phu, như: Về các vấn đề liên quan đến lịch sử hình thành và phát triển của tư tưởng Độc lập xét xử: Thẩm phán William Kelly (Canada) trong bài tham luận An independent judiciary: the core of the rule of law (Độc lập xét xử: cốt lõi của pháp quyền); Joseph b Diescho trong The paradigm of an independent judiciary: Its history, implications and limitations in Africa (Mô hình Độc lập xét xử: lịch sử của nó, ý nghĩa và giới hạn ở Châu Phi). Thẩm phán Brooke đã chứng minh xuất phát điểm của Độc lập xét xử gắn với sự hạn chế quyền lực của nhà vua trong Judicial Independence - Its history in England and Wales (Độc lập xét xử - lịch sử của nó ở Anh và xứ Wales). Roger K. Warren trong bài viết về The Importance of Judicial Independence and Accountability (Tầm quan trọng của Độc lập xét xử và trách nhiệm giải trình) đã khẳng định nước Mỹ chính là nơi nguyên tắc Độc lập xét xử được phát triển ở mức độ cao hơn so với chính quốc. ADB trong Law and Policy 6 Reform at the Asian Development Bank (Cải cách chính sách và pháp luật ở khu vực ngân hàng phát triển châu Á) vào tháng 3-2004 đã có báo cáo khảo sát về độc lập xét xử ở Việt Nam. Gần đây nhất, vào năm 2011, Drew A. Linzer & Jerey K. Staton đã tiến hành một khảo sát kỹ thuật đối với 191 nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam để đánh giá xếp loại về độc lập xét xử của từng quốc gia. Việc khảo sát chủ yếu thông qua xem xét, đánh giá quy định của Hiến pháp và pháp luật ở mỗi nước về nguyên tắc Độc lập xét xử và các biện pháp bảo đảm Độc lập xét xử. Trong A Measurement Model for Synthesizing Multiple Comparative Indicators: The Case of Judicial Independence (Một mô hình đo lường qua tổng hợp các chỉ số so sánh: trường hợp về Độc lập xét xử), Drew A. Linzer & Jerey K. Staton xếp Việt Nam đứng thứ 146/191 nước có tiến hành khảo sát. Cuốn “Cấu trúc của quyền tư pháp trong một thể chế nhà nước liên bang: Bài học từ Canada, Hoa Kỳ và Đức” (The Construction of Judicial Power in a Federal System: Lessons from Canada, United States and Germany) của các tác giả Cristina Marie Ruggiero, Nxb ProQuest. Cuốn “Thủ tục tư pháp: Pháp luật, các Tòa án, và Chính trị ở Hoa Kỳ” (Judicial Process: Law, Courts, and Politics in the United States) của các tác giả: David W. Neubauer; Stephen S. Meinhold. Cuốn “Quản lý quyền lực thứ ba” của tác giả Fabian Wittresk, Tubingen, 2006; cuốn “Quyền lực tư pháp” của tác giả Andre Brodock, Wiesbaden, 2009 và một số công trình khác. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Từ tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài, có thể nhận thấy đã có ít nhiều công trình trong và ngoài nước đề cập, phân tích ở một mức độ nhất định các vấn đề liên quan đến nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS. Vì vậy, việc tiếp tục phát triển các kết quả nghiên cứu hiện còn tương đối hạn chế, làm sâu sắc hơn và phong phú hơn những nhận thức khoa học về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS, đánh giá sự thể hiện của nguyên tắc này trong các quy định của pháp luật cũng như trong thực tiễn giải quyết các vụ phạm tội, các vụ phạm pháp hình sự đang diễn ra hàng giờ, hàng ngày trong đời sống xã hội là đáp ứng các nhu cầu của khoa học Luật TTHS, phục vụ thiết thực cuộc đấu tranh 7 phòng, chống tội phạm và bảo đảm quyền con người ở Việt Nam hiện nay. Chương 2 NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 2.1. Độc lập xét xử, thuộc tính tất yếu khách quan của quyền tư pháp 2.1.1. Cội nguồn tư tưởng độc lập xét xử và quá trình hình thành tư tưởng hiện đại về độc lập trong hoạt động xét xử Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới cho thấy các văn bản xa xưa nhất được phát hiện là Luật hình của nhà Hạ-Trung Quốc (2100 - 1600 trước Công nguyên) và bộ luật Hammurabi- Babylon (1792-1750 trước Công nguyên), trong đó có nhiều nội dung liên quan đến tư pháp, đến việc xét xử và hình phạt. Sang đến thời kỳ cận trung đại, quyền lực tối cao của các thế lực phong kiến cai trị bắt đầu bị chia sẻ khi các văn bản về tổ chức quyền lực nhà nước ra đời. Đại Hiến chương Anh (Magna Charta) được vua Anh ban hành vào năm 1215 tuy không không có quy định trực tiếp nêu rõ về độc lập của Thẩm phán trong khi xét xử hoặc những yếu tố liên quan nhưng đã nêu ra những nguyên tắc bình đẳng của pháp luật. Cuối thế kỷ XVIII, J. Locke, nhà triết học ủng hộ quan điểm quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công giữa các nhánh quyền đã tuyên bố rằng việc hình thành các đạo luật với quyền khiếu nại đến các Thẩm phán độc lập là điều cần thiết cho một xã hội văn minh và một khi xã hội mà không có họ (tức là Thẩm phán) thì đó là xã hội vẫn còn "trong một trạng thái tự nhiên". Tuy nhiên, J. Locke lại không đưa ra được cách thức, mô hình cụ thể để bảo đảm cho Thẩm phán độc lập. Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật”, Montesquieu đưa ra tư tưởng phân quyền dựa trên phân tích cách thức tổ chức quyền lực của nước Anh: Nguồn gốc của tư tưởng độc lập xét xử theo khái niệm hiện đại được phát hiện ra trong quá trình phát triển của nhà nước dân chủ lập hiến ở Châu Âu, trước hết là ở Anh. Độc lập xét xử gắn kết chặt chẽ với sự phát triển của pháp quyền, với điều kiện tiên quyết của sự phân quyền và sự tồn tại của kiểm soát và cân bằng quyền lực… Tiếp đó, Đạo luật Hòa giải 1701 (Act of Setlement 1701) đã nêu rõ nguyên tắc bảo đảm nhiệm kỳ Thẩm phán (nếu có phẩm chất tốt) và khẳng định rằng họ chỉ có thể bị thay thế bởi hai viện 8 của Quốc hội theo một quy trình chặt chẽ. Thẩm phán Brooke của Tòa án thượng thẩm Anh cho rằng quy định này chính là nguyên tắc nền tảng của độc lập xét xử. Sang đến thời kỳ hiện đại, tư tưởng đó càng được khẳng định và thể hiện sự tổ chức thực thi quyền lực nhà nước mà trong đó quyền lực xét xử phải độc lập so với các nhánh quyền lực khác. 2.1.2. Quyền tư pháp và nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Quyền tư pháp là quyền được nhân danh nhà nước (nhân danh công lý) phán quyết về các hành vi vi phạm pháp luật, các tranh chấp, buộc các cá nhân, tổ chức chịu sự phán quyết đó phải thi hành. Xét từ phương diện quyền lực chính trị, quyền tư pháp là một bộ phận trong chỉnh thể quyền lực nhà nước, không tách rời quyền lập pháp và quyền hành pháp; có sự kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong hệ thống các cơ quan tư pháp, Tòa án đóng vai trò quan trọng nhất, thực hiện công đoạn trọng tâm nhất của quyền tư pháp là xác định đúng - sai theo tiêu chí pháp luật, giải thích pháp luật, áp dụng chế tài. Tòa án còn là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp của nhà nước trong các vụ việc khác ngoài các vụ án hình sự, ví dụ tranh chấp dân sự, kinh tế, hành chính. 2.1.3. Sự chi phối của mô hình tố tụng hình sự đối với nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Trên thế giới có nhiều mô hình tố tụng khác nhau tùy thuộc vào truyền thống pháp luật của mỗi quốc gia. Xét về cách thức tiến hành tố tụng thì người thường tiếp cận trong việc phân chia theo các kiểu tố tụng: Tố tụng tranh tụng; Tố tụng thẩm vấn và Tố tụng thẩm vấn có đan xen một số yếu tố của tranh tụng 2.2. Nội dung nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Nguyên tắc được hiểu với ý nghĩa là tư tưởng chỉ đạo, quy tắc cơ bản của một hoạt động nào đó, đó là những phương châm, tư tưởng chủ đạo, định hướng chi phối một phần hay toàn bộ giai đoạn của hoạt động TTHS trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS. 2.2.1. Hoạt động xét xử và nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Hoạt động xét xử là toàn bộ quá trình được tính từ khi Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án hình sự, nhận quyết định truy tố của Viện Kiểm sát đến khi giải quyết xong vụ án (có thể là sơ thẩm hoặc kết thúc theo trình tự phúc 9 thẩm, tái thẩm, giám đốc thẩm). Trong nội dung của nguyên tắc này có 2 vấn đề cần làm sáng tỏ là độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. - Xét xử độc lập là khi xem xét và xử các vụ án, các chủ thể hoạt động xét xử phải tự mình quyết định các vấn đề, kể cả ra bản án một cách độc lập dựa trên những chứng cứ khách quan, ý thức pháp luật, niềm tin nội tâm của chính mình mà không bị chi phối, tác động, sức ép của bất cứ cơ quan hay cá nhân nào. - Chỉ tuân theo pháp luật có nghĩa là khi thực hiện hoạt động xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm chỉ căn cứ vào pháp luật để xem xét, giải quyết vụ án, nghiên cứu hồ sơ vụ án và trên cơ sở những quy định của pháp luật để ra phán quyết, không chịu sự điều chỉnh, ràng buộc của cá nhân, cơ quan, tổ chức nào khác. 2.2.2. Các yếu tố tạo nên sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm - Tòa án phải được trao thẩm quyền giải quyết mọi vấn đề mang tính chất tư pháp; - Tòa án phải là cơ quan duy nhất có quyền quyết định vụ án đang yêu cầu giải quyết có thuộc thẩm quyền xét xử của mình hay không; - Quyết định cuối cùng của Tòa án không phải chịu bất kỳ sự xét duyệt của bất kỳ cơ quan hay quyền lực nào. 2.2.3. Độc lập xét xử khẳng định địa vị pháp lý và thẩm quyền của Thẩm phán và Hội thẩm Sự khẳng định thẩm quyền và địa vị pháp lý của quyền lực tư pháp thông thường được quy định trong Hiến pháp và được cụ thể hóa tại các đạo luật về tổ chức của Tòa án và các đạo luật về tố tụng tư pháp với những nội dung cụ thể theo đó khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm chỉ có thể dựa vào pháp luật, không bị chi phối bởi bất cứ một thế lực nào, không chịu bất kỳ tác động nào, có quyền tự quyết định hoạt động xét xử. 2.2.4. Sự bất khả can thiệp đối với việc thực thi quyền tư pháp của Thẩm phán và Hội thẩm - Thứ nhất, Thẩm phán và Hội thẩm phải được độc lập với tất cả các yếu tố tác động từ ngoài ngành Tòa án, từ trong nội bộ Tòa án nơi mình làm việc và của các Tòa án cấp trên. - Thứ hai, Thẩm phán và Hội thẩm phải độc lập với nhau trong việc đánh giá các tình tiết của vụ án và áp dụng pháp luật. Các quy định và quy trình tố tụng liên quan đến việc tổ chức và thực hiện chức năng xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm cần bảo đảm giảm thiểu hoặc tránh khả năng có 10 thể gây ảnh hưởng từ phía Thẩm phán đối với Hội thẩm và ngược lại. - Thứ ba, Thẩm phán và Hội thẩm phải được độc lập trong việc phân tích và giải thích pháp luật. - Thứ tư, Thẩm phán và Hội thẩm phải độc lập với các chủ thể tố tụng khác, như Công tố viên, Luật sư, Giám định viên. 2.3. Ý nghĩa của việc quy định Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 2.3.1. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong những giá trị của Nhà nước pháp quyền Độc lập tư pháp là điều kiện không thể thiếu của Nhà nước pháp quyền, trong đó, độc lập xét xử là độc lập với yêu cầu cao nhất, vì xét xử là liên quan đến số phận con người và tài sản của con người cũng như tổ chức. Đó là sự ràng buộc phải tuân thủ pháp luật của các chủ thể tham gia hoạt động tư pháp. Yêu cầu về tính độc lập, khách quan phải được cụ thể hoá thành các quy định trong Hiến pháp và pháp luật, đặc biệt là quy định rõ ràng về vị trí, thẩm quyền của từng cơ quan tư pháp. 2.3.2. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là công cụ đảm bảo tính tối thượng của luật Thẩm phán, Hội thẩm khi phán quyết phải dựa trên việc áp dụng Hiến pháp và pháp luật thể hiện: Thứ nhất, sự độc lập trong việc cân nhắc tính thống nhất của các văn bản pháp luật và sự phù hợp của các văn bản đó với các nguyên tắc hiến định là cần thiết. Thứ hai, sự độc lập của Thẩm phán cho phép Thẩm phán áp dụng Luật và tuyên bố không áp dụng văn bản pháp luật có giá trị thấp hơn với lý do không phù hợp với Luật. Thứ ba, việc duy trì pháp quyền đòi hỏi phải có một nền tư pháp xét xử công minh và độc lập trước mọi can thiệp hay tác động để bảo đảm rằng công lý được duy trì một cách bình đẳng đối với tất cả mọi người. 2.3.3. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có vai trò đặc biệt trong việc đảm bảo quyền con người, quyền công dân Thông qua hoạt động xét xử một cách độc lập, Thẩm phán, Hội thẩm là những cá nhân thay mặt cho Tòa án có vai trò bảo đảm thực hiện các quyền dân chủ, các quyền con người. Mức độ dân chủ của một xã hội từ góc nhìn công lý được đo bằng hiệu quả xét xử của Tòa án. Xét từ góc độ dân chủ của tư pháp, sự độc lập của Tòa án đến mức độ nào thì thành công 11 của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đạt đến mức độ đó. 2.3.4. Nguyên tắc độc lập xét xử là yếu tố thúc đẩy thực hiện các nguyên tắc khác của luật tố tụng hình sự Nguyên tắc độc lập xét xử có mối liên hệ qua lại với các nguyên tắc khác của tố tụng hình sự. Tuy nhiên, mối liên hệ đó đối với mỗi nguyên tắc được biểu hiện ở các mức độ khác nhau. Trong số các nguyên tắc của tố tụng hình sự, nguyên tắc khách quan và vô tư của những người tiến hành tố tụng và nguyên tắc pháp chế XHCN có mối liên hệ chặt chẽ hơn cả với nguyên tắc độc lập xét xử. 2.4. Các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện nguyên tắc "Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" 2.4.1. Cách thức tổ chức và quản lý Tòa án Cách thức tổ chức hệ thống Tòa án có tác động mạnh mẽ đến sự độc lập. Cho dù một nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền hay tập quyền thì sự phân định rạch ròi giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là đòi hỏi khách quan, cần thiết để hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước, đảm bảo cho hiệu lực hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong các nhánh quyền lực đó, tư pháp phải độc lập. 2.4.2. Yếu tố tài chính cho hoạt động tư pháp Thế giới, tồn tại hai cách thông dụng nhất để dự toán và phân bổ ngân sách cho ngành Tòa án và hoạt động xét xử. Đó là: Tòa án có quyền dự trù (dự toán) ngân sách cho hoạt động thực hiện chức năng xét xử của ngành mình và trình lên Quốc Hội thẩm tra và phê duyệt. Tòa án kiểm soát được việc chi tiêu và do đó tính độc lập trong hoạt động xét xử được đảm bảo. Cách thứ hai, việc quản lý ngân sách của Tòa án giao cho cơ quan hành pháp (cụ thể là Bộ Tư pháp). Lý do là cơ quan hành pháp hiểu và làm tốt công tác này hơn Tòa án (chỉ tập trung vào hoạt động xét xử). Tuy nhiên cách kiểm soát này tạo ra mối lo ngại về sự can thiệp của cơ quan hành pháp vào cơ quan tư pháp xét xử. Vì thế, một số quốc gia ở Châu Âu đã tiến hành cải cách tư pháp theo hướng chuyển việc quản lý tài chính các hoạt động của Tòa án sang một cơ quan độc lập hơn. 2.4.3. Chế độ tuyển cử Thẩm phán Chế độ tiến cử, tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán có ý nghĩa quan trọng đối với sự độc lập của Thẩm phán. Một quy trình đề cử và tuyển chọn tốt sẽ cho phép chọn được những ứng viên xuất sắc nhất và loại trừ hoặc giảm bớt sự thiên vị mang tính chính trị hoặc cảm tính trong quá trình 12 bổ nhiệm Thẩm phán. 2.4.4. Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật Cơ sở để thực hiện Nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" một cách hiệu quả chính là chúng ta cần có một hệ thống pháp luật đủ, đồng bộ, đáng tin cậy, phản ánh đúng quy luật khách quan của nền kinh tế xã hội quốc gia, làm nền tảng cho các phán quyết của Tòa án khi xét xử. 2.5. Quy định của pháp luật một số quốc gia về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 2.5.1. Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga Bộ Luật TTHS Liên Bang Nga được Đuma quốc gia thông qua ngày 22 tháng 11 năm 2001 và được Quốc hội phê chuẩn ngày 5 tháng 12 năm 2001, đã qua rất nhiều lần sửa đổi, bổ sung Theo quy định của Bộ Luật này, thành viên của Hội đồng xét xử gồm có Thẩm phán và Bồi thẩm đoàn. Trong đó Thẩm phán được xác định là người có chức vụ, quyền hạn và có thẩm quyền tiến hành các hoạt động xét xử và Bồi thẩm đoàn có nhiệm vụ phán quyết có tội hay không có tội với thành viên do được triệu tập tham gia vào quá trình xét xử của Tòa án và ra phán quyết theo đúng quy định của Bộ luật. 2.5.2. Bộ luật tố tụng hình sự Trung Quốc Bộ luật TTHS Trung Quốc được thông qua tại kỳ họp thứ hai Đại hội đại biểu nhân dân Toàn quốc lần thứ 5 ngày 1 tháng 7 năm 1979 và được sửa đổi theo Quyết định sửa đổi Luật TTHS năm 1996 và 2013. Nguyên tắc độc lập được ghi nhận tại Điều 5 "Tòa án nhân dân thực hành quyền tư pháp độc lập theo luật và Viện Kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố độc lập theo luật, và họ không bị can thiệp bởi bất kỳ cơ quan hành chính, tổ chức hoặc cá nhân". Cùng với Nguyên tắc này, chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân được quy định tại Điều 13 "Khi xét xử các vụ án, Tòa án nhân dân phải áp dụng chế độ Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử theo luật này". 2.5.3. Pháp luật tố tụng hình sự Hoa Kỳ Hòa Kỳ với mô hình tố tụng tranh tụng điển hình, Thẩm phán đóng vai trò xét xử, làm trọng tại phân định giữa hai bên buộc và gỡ tội. Sự độc lập của Thẩm phán, Bồi thẩm viên trong hoạt động xét xử được định vị rất rõ ràng trong từng điều khoản. KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Độc lập xét xử của Tòa án là vấn đề được đề cập từ thời kỳ phong 13 kiến. Tuy nhiên, dưới chế độ quân chủ chuyên chế, độc lập của Tòa án chỉ dừng lại ở những biện pháp bảo đảm tính vô tư của quan tòa xét xử. Cùng với sự phát triển của xã hội, vai trò của Tòa án ngày càng được đề cao trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Nguyên tắc độc lập xét xử được ghi nhận như là một giá trị phổ quát, tiến bộ của nhân loại. Chương 3 NHỮNG CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT 3.1. Các quy định pháp luật tố tụng hình sự về nguyên tắc độc lập xét xử từ 1945 đến nay 3.1.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1959 Chủ tịch Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh 33/SL ngày 13-91945 về thiết lập các Tòa án quân sự; Sắc lệnh số 13/SL quy định về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán, về cơ bản đã thiết lập được một hệ thống Tòa án của chế độ dân chủ nhân dân. 3.1.2. Giai đoạn từ 1960 đến trước khi ban hành Hiến pháp năm 2013 Tại các bản Hiến pháp năm 1946, 1958, 1980, 1992 đều ghi nhận nguyên tắc độc lập xét xử và được cụ thể hóa trong Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức Tòa án nhân dân và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành. 3.1.3. Các quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 về nguyên tắc độc lập xét xử Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28/11/2013 quy định rõ hơn các bản Hiến pháp trước đây về sự độc lập của Thẩm phán. BLTTHS năm 2015 đã bổ sung các quy định nhằm tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tăng tính độc lập, khách quan trong hoạt động tố tụng, đổi mới mô hình tố tụng kết hợp thẩm vấn với tranh tụng. Chức năng của Tòa án khác so với trước đây khi pháp luật quy định Tòa án có quyền độc lập nhiều hơn. 3.2. Thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 3.2.1. Đánh giá việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử qua số 14 liệu thống kê Kết quả khảo sát cho thấy việc thực thi pháp luật về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự được thực hiện tương đối nghiêm chỉnh. Tuy nhiên độ tin cậy vào kết quả này cần phải đối chiếu so sánh với những tài liệu khác mới có thể xác nhận để có nhận xét chính xác về tình hình thực thi nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. 3.2.2. Đánh giá việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử qua kết quả điều tra xã hội học của nghiên cứu sinh Tác giả của luận án đã tiến hành khảo sát ý kiến việc việc thực thi nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật để thu thập thêm thông tin về tình hình thực thi nguyên tắc này của các các cơ quan THTT trong quá trình giải quyết vụ án. Việc điều tra được tiến hành đối với 400 đối tượng là Thẩm phán, Kiểm sát viên, luật sư công tác tại một số địa bàn ở cả ba miền: miền nam, miền bắc, miền trung và tây nguyên. Ngoài ra đã thực hiện việc hỏi ý kiến các giảng viên, nhà khoa học tại Đại học Luật, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Viên khoa học xét xử của Tòa án nhân dân tối cao (nay là Cục pháp chế và xây dựng pháp luật); Viện Nhà nước và Pháp luật - Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam; Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp; Viện khoa học kiểm sát thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao (nay là Cục pháp chế và nghiên cứu khoa học) và một số học viên là cán bộ Tòa án đang theo học tại Khoa đào tạo Thẩm phán- Học viên tư pháp. 3.3. Đánh giá về các yếu tố bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Mặc dù Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận quyền lực tư pháp nhưng trên thực tế vẫn chưa có sự nhận thức đầy đủ và sự đồng thuận về sự độc lập của quyền lực tư pháp trong phạm vi thực hiện các thẩm quyền tư pháp đã được phân công. Điều này trước hết