Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999

pdf
Số trang Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 18 Cỡ tệp Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 382 KB Lượt tải Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 0 Lượt đọc Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 2
Đánh giá Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
4.9 ( 21 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 18 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 Trần Đình Hải Khoa Luật Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật Hình sự; Mã số: 60 38 40 Người hướng dẫn: TS. Phạm Mạnh Hùng Năm bảo vệ: 2012 Abstract: Trình bày một số vấn đề chung về tội cướp tài sản và dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản trong luật hình sự Việt Nam. Nghiên cứu quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản và thực tiễn áp dụng. Đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản trong luật hình sự Việt Nam. Keywords: Luật hình sự; Pháp luật Việt Nam; Tội cướp tài sản; Bộ luật hình sự Content MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong mọi tình huống, tạo ra môi trường xã hội ổn định phục vụ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân, giữ vững kỉ cương pháp luật, sự nghiêm minh của pháp chế xã hội chủ nghĩa… là nhiệm vụ và mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Những mục tiêu trên được cụ thể hóa thông qua Nghị quyết 09/NQ-CP và Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm và Chỉ thị số 37/2004/CT-TTg "Về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 09/NQ-CP và Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm của Chính phủ từ nay đến năm 2010 ngày 08/11/2004. Bộ luật hình sự (BLHS) là một trong những công cụ sắc bén và hữu hiệu của Nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, duy trì trật tự, an toàn xã hội, chống lại mọi hành vi phạm tội, giáo dục người dân ý thức chấp hành và tuân thủ pháp luật. Trong những năm vừa qua, bên cạnh những thành tựu to lớn về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội chúng ta cũng không thể xem nhẹ vấn đề về sự gia tăng của tội phạm nói chung và các tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng. Trong các tội phạm xâm phạm sở hữu hiện nay, cướp tài sản là tội phạm gây hậu quả hết sức nghiêm trọng, là vấn đề gây nhức nhối đối với toàn xã hội, tội phạm này vừa phổ biến, đa dạng về hình thức, đối tượng phạm tội lại vừa gây tâm lý hoang mang trong đại đa số bộ phận dân chúng, gây ảnh hưởng rất lớn tới trật tự an toàn xã hội. Cướp tài sản là tội phạm xâm hại nghiêm trọng tới cả quan hệ sở hữu và nhân thân, hành vi phạm tội thường được thực hiện một cách nguy hiểm, côn đồ, công khai với người bị hại, thể hiện ý thức coi thường pháp luật, kỷ cương xã hội. Hiện nay, công cuộc cải cách tư pháp, Nhà nước ta đang không ngừng xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật nói chung và các quy định của pháp luật hình sự nói riêng. Đây là một xu thế tất yếu và là nhiệm vụ chiến lược nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, đồng thời thực hiện tốt các nhiệm vụ và các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc đã đề ra, cũng như các yêu cầu cấp bách được thể hiện thông qua các văn bản của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam như Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới", Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 "Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020" và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 "Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020". Do đó, để góp phần làm sáng tỏ những nội dung cũng như những tồn tại trong công tác áp dụng pháp luật và phương hướng hoàn thiện về các dấu hiệu định khung quy định trong tội cướp tài sản theo quy định của BLHS năm 1999, chúng tôi đã quyết định chọn đề tài "Dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999" để làm luận văn thạc sĩ của mình. "Dấu hiệu hình sự" là những biểu hiện của tội phạm bao gồm những biểu hiện của hành vi phạm tội, những điều kiện, đặc điểm của người phạm tội, những hoàn cảnh, tình huống, đối tượng