Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kế toán: Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam

pdf
Số trang Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kế toán: Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 26 Cỡ tệp Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kế toán: Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 620 KB Lượt tải Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kế toán: Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 0 Lượt đọc Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kế toán: Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 1
Đánh giá Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kế toán: Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
4.7 ( 9 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 26 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ  ĐẶNG THỊ LY CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KẾ TOÁN Mã số: 60 34 03 01 Đà Nẵng – Năm 2018 Công trình được hoàn thành tại TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ, ĐHĐN Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Đình Khôi Nguyên Phản biện 1: PGS. TS. Đoàn Ngọc Phi Anh Phản biện 2: TS. Nguyễn Hữu Phú Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ kế toán họp tại Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng vào ngày 28 tháng 01 năm 2018 Có thể tìm hiểu luận văn tại:  Trung tâm Thông tin-Học liệu, Đại học Đà Nẵng  Thư viện trường Đại học Kinh tế, ĐHĐN 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) đóng vai trò quan trọng và là nòng cốt của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, trong khu vực DNNN lại diễn ra tình trạng thiếu minh bạch trong việc công bố thông tin (CBTT). Do đó, dẫn đến hoạt động của các DNNN trong thời gian qua còn tồn tại khá nhiều vấn đề bất cập, xuất hiện hàng loạt những sai phạm tại nhiều Tổng công ty, Tập đoàn kinh tế như: Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt nam, Vinashin …. Nguyên nhân của sự không minh bạch trong việc CBTT cơ bản là do khung pháp lý về CBTT của DNNN chưa thực sự đồng bộ. Các yêu cầu CBTT về hoạt động SXKD của DNNN chưa tạo thành một khuôn khổ thống nhất. Đồng thời, trách nhiệm, trình tự, thủ tục CBTT của DN và các bên liên quan cũng chưa được quy định đầy đủ, thống nhất. Vì vậy, để bảo đảm yêu cầu công khai, minh bạch về hoạt động, bảo đảm tính hiệu quả, hiệu lực trong hoạt động quản lý và giám sát của cơ quan Nhà nước và của xã hội đối với DNNN, ngày 18/6/2014 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 36/2014/QĐ-TTg về quy chế CBTT của công ty TNHH MTV do Nhà nước làm chủ sở hữu. Tuy nhiên, tính đến thời điểm tháng 10/2015 (hơn 1 năm sau khi Quyết định số 36/2014/QĐTTg được ban hành), thì chỉ mới có 82/478 DN cung cấp thông tin, chiếm tỷ lệ khoảng 16,8% và chưa có DN nào thực hiện công bố đầy đủ các nội dung theo đúng quy định, nội dung thông tin công bố còn sơ sài, chưa đầy đủ; quy trình công bố cũng chưa được đảm bảo theo quy định. Để khắc phục tình trạng trên, đồng thời nhằm hướng dẫn 2 các nội dung CBTT của DNNN, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 81/2015/NĐ-CP vào ngày 18/9/2015. Song đến 31/12/2016, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết mới nhận được báo cáo của 241 DN, chiếm tỷ lệ 38,87% Ngoài ra, không ít DNNN công bố không đúng thời gian và thiếu thông tin theo quy định. Về phía các cá nhân, tổ chức cũng như người dân thì họ luôn có nhu cầu được biết đầy đủ các thông tin để giám sát tình hình hoạt động của DNNN. Bởi lẽ họ có thể được xem như là những người có quyền lợi gián tiếp ở các DNNN khi đã thực hiện nghĩa vụ công dân vào ngân sách Nhà Nước thông qua các khoản thuế, phục vụ cho hoạt động của Nhà nước và trong đó có cả việc đầu tư cho DNNN. Trong khi phần lớn các DN này lại lơ là trong việc cung cấp thông tin của mình. Câu hỏi đặt ra là mức độ CBTT của các DNNN hiện nay như thế nào? Đâu là những yếu tố ảnh hưởng đến CBTT của DNNN 2 năm sau khi Nghị định 81/2015/NĐ-CP được áp dụng. Xuất phát từ thực tiễn và vấn đề nêu trên, đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam” được lựa chọn để nghiên cứu. 2. Mục tiêu nghiên cứu Luận văn sẽ tập trung vào các mục tiêu sau:  Đánh giá mức độ CBTT của các DNNN ở Việt Nam.  Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT của DNNN ở Việt Nam.  Đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm đẩy mạnh CBTT của DNNN ở Việt Nam. 