được lý giải bởi quy định của Hiến pháp về quyền lực nhà nước tập trung và thống nhất vào Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất. Chính vì lẽ đó, trong những năm gần đây một số cơ quan của Quốc hội đã đặt vấn đề xem xét lại một số phán quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao - cơ quan xét xử cao nhất mà Hiến pháp quy định. Điều này chứng tỏ sự thiếu thừa nhận sự độc lập của quyền tư pháp trong việc thực hiện các thẩm quyền đã 15 được Hiến pháp phân công. 3.3.1. Về cách thức quản lý các Tòa án Sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, Luật tổ chức TAND năm 2014 có một số điểm mới. TANDTC đảm nhận việc quản lý các TAND địa phương và các Tòa án quân sự về tổ chức, có sự phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân địa phương và Bộ Quốc phòng. Tuy nhiên, việc tiếp tục giao quyền cho Chánh án TANDTC về quyết định ngân sách chi cho hoạt động của các Tòa án nhân dân nên có sự lệ thuộc nhiều về mặt hành chính và tổ chức cũng như kinh phí hoạt động của Tòa án cấp dưới đối với Tòa án cấp trên nên khó bảo đảm tính độc lập trong xét xử. 3.3.2. Tác động của chế độ tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán Theo quy định của pháp luật việc tuyển chọn Thẩm phán được thực hiện bởi Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia. Tuy nhiên pháp luật không quy định cụ thể trình tự tuyển chọn từ giai đoạn tiến cử ứng viên vào danh sách Thẩm phán và các bước lấy ý kiến về ứng viên. Do đó, việc thực hiện trình tự và thủ tục tuyển chọn Thẩm phán trên thực tế hiện nay có những bất cập ảnh hưởng đến sự độc lập của Thẩm phán. 3.3.3. Tác động của việc bổ nhiệm Thẩm phán theo nhiệm kỳ Hiến pháp 2013 quy định nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định nhiệm kỳ đầu của Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp là 5 năm; trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm. Với việc quy định nhiệm kỳ như hiện nay xuất phát từ quan điểm nghiêng về kiểm soát công tác xét xử và trách nhiệm, chưa tính đến yếu tố bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán. 3.3.4. Tác động của việc xử lý trách nhiệm của Thẩm phán Thực tiễn thi hành các quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân về xử lý trách nhiệm của Thẩm phán cho thấy tồn tại một số vấn đề có thể làm ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập xét xử, như sau: Thứ nhất, Thẩm phán dễ dàng có thể được điều động, thuyên chuyển sang công tác khác. Việc điều động, thuyên chuyển sang công tác khác thông thường do lãnh đạo Tòa án cùng cấp hoặc lãnh đạo Tòa án cấp trên quyết định. Thứ hai, quy trình đề xuất, xem xét và tiến hành thủ tục cách chức Thẩm phán trên thực tế phụ thuộc nhiều vào Chánh án Tòa án nơi Thẩm phán làm việc. 3.3.5. Tác động của chế độ đãi ngộ Thẩm phán 16 Tại Nghị quyết số 730/NQ-UBTVQH11 ngày 30/9/2004 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc phê chuẩn bảng lương chuyên môn nghiệp vụ ngành Tòa án đã xác định chế độ lương, phụ cấp và mức bồi dưỡng phiên tòa dành cho Thẩm phán. Với mức lương như vậy, Thẩm phán khó có thể bảo đảm cuộc sống hàng ngày của gia đình, chưa nói đến các chi phí giáo dục, y tế và các khoản chi xã hội khác. Điều đó làm cho Thẩm phán dễ có thể bị tác động bởi những can thiệp đối với việc giải quyết các vụ án cụ thể vì những cám dỗ vật chất. 3.3.6. Mức độ vô tư, khách quan và liêm chính của Thẩm phán Hiến pháp và pháp luật hiện tại không quy định rõ và cụ thể các yêu cầu để bảo đảm Thẩm phán phải khách quan vô tư khi xét xử. Luật tổ chức TAND chỉ quy định rất giản lược những việc Thẩm phán không được làm. Hiện tại chưa có một bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp đối với Thẩm phán quy định những hành vi ứng xử không phù hợp với đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán. Những quy định đó, nếu có, sẽ bảo đảm hơn sự vô tư, khách quan của Thẩm phán khi xét xử. Thẩm phán không vô tư và khách quan đồng nghĩa với việc Thẩm phán không độc lập với chính lương tâm mình. Sự độc lập của Thẩm phán có thể bị lạm dụng vì những động cơ cá nhân để trở thành thiếu vô tư và khách quan khi xét xử. Thẩm phán có thể độc lập xét xử nhưng vẫn tham nhũng và nhận hối lộ. 3.3.7. Trách nhiệm bồi thường, trách nhiệm giải trình trong hoạt động xét xử Hiến pháp năm 2013 và Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định trách nhiệm bồi thường trong tố tụng hình sự thì trách nhiệm của Tòa án phải bồi thường và Thẩm phán, Hội thẩm có trách nhiệm bồi hoàn. Quy định như vậy làm tăng thêm gánh nặng "tâm lý" cho Tòa án và Thẩm phán, Hội thẩm khi họ lo sợ về khả năng bị phán xét theo hướng "cố ý" hoặc "cẩu thả quá đáng". Điều đó ảnh hưởng đến sự độc lập của Tòa án và của Thẩm phán. Tòa án và Thẩm phán, vì đó, có thể tìm kiếm sự "chỉ đạo" của Tòa án cấp trên hoặc của tập thể lãnh đạo khi giải quyết những vụ án phức tạp. Trong khi đó, các quy định hiện hành không đủ để buộc Thẩm phán phải có trách nhiệm giải trình về hoạt động xét xử của mình.. Vì lẽ đó, cần thiết phải nghiên cứu đề xuất các biện pháp tăng cường trách nhiệm giải trình trong hoạt động xét xử của Thẩm phán nói riêng và của Tòa án nói chung. 