có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện tội phạm qua đó phản ánh tính nguy hiểm của tội phạm, trách nhiệm hình sự (TNHS) của người phạm tội phản ánh quan điểm của Nhà nước ta về tội phạm cũng như chính sách hình sự của Nhà nước. Các "dấu hiệu hình sự" được người áp dụng luật sử dụng làm căn cứ để định tội, định khung cũng như quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Nếu thiếu những tình tiết cụ thể, những căn cứ xác đáng có thể dẫn đến việc định tội danh, định khung hình phạt hay quyết định hình phạt không đúng, không phù hợp, làm cho hình phạt không đạt được mục đích khi áp dụng đối với người phạm tội. Dấu hiệu định khung hình phạt là một trong những dấu hiệu hình sự phản ánh đầy đủ các đặc điểm nêu trên. Tình tiết định khung hình phạt là những tình tiết của tội phạm phù hợp và thỏa mãn dấu hiệu định khung hình phạt (cấu thành tội phạm (CTTP) giảm nhẹ hoặc tăng nặng) của những tội cụ thể của BLHS. Những tình tiết đó có thể là tình tiết thuộc về hành vi phạm tội, thuộc về đối tượng tác động của tội phạm, thuộc về nhận thức, thái độ của người phạm tội đối với việc phạm tội, thuộc về những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội… Những tình tiết đó có thể được quy định là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS. Do tính đa dạng của tội phạm, bên cạnh CTTP cơ bản (của một loại tội), nhà làm luật còn quy định thêm các dấu hiệu phản ánh tội phạm có tính nguy hiểm cho xã hội cao hoặc thấp với những khung hình phạt nặng hoặc nhẹ khác nhau so với khung hình phạt của CTTP cơ bản. Những dấu hiệu đó được gọi là dấu hiệu (yếu tố) định khung hình phạt. Khi các tình tiết của tội phạm thỏa mãn không những dấu hiệu định tội (CTTP cơ bản), mà còn thỏa mãn dấu hiệu có thêm của CTTP giảm nhẹ hoặc tăng nặng sẽ cho phép chuyển khung hình phạt áp 2 dụng đối với người phạm tội từ khung hình phạt của CTTP cơ bản sang khung hình phạt của CTTP giảm nhẹ hoặc CTTP tăng nặng. Hơn nữa, tội phạm là thể thống nhất không thể chia cắt, tất cả các tình tiết - biểu hiện của tội phạm đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong luật hình sự, hình phạt được Tòa án áp dụng nhằm mục đích không chỉ trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Mỗi loại tội danh đều quy định một khung hình phạt nhất định phù hợp với tính chất và mức độ của hành nguy hiểm cho xã hội gây ra. Vì vậy, việc xác định đúng dấu hiệu định khung trong vụ án hình sự là hết sức quan trọng, bởi lẽ nó ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thực hiện hành vi vi phạm cũng như mục đích và tính nghiêm minh của pháp luật hình sự. Trong phạm vi luận văn này chúng tôi tập trung nghiên cứu về các dấu hiệu định khung được quy định trong tội cướp tài sản theo quy định của BLHS năm 1999. 2. Tình hình nghiên cứu Tội cướp tài sản nói chung và dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản nói riêng đã được nghiên cứu dưới các góc độ khoa học luật hình sự và tội phạm học ở những mức độ khác nhau thông qua các công trình sau đây: * Nhóm thứ nhất, trong các giáo trình, sách giáo khoa, sách chuyên khảo: Giáo trình luật hình sự Việt Nam- Chương XX: Các tội xâm phạm sở hữu, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân (2010) do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên; Đinh Văn Quế - Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các tội phạm- Phần thứ II: Các tội phạm cụ thể, tập II, Nxb tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (2006); TS. Trần Minh Hưởng - Tìm hiểu Bộ luật hình sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Bình luận và chú giải - Chương IV: Các tội xâm phạm quyền sở hữu, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002; Bình luật khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (Phần các tội phạm) - Chương IV: Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội do PGS.TS Phùng Thế Vắc chủ biên (2001); Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội (2001) do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên (tái bản năm 2003 và 2007); Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)- Chương IV: Các tội xâm phạm sở hữu, Cao Thị Oanh, Nxb Giáo