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu  Đối tượng nghiên cứu: việc CBTT của các DNNN ở Việt Nam thông qua các báo cáo và bảng kế hoạch của các DN này.  Phạm vi nghiên cứu: Các DNNN trong nghiên cứu này là các DN Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ. Các công ty cổ phần có tỷ lệ sở hữu Nhà nước không thuộc phạm vi của nghiên cứu này. Ngoài ra, nghiên cứu được tiến hành chỉ trong năm 2016, do năm 2015 NĐ 81/2015 mới đi vào thực hiện nên việc CBTT ở giai đoạn đầu quá ít. 4. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu dựa trên nguồn dữ liệu thứ cấp là các báo cáo và các bảng kế hoạch năm 2016 của 90 DNNN được công bố trên cổng thông tin DN của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Thông qua việc xây dựng các chỉ mục CBTT từ các báo cáo và các bảng kế hoạch trên, tiến hành tính chỉ số CBTT. Phương pháp phân tích hồi quy bội được sử dụng để xác định các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT của các DNNN tại Việt Nam. 5. Bố cục đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 4 chương: Mở đầu Chương 1: Cơ sở lý luận chung về các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin của doanh nghiệp Chương 2: Thiết kế nghiên cứu Chương 3: Phân tích kết quả nghiên cứu Chương 4: Hàm ý chính sách 4 Kết luận 6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu Các nghiên cứu trong nước Vấn đề CBTT nói chung trong DN luôn nhận được sự quan tâm từ nhiều đối tượng khác nhau. Vì thế không ít các nghiên cứu đã được thực hiện. Các nghiên cứu này được thực hiện ở các DN trong các ngành khác nhau. Tuy nhiên cách thức và phương pháp thực hiện tương tự nhau từ khâu thu thập, xử lý số liệu đến phân tích kết quả. Kết quả của các nghiên cứu cũng có sự tương đồng nhau về nhân tố tác động đến CBTT. Cụ thể, trong nghiên cứu của Phạm Thị Thu Đông về “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trong báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Hà Nội”. Kết quả cho thấy các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT gồm: khả năng sinh lời và tài sản cố định. Còn trong nghiên cứu của Huỳnh Thị Vân “Nghiên cứu mức độ công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp ngành xây dựng yết giá tại sở giao dịch chứng khoán Hà Nội”, chỉ có nhân tố quy mô DN có ảnh hưởng đến mức độ CBTT. Trong đề tài “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trong báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành vận tải niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” của Phan Tôn Nữ Nguyên Hồng, kết quả cho thấy các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT bao gồm: quy mô DN, khả năng thanh toán, chủ thể kiểm toán. Một nghiên cứu khác thực hiện trong ngành lương thực thực phẩm của Nguyễn Thị Thủy Hưởng “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trong báo cáo tài chính của các doanh nghiệp chế biến 5 lương thực thực phẩm niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh”, kết quả cho thấy chỉ có nhân tố khả năng thanh toán tác động đến mức độ CBTT của DN. Thực hiện trong phạm vi rộng hơn, Nguyễn Thị Thu Hảo đã nghiên cứu “Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện của các doanh nghiệp niêm yết trên HOSE”. Kết quả phân tích cho thấy 3 nhân tố: quy mô, loại hình sở hữu có yếu tố nước ngoài, và lợi nhuận có ảnh hưởng đến mức độ CBTT tự nguyện của các DN niêm yết trên HOSE. Các nghiên cứu nước ngoài Trên thế giới cũng đã có nhiều nghiên cứu về CBTT được thực hiện với các mục tiêu khác nhau nhưng đa số đều xoay quanh vấn đề chất lượng thông tin công bố, sử dụng thông tin và các nhân tố ảnh hưởng đến CBTT. Liên quan đến chất lượng và sử dụng thông tin công bố thì có nghiên cứu của Byard về “Chất lượng công bố thông tin doanh nghiệp và tính chất của môi trường thông tin trong phân tích”. Bài báo xem xét các mối quan hệ giữa chất lượng thông tin mà DN công bố và tính chính xác của thông tin từ các nhà phân tích để hiểu rõ hơn cách mà các nhà phân tích sử dụng thông tin công bố trong dự báo thu nhập. Kết quả cho thấy rằng chất lượng thông tin công bố cao sẽ làm tăng độ chính xác của thông tin từ các nhà phân tích. Ngoài ra, các nhà phân tích dựa nhiều vào dữ liệu tài chính được công bố sẵn hơn là lấy thông tin từ việc trao đổi với quản lý để đưa ra dự báo lợi nhuận hàng năm. Các nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến CBTT tự nguyện thì có nghiên cứu của Ismail “Điều tra thực nghiệm về các yếu tố ảnh 6 hưởng đến công bố thông tin tài chính tự nguyện trên Internet tại các nước thuộc Hội đồng hợp tác vùng vịnh (GCC)”. Kết quả cho thấy việc CBTT tài chính của DN trên internet không chỉ phụ thuộc vào đặc điểm mà còn phụ thuộc vào ảnh hưởng của sự tương tác giữa đặc điểm của DN (quy mô, đòn bẩy và lợi nhuận), ngành công nghiệp và quốc gia. Mở rộng đối tượng nghiên cứu sang các công ty đa quốc gia ở Mỹ, Anh và châu Âu, Meek thực hiện đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin tự nguyện trên báo cáo hàng năm của các công ty đa quốc gia ở Mỹ, Anh và châu Âu”. Kết quả chung cho thấy các công ty đa quốc gia ở châu Âu công bố nhiều thông tin tự nguyện hơn các công ty đa quốc gia ở Mỹ và Anh. Việc CBTT tự nguyện tùy vào loại thông tin. Các công ty đa quốc gia nằm ở vùng châu Âu và Anh công bố nhiều thông tin tự nguyện phi tài chính hơn ở Mỹ. Các nhóm ngành: dầu, hóa chất và khai thác mỏ công bố nhiều thông tin hơn các ngành khác. Các công ty có quy mô càng lớn thì có xu hướng công bố nhiều thông tin tài chính và phi tài chính hơn. Ngoài ra, các công ty đa quốc gia nằm ở Anh sẽ cung cấp nhiều thông tin tài chính hơn. Các công ty niêm yết quốc tế sẽ cung cấp nhiều thông tin tài chính hơn là chỉ niêm yết trong nước. Chuyển đối tượng nghiên cứu sang nước đang phát triển, Barako đã thực hiện nghiên cứu “Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin tự nguyện của các công ty ở Kenyan”. Kết quả cho thấy mức độ công bố tự nguyện bị ảnh hưởng bởi: quản trị DN, cấu trúc quyền sở hữu và đặc điểm của công ty. Ủy ban kiểm toán là yếu tố quan trọng tác động đến mức độ CBTT tự nguyện, và tỷ lệ các thành viên không điều hành trong hội đồng quản trị được coi là có tác động tương quan 7 nghịch đến mức độ CBTT tự nguyện. Nghiên cứu cũng cho thấy mức độ sở hữu là các tổ chức và sở hữu nước ngoài có tác động tích cực đáng kể đến việc CBTT tự nguyện. Các công ty lớn và các công ty có đòn bẩy tài chính cao thì mức độ CBTT tự nguyện cao hơn. CBTT trách nhiệm xã hội có liên quan đến yếu tố sở hữu của Chính phủ thì có nghiên cứu của Mohd Ghazali về “Cơ cấu sở hữu và công bố trách nhiệm xã hội của công ty: một số bằng chứng ở Malaysia”. Kết quả cho thấy hai biến số: sở hữu của giám đốc điều hành và sở hữu của chính phủ (là các cổ đông lớn), là những thuộc tính kinh doanh chung của Malaysia, có ảnh hưởng đáng kể đến việc CBTT trách nhiệm xã hội trong các báo cáo hàng năm. Những kết quả này làm nổi bật rằng việc phân loại các quyền sở hữu khác nhau rất quan trọng trong việc xác định tác động của cơ cấu quyền sở hữu đối với CBTT trách nhiệm xã hội. Cũng liên quan đến sở hữu của Chính phủ (Nhà nước) thì Eng đã thực hiện nghiên cứu “Quản trị doanh nghiệp và mức độ công bố thông tin”. Trong đó tác giả có xem xét đến yếu tố sở hữu Nhà nước (các công ty có sở hữu Nhà nước từ 20% trở lên). Kết quả cho thấy rằng sở hữu quản lý thấp và quyền sở hữu Nhà nước có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng mức độ CBTT tự nguyện. Sự gia tăng các giám đốc bên ngoài làm giảm việc CBTT tự nguyện. Các DN lớn CBTT càng nhiều, trong khi đó những công ty có nợ thấp thì CBTT nhiều hơn. Có khá nhiều nghiên cứu về CBTT trong nước cũng như trên thế giới. Tuy nhiên các nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào đối tượng là các DN thuộc các loại hình: công ty đa quốc gia, công ty cổ phần, tập đoàn niêm yết trên thị trường chứng khoán. Cho đến nay có ít 8 nghiên cứu thực hiện trên đối tượng là DNNN (DN có 100% sở hữu của Nhà nước). Tại Việt Nam, hiện nay vẫn chưa có nghiên cứu nào đánh giá về mức độ CBTT của DNNN cũng như tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến CBTT của DN này. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA DOANH NGHIỆP 1.1. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG BỐ THÔNG TIN 1.1.1 Khái Niệm CBTT là việc cung cấp các loại thông tin liên quan đến hoạt động của DN cho các đối tượng bên trong và bên ngoài đơn vị thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. 1.1.2 Phân Loại a. Phân loại theo thời điểm công bố - Công bố định kỳ - Công bố bất thường - Công bố theo yêu cầu b. Phân loại theo tính chất bắt buộc hay tự nguyện - Công bố bắt buộc - Công bố tự nguyện c. Phân loại theo tính chất của thông tin - Thông tin tài chính - Thông tin phi tài chính 1.1.3 Vai trò của công bố thông tin
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.