3.3.8. Mức độ hoàn thiện của pháp luật kể từ khi ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị 17 Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW (2006-2015), công tác xây dựng pháp luật đã có những chuyển biến căn bản. Nội dung, hình thức của hệ thống pháp luật có chuyển biến về chất, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội bền vững và quá trình hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế. Các luật, pháp lệnh cơ bản đáp ứng các tiêu chí về tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai và minh bạch. 3.4. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử từ phía Hội thẩm Hội thẩm tham gia xét xử trong các phiên tòa hình sự hình sự nhằm bảo đảm nguyên tắc xét xử có đại diện của nhân dân tham gia. Tuy nhiên, do Hội thẩm chỉ tham gia vào "quá trình xét xử" mà không tham gia vào "quá trình chuẩn bị xét xử", cộng với thực trạng về chuyên môn, kinh nghiệm và kỹ năng xét xử của Hội thẩm còn hạn chế, nên Hội thẩm không thể nắm chắc được nội dung vụ án và các vấn đề mấu chốt của vụ án về cả khía cạnh tình tiết lẫn pháp luật áp dụng. Điều đó làm cho Hội thẩm khó có khả năng độc lập với Thẩm phán và việc tham gia của Hội thẩm nhiều khi "để đủ thành phần, có tính hình thức", chứ chưa thực sự là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Ở Việt Nam, nền tư pháp nhân dân được thiết lập ngay từ những ngày đầu của chính quyền dân chủ nhân dân. Nguyên tắc độc lập xét xử được quy định trong các văn bản pháp luật từ rất sớm. Nguyên tắc độc lập xét xử luôn được xem như một yếu tố cơ bản, một giá trị bất biến trong tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân.. Những thành công bước đầu của cải cách tư pháp ở Việt Nam đã thúc đẩy một bước việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử. Tuy nhiên trước yêu cầu mới, vẫn còn những trở ngại cần khắc phục để bảo đảm tốt hơn nguyên tắc này trên cơ sở thống nhất nhận thức rằng “không có Tòa án độc lập thì sẽ không có nhà nước pháp quyền”. Chương 4 CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT 4.1. Yêu cầu khách quan bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 18 4.1.1. Yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Để đảm bảo cho việc xét xử bình đẳng, dân chủ, khách quan thì nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm có vai trò quyết định, đồng thời nguyên tắc này còn là nền tảng của tư pháp trong nhà nước pháp quyền. 4.1.2. Yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương về cải cách tư pháp trong các văn kiện Đại hội toàn quốc, các văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành trung ương, các nghị quyết của Bộ Chính trị và nhiều văn kiện khác.Đòi hỏi việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trên cơ sở: - Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, - Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; - Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hoá tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, 4.1.3. Khắc phục những bất cập của pháp luật pháp luật về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Hiến pháp năm 1992 khẳng định Tòa án là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, nhưng trên thực tế vẫn chưa có sự nhận thức đầy đủ và sự đồng thuận về sự độc lập của quyền lực tư pháp trong phạm vi thực hiện các thẩm quyền tư pháp đã được phân công. Khắc phục hạn chế này, Hiến pháp 2013 đã ghi nhận "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp"; đồng thời quy định rõ hơn các bản Hiến pháp trước đây về sự độc lập của Thẩm phán: "Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm". Tuy nhiên, như thế chưa đủ để bảo đảm cho nguyên tắc độc lập xét xử mà cần có sự rà soát lại toàn bộ các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án để loại bỏ các quy định không còn phù hợp với Hiến pháp năm 2013 khi quy định về nguyên tắc độc lập xét xử. 4.1.4. Yêu cầu tăng cường và mở rộng hội nhập quốc tế Quá trình hội nhập quốc tế, mở rộng hợp tác kinh tế và đầu tư nước 19 ngoài đòi hỏi có sự tương thích về pháp luật và tư pháp giữa các quốc gia. Vì vậy, việc bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có ý nghĩa rất quan trọng thúc đẩy một nền tư pháp dân chủ, công khai, minh bạch, tiến gần đến một nền tư pháp được tổ chức hiện đại, 4.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 4.2.1. Thành lập Tòa án sơ thẩm khu vực - Giảm bớt được sự lệ thuộc vào các cơ quan, tổ chức ở địa bàn huyện, thực hiện đầy đủ hơn nguyên tắc độc lập, khách quan và tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng của các cơ quan tư pháp, góp phần làm cho TAND thực hiện có hiệu quả quyền tư pháp. - Là điều kiện quan trọng để tiến tới thực hiện việc phân công nhiệm vụ rành mạch giữa các cấp Tòa án. - Là dịp để tiến hành rà soát, sàng lọc và bố trí lại đội ngũ cán bộ tư pháp. - Góp phần thu gọn đầu mối các cơ quan TAND. - Là điều kiện đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp. 4.2.2. Thành lập Hội đồng tư pháp Quốc gia Hội đồng Tư pháp quốc gia là thiết chế độc lập, do Chủ tịch nước đứng đầu. Hội đồng có trách nhiệm giúp Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong lĩnh vực tư pháp. Bên cạnh đó Hội đồng