dục (2010); Luật hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân (1997); Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội (2001); Bình luận Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung năm 2009, ThS. Đinh Thế Hưng - ThS. Trần Văn Biên - Viện Nhà nước và pháp luật - Chương XIV: Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Lao động (2010); v.v... * Nhóm thứ hai, trong các luận án, luận văn, bài viết và đề tài khoa học như: "Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên địa bàn Hà Nội", Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường đại học Luật Hà Nội của Đỗ Kim Tuyến (2001); "Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu", Luận án Tiến sĩ luật học của Nguyễn Ngọc Chí (2000); Võ Minh Tiến: "Đấu tranh phòng chống tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi" - Luận văn Thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội (2006); Nguyễn Quảng Nghĩa -"Hoạt động điều tra các vụ án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Hà Tây của lực lượng Cảnh sát điều tra", Luận án tiến sĩ, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội (2002); Luận văn "Đấu tranh phòng, chống các tội xâm 3 phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa" của Lê Thị Khanh - Đại học Luật Hà Nội (2006); Dương Tuyết Miên - Tội phạm cấu thành hình thức có giai đoạn phạm tội chưa đạt không?, Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND), số 8/1997; Nguyễn Ngọc Chí - "Đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu" đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 2/1998, bài "Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999" của Trương Quang Vinh, tạp chí Luật học số 4/2000; v.v... Các công trình nghiên cứu, bài viết đăng trên tạp chí cũng như sách chuyên khảo, giáo trình về tội cướp tài sản tuy có số lượng rất lớn nhưng thông thường tập trung đi sâu vào nội dung, quan tâm tới vấn đề lý luận về dấu hiệu định tội của tội cướp tài sản hoặc nhìn nhận vấn đề dưới góc độ tội phạm học, đấu tranh phòng ngừa tội cướp tài sản trên một địa bàn nhất định. Cướp tài sản và đặc biệt là các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản chỉ là một phần khá nhỏ được nêu ra và phân tích. Vì vậy, việc nghiên cứu để hoàn thiện các quy định của BLHS về các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản cũng như đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về tội phạm này vẫn là vấn đề bổ ích và cần thiết trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản theo quy định của BLHS Việt Nam năm 1999. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản dưới góc độ luật hình sự, cả lý luận và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam, từ năm 2007 đến nay. 4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, về tội phạm và hình phạt; những thành tựu của các ngành khoa học như: Triết học, Luật hình sự, Tội phạm học… 4.2. Các phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp hệ thống, lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn, điều tra xã hội học… qua đó rút ra những kết luận, đề xuất phù hợp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề cần nghiên cứu. 5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm nhận thức đầy đủ và đúng đắn về dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản trong BLHS Việt Nam năm 1999 và đưa ra phương hướng hoàn thiện những dấu hiệu này. 5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 4 Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản theo quy định BLHS năm 1999; thực tiễn áp dụng dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản và kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về những dấu hiệu này. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Luận văn làm rõ các vấn đề chung về các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản trong luật hình sự Việt Nam, phân tích khái quát sự hình thành và phát triển của các quy định pháp luật hình sự nước ta về các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản trong suốt chiều dài lịch sử; nêu ra một số tồn tại trong áp dụng quy định của pháp luật hình sự trong thực tiễn; phân tích thông qua thực tiễn xét xử về tội cướp tài sản trên toàn quốc từ năm 2007 đến năm 2010 để đánh giá, qua đó chỉ ra những vấn đề còn tồn tại, những bất cấp trong quy định của luật hình sự hiện hành, chỉ ra những sai sót trong quá trình áp dụng các quy định đó, từ đó tìm ra những phương hướng, giải pháp khắc phục, đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản trên cả khía cạnh lập pháp và công tác thực tiễn. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận, có thể sử dụng để nghiên cứu, học tập. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS liên quan đến các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về tội cướp tài sản và dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản trong luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản trong luật hình sự Việt Nam. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN VÀ DẤU HIỆU ĐỊNH KHUNG CỦA TỘI CƯỚP TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm tội cướp tài sản và dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản 5 1.1.1. Khái niệm dấu hiệu định khung và phân biệt dấu hiệu định khung với dấu hiệu định tội và tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự * Khái niệm dấu hiệu định khung Dấu hiệu định khung hình phạt là dấu hiệu thuộc cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc cấu thành tội phạm giảm nhẹ, cho phép xác định khung hình phạt giảm nhẹ hoặc tăng nặng so với mức hình phạt quy định trong CTTP cơ bản của những tội cụ thể trong BLHS. Khi các tình tiết của tội phạm không những thỏa mãn dấu hiệu định tội (CTTP cơ bản) mà còn thỏa mãn dấu hiệu của CTTP giảm nhẹ hoặc tăng nặng sẽ cho phép chuyển khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội từ khung hình phạt của CTTP cơ bản sang khung hình phạt của CTTP giảm nhẹ hoặc CTTP tăng nặng. * Phân biệt dấu hiệu định khung với dấu hiệu định tội và tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự - Sự khác nhau giữa dấu hiệu định khung với dấu hiệu định tội Dấu hiệu định tội là những dấu hiệu, biểu hiện của tội phạm phù hợp với các dấu hiệu định tội (dấu hiệu CTTP cơ bản) của tội cụ thể trong BLHS. Ý nghĩa định tội của các tình tiết thể hiện ở chỗ các tình tiết của tội phạm phù hợp và thỏa mãn dấu hiệu CTTP của tội cụ thể trong BLHS. Các tình tiết đó cho phép xác định được người phạm tội đã phạm tội gì, theo điều nào trong BLHS. Qua đó có thể áp dụng TNHS cho người phạm tội, dấu hiệu định tội là là những vấn đề cần quan tâm và giải quyết đầu tiên của các cơ quan tiến hành tố tụng khi xem xét một vụ án hình sự, định tội danh là bước đầu tiên trong quá trình tố tụng (xét trên khía cạnh khoa học luật hình sự), khi hành vi thỏa mãn CTTP cơ bản được quy định trong bộ luật hình, nếu thỏa mãn CTTP cơ bản rồi, tiếp sau đó sẽ xem xét tới các dấu hiệu định khung được quy định trong cùng một điều luật nhưng có những tình tiết khác làm tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS của người phạm tội trước khi nghiên cứu về hình phạt áp dụng đối với người phạm tội. Tình tiết định khung hình phạt là những tình tiết của tội phạm phù hợp và thỏa mãn dấu hiệu định khung hình phạt (CTTP giảm nhẹ hoặc tăng nặng) của những tội cụ thể trong BLHS. - Sự khác nhau giữa dấu hiệu định khung hình phạt với các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Sự khác nhau giữa các tình tiết định tội, định khung và tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS là ở chỗ: Các tình tiết định tội, định khung chỉ riêng biệt cho từng tội phạm; các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS có thể áp dụng cho tất cả các tội hoặc cho nhiều tội khác nhau. Tình tiết định tội được phản ánh trong CTTP cơ bản của mỗi loại tội. Tình tiết định khung hình phạt được phản ánh trong CTTP giảm nhẹ hay tăng nặng của mỗi loại tội. Còn các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS được quy định chung tại Điều 46 và Điều 48 BLHS. 1.1.2. Khái niệm tội cướp tài sản và dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản trong luật hình sự Việt Nam * Khái niệm tội cướp tài sản Trên cơ sở tổng kết các quan điểm khác nhau trong khoa học và căn cứ vào các quy định của BLHS năm 1999 hiện hành, khái niệm tội cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc các hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình 6 trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến quan hệ nhân thân thông qua việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe người bị hại và xâm hại đến quyền sở hữu tài sản. a) Khách thể của tội cướp tài sản Khách thể của tội cướp tài sản bao gồm cả quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân, hành vi cướp tài sản cùng một lúc xâm hại hai khách thể, khách thể bị xâm phạm trước là quan hệ nhân thân thông qua việc xâm phạm đến cơ thể người bị hại, thông qua việc xâm hại nhân thân mà người phạm tội xâm hại đến quyền sở hữu tài sản, nếu không xâm hại quan hệ nhân thân thì người phạm tội không thể xâm hại tài sản được b) Mặt khách quan của tội cướp tài sản Hành vi được mô tả trong CTTP của tội cướp tài sản bao gồm hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực và hành vi khác làm nạn nhân lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản là bắt buộc trong tội cướp tài sản. c) Chủ thể của tội cướp tài sản Chủ thể của tội cướp tài sản là phải từ đủ 14 tuổi và có đủ năng lực hành vi. d) Mặt chủ quan của tội cướp tài sản Lỗi của người phạm tội là người lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội biết rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, biết rõ tài sản là tài sản của người khác nhưng vẫn muốn chiếm đoạt tới cùng và biến tài sản đó thành của mình. Người phạm tội không chỉ cố ý thực hiện hành vi phạm tội mà còn phải có mục đích chiếm đoạt tài sản thì mới là tội cướp tài sản. Ý thức chiếm đoạt của người phạm tội có trước khi thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP. Nếu người phạm tội thực hiện những hành vi đó nhưng không với mục đích chiếm đoạt tài sản mà với mục đích khác (như gây thương tích, giết người...) nhưng sau đó nạn nhân bỏ chạy và để lại tài sản, người phạm tội mới nảy ra ý định chiếm đoạt tài sản đó thì đây không chắc phải là trường hợp cướp tài sản mà tùy từng trường hợp người phạm tội bị truy cứu về các tội phạm tương ứng. 1.2. Khái quát lịch sử các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp tài sản và các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản giai đoạn trước khi có Bộ luật hình sự năm 1999 Triều đại nhà Lê đã để lại những thành tựu hết sức to lớn và có ý nghĩa đặc biệt trong lĩnh vực pháp luật và điển chế. nổi bật và quan trọng nhất trong số các đạo luật thời này là Bộ " Quốc Triều Hình luật", gồm 6 tập được hoàn thiện dưới thời vua Lê Thánh Tông. "Quốc Triều Hình luật" là thành tựu chung của toàn bộ nền pháp luật thời Lê với nhiều lần được san định, bổ sung, hoàn chỉnh và in khắc. " Quốc Triều Hình luật" có các quy định riêng về các tội phạm trong lĩnh vực hình sự, trong đó có tội cướp được được xây dựng nằm trong chương " Đạo tặc". Hoàng Việt Luật Lệ (hay còn gọi là Luật Gia Long) được xây dựng và hoàn thiện dưới Triều vua Gia Long - nhà Nguyễn, Luật Gia Long được xây dựng trên cơ sở kế thừa các quy định của Bộ luật nổi tiếng nhất trong lịch sử đất nước khi đó là Bộ "Quốc Triều Hình luật". Thời kỳ thuộc địa, thực dân Pháp áp dụng pháp luật hà khắc, chủ yếu nhằm đàn áp các phong trào và các cá nhân yêu nước, các quan hệ xã hội được điều chỉnh cả bằng các sắc luật cũ của triều đại phong kiến bù nhìn và các quy định mới được ban hành bởi chế độ thực dân. Cách mạng tháng Tám thành công, chính phủ non trẻ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành một loạt các sắc lệnh, các quy định khác của pháp luật nhằm trừng trị các tội phản cách mạng. Giai đoạn sau Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội khác phát sinh trong đời sống, tội 7 cướp và hình phạt cho người phạm tội này được quy định tại Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 21/10/1970 (Điều 4) và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày 21/10/1970 (Điều 3), trong đó hành vi được cho là cướp tài sản chỉ được mô tả " kẻ nào dùng bạo lực để chiếm đoạt...". Năm 1985, lần đầu tiên Luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ra đời, đây là bước phát triển đột phá trong tiến trình xây dựng luật pháp của đất nước ta. Hành vi cướp tài sản được quy định tại tại hai điều, căn cứ vào dấu hiệu chủ tài sản bị thực hiện hành vi cướp, đó là tại Điều 129 quy định về tội cướp tài sản xã hội chủ nghĩa (nằm tại chương V quy định về các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa) và tại Điều 151 tội cướp tài sản của công dân (quy định tại Chương VI về các tội xâm phạm sở hữu của công dân). 