Tư pháp quốc gia là cơ quan có vai trò hỗ trợ, thúc đẩy việc bảo đảm điều kiện nhân sự và cơ sở vật chất cho hoạt động của Tòa án nhân dân. 4.2.3. Quy định cho Tòa án nhân dân được quyền giải thích luật và xử lý các hành vi vi phạm Hiến pháp Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013 “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”, cần quy định cho Tòa án có thêm thẩm quyền sau: (1) giao chức năng giải thích luật cho Tòa án. (2) phán quyết về những văn bản vi hiến của cơ quan lập pháp và hành pháp. 4.2.4. Khắc phục sự bó hẹp về thẩm quyền của Tòa án về giới hạn của việc xét xử Điều 298 Bộ Luật TTHS năm 2015 có mở rộng hơn giới hạn xét xử nhưng vẫn bó hẹp thẩm quyền của Tòa án. Vì vậy, chỉ cần quy định Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi mà Viện kiểm sát truy tố còn hành vi thuộc cấu thành tội phạm nào dành cho quyền chủ động của Tòa án. 4.2.5. Sửa quy định về nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm có Hội 20 thẩm tham gia. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán Để bảo đảm dân chủ thật sự của nền tư pháp. Có thể giảm số lượng Hội thẩm trong Hội đồng xét xử các vụ án hình sự,. Cụ thể là: a) thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm hai Thẩm phán và một Hội thẩm. Khi đó, Hội thẩm hoàn toàn ngang quyền với Thẩm phán trong toàn bộ quá trình xét xử; b) giữ nguyên số lượng Hội thẩm theo thành phần đa số như hiện nay, nhưng quyền hạn của Hội thẩm sẽ khác: Hội thẩm được tham gia mọi hoạt động tại phiên toà xét xử trừ việc nghị án và quyết định vụ việc. Thẩm phán tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về bản án của mình. 4.3. Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo sự độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm trong quá trình xét xử vụ án hình sự 4.3.1. Xác định lại vai trò và vị thế của Thẩm phán trong bộ máy nhà nước Thứ nhất, không nên coi Thẩm phán là công chức thông thường mà cần coi đây là một ngạch công chức đặc biệt. Như vậy sẽ tạo được vị thế riêng của Thẩm phán, không bị quá phụ thuộc vào các quy định áp dụng đối với công chức thông thường. Thứ hai, việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán phải thật sự công khai, minh bạch, cạnh tranh, nghiêm ngặt và khắt khe. Thứ ba, lương và các chế độ khác của Thẩm phán phải theo ngạch riêng và ở mức cao. 4.3.2. Hoàn thiện cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán Một là, mở rộng đối tượng tham gia kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán. Cho phép tất cả các ứng viên có đủ điều kiện và tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật, không kể ứng viên là người trong hoặc ngoài ngành Tòa án,. Hai là, tổ chức kỳ thi công khai, minh bạch để tất cả các ứng viên đủ tiêu chuẩn có thể dự thi. 4.3.3. Tăng nhiệm kỳ Thẩm phán Thứ nhất, giải pháp trước mắt: Áp dụng chế độ đương nhiên tái bổ nhiệm trừ khi Thẩm phán bị kỷ luật ở mức cách chức chức danh Thẩm phán.. Thứ hai, giải pháp trung hạn: Tăng nhiệm kỳ của Thẩm phán theo hướng tạo độ vênh lệch so với nhiệm kỳ của những người tham gia quá trình tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán. Nhiệm kỳ trước mắt có thể là 15 năm. Thứ ba, giải pháp lâu dài: Bổ nhiệm Thẩm phán một lần cho đến tuổi 21 về hưu sau một nhiệm kỳ thử thách. 4.3.4. Hạn chế sự ảnh hưởng của mối quan hệ quản lý hành chính giữa lãnh đạo Tòa án và Thẩm phán đối với sự độc lập của Thẩm phán Thứ nhất: Cần ban hành văn bản của Tòa án nhân dân tối cao về phân công hồ sơ vụ án theo hướng lựa chọn ngẫu nhiên nhằm triệt tiêu mối quan hệ lệ thuộc giữa Thẩm phán và lãnh đạo Tòa án về việc phân công hồ sơ xét xử. Thứ hai, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần nghiên cứu và sớm ban hành văn bản nghiêm cấm việc thỉnh thị án, báo cáo án. 4.3.5. Hoàn thiện cơ chế luân chuyển, đề bạt và kỷ luật, cách chức Thẩm phán Căn cứ để luân chuyển Thẩm phán từ Tòa án này sang Tòa án khác thì cần thiết phải có sự đồng ý của chính Thẩm phán đó, trừ trường hợp việc luân chuyển đó là cần thiết để bảo đảm uy tín của Tòa án khi người Thẩm phán đó bị cách chức Thẩm phán.. 4.3.6. Xác định tính trách nhiệm và tính giải trình của Thẩm phán a- Về tính chịu trách nhiệm của Thẩm phán đối với hoạt động xét xử Cần nghiên cứu và xem xét lại việc quy định trách nhiệm vật chất của Thẩm phán. như quyền miễn trừ các vụ kiện dân sự liên quan đến hoạt động xét xử của Thẩm phán. b- Về tính giải trình của Thẩm phán trong hoạt động xét xử Để minh bạch hóa hoạt động xét xử và tăng cường tính giải trình về việc ra quyết định của Thẩm phán, cần thực hiện các biện pháp sau đây: Thứ nhất, cần quy định, có thể tại một Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, về các yêu cầu đối với một bản án, quyết định của Tòa án. Thứ hai, tiến tới công bố tất cả các phán quyết của Tòa án các cấp. 4.3.7. Bảo đảm sự tham gia thực chất của Hội thẩm trong hoạt động xét xử Thứ nhất, cần phải nghiên cứu nguyên lý, bản chất, nội hàm và mục đích của việc quy định đại diện nhân dân tham gia hoạt động xét xử. Thứ hai, xác định rõ phạm vi thẩm quyền của Hội thẩm trong việc đưa ra quyết định về tình tiết vụ án, trong việc áp dụng pháp luật để bảo đảm sự tham