1.3. Quy định của pháp luật hình sự một số nước về tội cướp tài sản và dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản Cướp tài sản là một chế định quan trọng của luật hình sự ở bất cứ quốc gia nào, luật hình sự các nước trên thế giới đều chú trọng và quy định rất chi tiết về nội dung cũng như những chế tài áp dụng đối với người phạm tội nhằm bảo vệ các quan hệ sở hữu, quyền, lợi ích hợp pháp của chủ tài sản, trừng trị cũng như giáo dục, cải tạo người phạm tội. * Tội cướp tài sản và các dấu hiệu định khung của tội cướp trong luật hình sự Cộng hòa Dân chủ nhân dân Trung Hoa. * Tội cướp tài sản và các dấu hiệu định khung của tội cướp trong luật hình sự Malaysia. * Tội cướp tài sản và các dấu hiệu định khung của tội cướp trong luật hình sự Liên bang Nga. Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ DẤU HIỆU ĐỊNH KHUNG CỦA TỘI CƯỚP TÀI SẢN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản Dấu hiệu định khung hình phạt của tội cướp tài sản là dấu hiệu thuộc cấu thành tội phạm tăng nặng cho phép xác định khung hình phạt tăng nặng so với mức hình phạt quy định trong cấu thành tội phạm cơ bản. Khi các tình tiết của tội phạm không những thỏa mãn dấu hiệu định tội mà còn thỏa mãn dấu hiệu của CTTP tăng nặng sẽ cho phép chuyển khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội từ khung hình phạt của CTTP cơ bản sang khung hình phạt của CTTP tăng nặng. 2.2.1. Cướp tài sản có tổ chức (Điểm a, khoản 2) 2.2.2 . Phạm tội cướp tài sản có tính chất chuyên nghiệp(điểm b) 2.2.3. Tái phạm nguy hiểm (điểm c) 2.2.4 . Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác (điểm d) 2.2.5 . Dấu hiệu định khung căn cứ vào tỷ lệ thương tật, tổn hại sức khỏe của người bị hại. 2.2.6. Dấu hiệu định khung căn cứ vào giá trị tài sản 2.2.7. Gây hậu quả nghiêm trọng (điểm g, khoản 2 Điều 133); gây hậu quả rất nghiêm trọng (điểm c, khoản 3); gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng (điểm c, khoản 4). 8 2.2. Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản 2.2.1. Tình hình áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp tài sản trong những năm qua Tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn cả nước hiện nay khá phức tạp, số lượng vụ việc lớn, chưa kể tới những vụ án vì lý do khác nhau mà chưa được giải quyết một cách triệt để. So với những tội phạm khác được quy định trong BLHS thì tội cướp tài sản là loại tội rất phổ biến, thể hiện ở số lượng những vụ án, tội cướp tài sản xuất hiện ở bất cứ địa phương nào trên cả nước và vào bất cứ thời gian nào. Cụ thể từ năm 2007 đến năm 2010 cả nước có 8294 vụ, với 21.479 bị cáo. Hình phạt áp dụng đối với những bị cáo phạm tội cướp tài sản cũng rất đa dạng từ cải tạo không giam giữ, cảnh cáo, phạt tiền, phạt tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình. Trong đó số lượng bị cáo bị tuyên phạt hình phạt tù có thời hạn là phổ biến nhất với tổng số 16.113 bị cáo, điều đó cho thấy chế tài hình sự phổ biến nhất được áp dụng đối với các bị cáo phạm tội cướp là hình phạt tù có thời hạn. Ngoài ra các biện pháp hình sự khác như án treo cũng được áp dụng khá nhiều, một số trường hợp được miễn TNHS. 2.3.2 Một số vướng mắc và tồn tại khi áp dụng các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản a) Một số trường hợp nhầm lẫn trong việc xác định chính xác khung hình phạt Trường hợp dùng vũ khí đã mất tính năng sử dụng, người phạm tội biết rõ điều đó nhưng người bị hại không nhận thức được tính năng của vũ khí đã bị mất, do đó vẫn sợ hãi và giao tài sản cho người phạm tội hay như trường hợp người phạm tội sử dụng vũ khí giả như súng nhựa, súng gỗ.. cho tới nay vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất. Tình tiết "sử dụng phương tiện nguy hiểm" còn hay bị nhầm lẫn với hành vi sử dụng các phương tiện chuyên chở để thực hiện hành vi phạm tội. b) Những tồn tại trong việc áp dụng chính xác một số dấu hiệu định khung cụ thể * Trường hợp người phạm tội sử dụng vũ khí đã mất tính năng sử dụng: * Đối với trường hợp người phạm tội sử dụng vũ khí giả như súng nhựa, súng gỗ… để đe dọa người bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản và người bị hại cũng tưởng là súng thật nên quá sợ hãi mà giao tài sản cho người phạm tội: * Về dấu hiệu định khung tăng nặng "sử dụng phương tiện nguy hiểm" quy định tại điểm d, khoản 2 Điều 133 BLHS năm 1999. Với tình tiết này, rất nhiều trường hợp khi áp dụng trong thực tiễn công tác tố tụng đã nhầm lẫn trong việc chỉ xác định phương tiện nguy hiểm như là những phương tiện giao thông, phương tiện chuyên chở hay phương tiện chuyên dùng được người phạm tội sử dụng trong việc thực hiện tội phạm của người khác. Tuy nhiên, "phương tiện nguy hiểm" ở đây phải được hiểu theo nghĩa rộng hơn chứ không chỉ là những phương tiện chuyên chở như trên, phương tiện đó là vật phẩm do con người chế tạo ra để phục vụ cho mục đích sinh hoạt, được người phạm tội sử dụng trong việc gây án, có thể chỉ là vũ khí thô sơ hoặc những vật dụng hàng ngày nhưng khi sử dụng chúng thì khả năng gây nguy hiểm cho con người là rất cao. c) Vướng mắc trong việc xác định dấu hiệu định khung "cướp tài sản có tổ chức" Dấu hiệu này cần hoàn thiện hơn về mặt khái niệm cũng như cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội. Đặc biệt pháp luật cần có những giải thích rõ ràng, cụ thể và thống nhất hơn về khái niệm "câu kết chặt chẽ’ giữa những người đồng phạm. 9 d) Về dấu hiệu định khung "tái phạm nguy hiểm" Tái phạm nguy hiểm là trường hợp đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; hoặc tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý (Điểm a và điểm b khoản 2 Điều 49). e) Tồn tại trong việc áp dụng các chế tài hình sự khi xét xử người phạm tội cướp tài sản Thứ nhất, về hình phạt cải tạo không giam giữ mà các tòa án đã tuyên đối với các bị cáo phạm tội này. Xét về tính hợp pháp trong việc áp dụng loại hình phạt đối với bị cáo phạm tội cướp tài sản thì đây là những quyết định áp dụng quy định của pháp luật không chính xác đòi hỏi phải có sự nghiên cứu kĩ lưỡng hơn nhằm áp dụng pháp luật một cách chuẩn xác Thứ hai, một số chế tài được áp dụng trong thực tiễn khá nhiều tuy có những trường hợp chưa hợp pháp nhưng lại " hợp tình" đòi hỏi phải có sự xem xét lại trong quy định của BLHS nhằm thỏa mãn cả hai mục đích trên trong khi quyết định hình phạt Thứ ba, về trường hợp quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS đối với tội cướp tài sản. Điều 47 BLHS năm 1999 có quy định "Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; ". Đây là một quy định gây khá nhiều khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi áp dụng hình phạt đối với người phạm tội cướp tài sản. Khi đầy đủ điều kiện theo quy định của pháp luật thì Tòa án chỉ có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải nằm trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật, điều này sẽ bất hợp lý đối với những người phạm tội gây hậu quả nhỏ, a dua, a tòng, giá trị tài sản chiếm đoạt thấp, nhân thân người phạm tội tốt… 2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại trên Việc áp dụng quy định của BLHS năm 1999 về các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản còn một số tồn tại vì những nguyên nhân sau đây: Một là, Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản nói riêng và quy định của pháp luật hình sự nói chung còn nhiều bất cập, nhiều chế định chưa được hướng dẫn một cách kịp thời nhằm đảm bảo công tác áp dụng trong thực tiễn. Hai là, do có sự áp dụng pháp luật không chính xác của các cơ quan tiến hành tố tụng Chương 3 MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ÁP DỤNG CÁC DẤU HIỆU ĐỊNH KHUNG CỦA TỘI CƯỚP TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản Để góp phần hoàn thiện quy định của BLHS về dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản chúng tôi xin có một số kiến nghị sau: 10
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.