gia đúng ý nghĩa của người dân thường trong hoạt động xét 22 xử và vai trò chuyên môn của Thẩm phán. KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 Nhà nước pháp quyền XHCN đặt ra yêu cầu cao về thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử nhằm bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân, Trước hết cần tiếp tục hoàn thiện tổ chức các Tòa án theo thẩm quyền xét xử, thành lập Tòa án sơ thẩm khu vực để tiến tới xét xử hầu hết các vụ án hình sự. Bên cạnh đó cần thay đổi mô hình quản lý các Tòa án hiện nay bằng cách thành lập Hội đồng tư pháp quốc gia. Tiếp tục đổi mới hình thức đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho các chức danh tư pháp, trong đó có Thẩm phán; mở rộng nguồn để bổ nhiệm vào chức danh Thẩm phán; tăng thời hạn bổ nhiệm Thẩm phán tiến tới chỉ bổ nhiệm 1 lần. Có chế độ đãi ngộ phù hợp và tương xứng với lao động xét xử của họ. Cải tiến chế định Hội thẩm cho phù hợp với yêu cầu về chất lượng xét xử. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu sự hình thành, phát triển của nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm, có thể rút ra một số kết luận sau đây: 1- Sự độc lập của Tòa án, cụ thể là sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm (hoặc bồi thẩm) là vấn đề đựợc quan tâm ngay từ thời kỳ cổ đại, khi các pháp quan xử án. Tòa án là cơ quan bảo vệ công lý, do đó sự độc lập của Tòa án có ý nghiã quyết định trong việc ra các phán quyết về các vụ án hình sự, liên quan đến số phận, tính mạng, tài sản và danh dự một con người. 2- Nguyên tắc độc lập xét xử được coi như một giá trị phổ quát, mang tính tiến bộ của nhân loại, không phải là sản phẩm riêng của cách mạng tư sản và của nhà nước tư sản. Với lý thuyết phân quyền, nguyên tắc này bảo đảm cho các Tòa án, dù được thiết kế theo mô hình nào cũng cố gắng để độc lập với lập pháp và đặc biệt là hành pháp. 3- Nguyên tắc độc lập xét xử ở Việt Nam đã được thể hiện từ các quy định của pháp luật phong kiến, đặc biệt là dưới triều đại thịnh trị của Lê Thánh Tông với Quốc triều hình luật. Khi cách mạng tháng Tám thành công, các văn bản pháp luật đầu tiên về tổ chức và hoạt động tư pháp của Nhà nước ta đã khẳng định nguyên tắc độc lập xét xử như là một giá trị của nền tư pháp kiểu mới. Trong hơn 70 năm qua, trong điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh hay trong thời bình, cả 5 bản Hiến pháp của nhà 23 nước ta, cũng như các luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án đều quy định nguyên tắc này. Nhà nước cũng đề ra nhiều biện pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn nhằm tránh sự can thiệp, gây ảnh hưởng từ phái các cơ quan, tổ chức, cá nhân đến việc xét xử các vụ án hình sự. Kết quả là nguyên tắc độc lập xét xử ngày càng được nhận thức đầy đủ, đúng đắn hơn và thực hiên nghiêm túc hơn.. Điều cần nhấn mạnh là Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nguyên tắc độc lập xét xử bằng quy định nghiêm cấm cá nhân, tổ chức can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án. Đây là bước tiến quan trọng để thúc đẩy hệ thống tư pháp ngày càng độc lập, công khai và minh bạch hơn, vì công lý, quyền con người. 4- Trước yêu cầu của cải cách tư pháp, nguyên tắc độc lập xét xử cần được thực hiện một cách đầy đủ và nghiêm túc. Điều đó đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện tổ chức các Tòa án theo hướng bảo đảm các Tòa án được tổ chức theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc đơn vị hành chính. Trong đó việc thành lập Tòa án sơ thẩm khu vực theo tinh thần Nghị quyết số 49NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Kết luận số 79KL/TW của Bộ Chính trị, ngày 28-7-2010 về về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án, viện kiểm sát và cơ quan điều tra. Đổi mới mô hình quản lý các Tòa án theo hướng thành lập một cơ quan độc lập (Hội đồng tư pháp quốc gia) để thực hiện quản lý nhân sự và tài chính, bảo đảm cho các Tòa án không bị lệ thuộc vào các yếu tố này khi thực hiện nhiệm vụ xét xử. Đổi mới mạnh mẽ hơn nữa chế định Hội thẩm theo hướng mềm dẻo hơn, bảo đảm đa số trong Hội đồng xét xử là người có chuyên môn, nghiệp vụ, nhưng cũng bảo đảm tính đại diện cho nhân dân trong việc xét xử các vụ án hình sự. Cải tiến một bước căn bản chế độ, chính sách, trước hết là nâng mức tiền lương của Thẩm phán cho phù hợp với lao động đặc thù của họ. Nâng cao năng lực toàn diện của Thẩm phán và Hội thẩm để họ có đủ khả năng độc lập trong xét xử. Đồng thời đổi mới chế độ tuyển dụng, bổ nhiệm, kỷ luật Thẩm phán, mở rộng nguồn bổ nhiệm Thẩm phán; đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách, tăng cường cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho các Tòa án, bảo đảm ở mức cao nhất có thể để thực hiện tốt nguyên tắc độc lập xét xử./. 24 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Quản Thị Ngọc Thảo (2014), "Độc lập của Thẩm phán từ phương diện đạo đức và pháp luật", Nhà nước và pháp luật, 10(318), tr. 12-19. 2. Quản Thị Ngọc Thảo - Lê Lan Chi (2014), "Ảnh hưởng của mô hình tố tụng hình sự tới tính độc lập của Tòa án", Nhà nước và pháp luật, 8(316), tr. 66-70. 25
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.