Tóm tắt Luận án tiến sĩ Luật học: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam

pdf
Số trang Tóm tắt Luận án tiến sĩ Luật học: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam 27 Cỡ tệp Tóm tắt Luận án tiến sĩ Luật học: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam 695 KB Lượt tải Tóm tắt Luận án tiến sĩ Luật học: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam 0 Lượt đọc Tóm tắt Luận án tiến sĩ Luật học: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam 22
Đánh giá Tóm tắt Luận án tiến sĩ Luật học: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
4.8 ( 20 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 27 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI LÊ THỊ THÚY NGA CHỦ THỂ BUỘC TỘI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 9. 38.01.04 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2019 Công trình được hoàn thành tại: TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí Phản biện 2: TS. Bùi Kiên Điện Phản biện 3: TS. Đặng Quang Phương Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp trường, họp tại Trường Đại học Luật Hà Nội, vào hồi…..….ngày …….tháng …….. năm 201 ….. Có thể tìm hiểu luận án tại: 1. Thư viện Quốc Gia; 2. Thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện công cuộc cải cách tư pháp, TTHS nước ta đã có nhiều sự chuyển biến tích cực. Theo đó, các quy định pháp luật về TTHS được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Cụ thể, BLTTHS 2003 được ban hành và đã đi vào cuộc sống, gần đây BLTTHS năm 2015 được ban hành với những đổi mới cả về định hướng, nội dung và kỹ thuật lập pháp. Chất lượng hoạt động giải quyết vụ án hình sự cũng từng bước được nâng lên, việc tranh tụng tại phiên tòa bước đầu đạt được một số kết quả tích cực. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, TTHS Việt Nam vẫn đang bộc lộ những điểm hạn chế, bất cập cần có sự đổi mới đồng bộ, toàn diện từ việc xác định và hoàn thiện mô hình tố tụng trong đó vấn đề quan trọng là xác định và phân biệt rõ các chức năng của TTHS. Sự phân biệt rõ hơn, độc lập hơn các chức năng tố tụng từ đó xác định chủ thể thực hiện từng chức năng cũng như quy định phù hợp về địa vị pháp lý của các chủ thể đó là một trong những nội dung quan trọng. Tuy nhiên, vấn đề về chủ thể TTHS nói chung và CTBT nói riêng trong TTHS Việt Nam còn nhiều bất cập cả về nhận thức và quy định, áp dụng pháp luật. Về mặt nhận thức, nhận thức về cơ sở lý luận để phân định các chủ thể TTHS theo chức năng tố tụng chưa được làm rõ, vẫn còn nhiều e ngại về việc phân định các chủ thể theo các bên buộc tội, bào chữa và xét xử thay cho việc phân định theo vị thế tố tụng, bên THTT và bên tham gia tố tụng như hiện nay. Từ góc độ lập pháp, do chưa có sự phân định rạch ròi các chức năng cơ bản của TTHS nên các chủ thể của TTHS nói chung và CTBT nói riêng chưa được xác định gắn với chức năng tố tụng. Do không xuất phát từ chức năng của các nhóm chủ thể nên việc quy định địa vị pháp lý của các chủ thể còn nhiều bất cập, chưa đảm bảo sự tương đồng về quyền, nghĩa vụ giữa các chủ thể cùng thực hiện CNBT và sự bình đẳng giữa giữa CTBT với chủ thể thực hiện chức năng bào chữa. Hiện nay, nguyên tắc "tranh tụng trong xét xử được đảm bảo" đã được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp 2013 và BLTTHS năm 2015. Mặc dù vậy, các chủ thể của TTHS theo quy định của BLTTHS năm 2015 vẫn được phân định theo nhóm chủ thể THTT và chủ thể tham gia tố tụng mà chưa thể hiện rõ các bên tham gia tranh tụng theo các chức năng buộc tội, gỡ tội và xét xử; chưa thể hiện sự bình đẳng giữa bên buộc tội - bên bào chữa và vai trò độc lập xét xử của Tòa án trong khi đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định để nguyên tắc tranh tụng thật sự có hiệu quả. 2 Trong bối cảnh nêu trên, việc nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về CTBT từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các CTBT là nhu cầu cấp thiết. Đáp ứng nhu cầu này, NCS lựa chọn đề tài "Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu cho luận án của mình. 2. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 2.1. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận về CTBT, thực trạng CTBT trong TTHS Việt Nam đưa ra những kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về CTBT. Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án có các nhiệm vụ nghiên cứu như sau: - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận liên quan tới CTBT bao gồm: khái niệm, đặc điểm của CTBT, cơ sở lý luận để xác định CTBT trong TTHS, nhận diện các CTBT trong TTHS Việt Nam và vai trò của mỗi CTBT trong việc thực hiện CNBT; - Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về CTBT qua các thời kỳ; - Đánh giá thực tiễn thực hiện hoạt động buộc tội của các CTBT trong TTHS Việt Nam. - Xác định yêu cầu và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các CTBT trong TTHS Việt Nam. 2.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ luận án này, NCS tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến CTBT trong TTHS Việt Nam dưới góc độ luật TTHS với tư cách là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Thực tiễn hoạt động của các CTBT được đánh giá chủ yếu trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm - nơi vai trò của CTBT được thể hiện rõ nét. Các số liệu thống kê về thực trạng hoạt động của CQĐT, VKS được lấy trên phạm vi toàn quốc trong khoảng thời gian 10 năm (2008 - 2017); riêng số liệu đánh giá về việc thực hiện quyền buộc tội của bị hại, do hạn chế trong tiêu chí thống kê của các cơ quan THTT và khó khăn trong việc tiếp cận nguồn thông tin nên NCS đánh giá trên cơ sở tham khảo số liệu của một số luận án có liên quan đã thực hiện và kết quả khảo sát đối với 467 bản án được lựa chọn ngẫu nhiên trên trang công bố bản án của Tòa án nhân dân tối cao tại địa chỉ http://congbobanan.toaan.gov.vn. 3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật trong việc nghiên cứu. NCS sử dụng các phương pháp khoa học pháp lý truyền thống như phương pháp nghiên 3 cứu lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp nghiên cứu điển hình. 4. Những điểm mới của luận án Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ tiến sĩ về đề tài Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận án bao gồm: - Luận án làm rõ những vấn đề lý luận về chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự nói chung và tố tụng hình sự Việt Nam nói riêng, đặc biệt là khái niệm, đặc điểm của chủ thể buộc tội; cơ sở lý luận của việc phân định các chủ thể tố tụng hình sự theo chức năng tố tụng; cơ sở xuất hiện chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự; phạm vi chủ thể và vai trò của mỗi chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam trong việc thực hiện chức năng buộc tội; - Luận án phân tích, đánh giá một cách tương đối đầy đủ, toàn diện về thực trạng quy định pháp luật tố tụng hình sự về chủ thể buộc tội và thực tiễn hoạt động của các chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam. So với các công trình nghiên cứu đã được công bố, luận án đã cập nhật, đánh giá những quy định của BLTTHS 2015 về chủ thể buộc tội và thực tiễn hoạt động của các chủ thể buộc tội đến năm 2018. - Luận án đã xác định quan điểm và đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam đặc biệt là giải pháp hoàn thiện pháp luật về chủ thể buộc tội. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của Luận án đóng góp cho sự phát triển lý luận chung về chủ thể TTHS đặc biệt là làm sâu sắc hơn các nghiên cứu lý luận đã có về nhóm chủ thể thực hiện CNBT như khái niệm, đặc điểm, cơ sở xuất hiện CTBT, phạm vi CTBT và giới hạn buộc tội của mỗi CTBT trong TTHS Việt Nam. Luận án sẽ là nguồn tư liệu có ý nghĩa để các cá nhân, cơ quan hữu quan tham khảo, nghiên cứu trong quá trình sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTHS liên quan đến CTBT, là nguồn tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy, nghiên cứu về chủ thể TTHS 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, Luận án gồm 04 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án Chương 2: Lý luận về chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự. Chương 3: Thực trạng chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam. 4 Chương 4: Quan điểm và giải pháp góp phần nâng cao nâng cao hiệu quả hoạt động của chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Khái quát chung về tình hình nghiên cứu ở trong và ngoài nước 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước 1.1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về mô hình tố tụng, chức năng tố tụng và một số nguyên tắc cơ bản của TTHS Vấn đề chủ thể TTHS nói chung và CTBT nói riêng liên quan mật thiết đến những vấn đề chung của TTHS như mô hình tố tụng, chức năng tố tụng và một số nguyên tắc cơ bản của TTHS. Tại Việt Nam thời gian vừa qua đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về các vấn đề nêu trên và đã đạt được những thành tựu đáng trân trọng, là nền tảng, cho việc tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu về CTBT trong TTHS. Về mô hình TTHS: Vấn đề mô hình TTHS nói chung và mô hình TTHS Việt Nam nói riêng đã được bàn thảo trong nhiều Hội thảo khoa học lớn và được nhiều tác giả nghiên cứu, đăng tải bài viết trên các tạp chí chuyên ngành. Vấn đề này được nghiên cứu chuyên sâu trong Đề án "Mô hình TTHS Việt Nam" của VKSNDTC năm 2012 và luận án tiến sĩ luật học "Mô hình TTHS Việt Nam và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng" (2014) của tác giả Nguyễn Thị Thủy. Các nghiên cứu này đã đề xuất một trong những phương hướng và nội dung hoàn thiện mô hình TTHS Việt Nam là việc phân định hợp lý quyền, nghĩa vụ của các chủ thể cho phù hợp với các chức năng cơ bản của TTHS. Về chức năng trong TTHS Nhiều bài báo khoa học đề cập tới các chức năng của TTHS đã được công bố và tuy còn nhiều quan điểm khác nhau nhưng cơ bản các tác giả đều thống nhất về ba chức năng cơ bản của TTHS là CNBT, chức năng bào chữa (gỡ tội) và chức năng xét xử. Nghiên cứu chuyên khảo ở cấp độ luận án tiến sĩ về chức năng tố tụng có thể kể tới luận án "Chức năng xét xử trong TTHS Việt Nam" (2008) của tác giả Lê Tiến Châu và luận án "Các chức năng trong TTHS Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn" (2012) của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng. Các luận án đã nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận của việc xác định chức năng trong TTHS; ý nghĩa, nội hàm, phạm vi và giới hạn của từng chức năng trong TTHS; xác định rõ mối liên hệ giữa chức năng của TTHS với mô hình TTHS; xác định chủ thể thực hiện các chức năng tương ứng trong TTHS; dề 5 xuất các giải pháp đổi mới và hoàn thiện pháp luật TTHS, tổ chức và hoạt động của các chủ thể tham gia tố tụng. Về các nguyên tắc cơ bản trong TTHS Việc nghiên cứu nguyên tắc tranh tụng trong TTHS, nguyên tắc xác định sự thật vụ án và nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự cũng rất có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu chuyên sâu về CTBT. Luận án "Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn" (2011) của tác giả Nguyễn Văn Hiển đã nghiên cứu lý luận và thực tiễn nguyên tắc tranh tụng trong xây dựng, áp dụng pháp luật TTHS ở nước ta trên cơ sở đó đề xuất định hướng, giải pháp xây dựng và thể chế hóa nguyên tắc tranh tụng trong pháp luật TTHS Việt Nam trong đó có giải pháp về xác định vị trí, quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tố tụng theo hướng tách bạch giữa các chức năng cơ bản của TTHS. Trong luận án tiến sĩ luật học "Nguyên tắc khởi tố và xử lý vụ án hình sự trong luật TTHS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn" (2010), tác giả Lê Lan Chi đã đề cập tới vấn đề buộc tội và CTBT khi nghiên cứu về cơ sở của trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự. Những nghiên cứu về các hình thức của TTHS, từ tư tố, tư công tố đến công tố tương ứng với đó là trách nhiệm và chủ thể khởi tố, xử lý vụ án rất có ý nghĩa đối với việc tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu về CTBT. 1.1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến chủ thể tố tụng hình sự và chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề chủ thể của TTHS có thể kể đến luận án tiến sĩ luật học "Các chủ thể THTT trong Luật TTHS Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp" (2014) của tác giả Nguyễn Duy Giảng. Luận án là công trình nghiên cứu có giá trị, tác giả đã nghiên cứu toàn diện cả về lý luận và thực tiễn liên quan đến chủ thể THTT theo Luật TTHS. Nội dung nghiên cứu về mô hình tố tụng, chức năng tố tụng và mối liên hệ giữa mô hình tố tụng, chức năng tố tụng với việc phân định các chủ thể TTHS có thể kế thừa khi nghiên cứu chuyên sâu về CTBT trong TTHS Việt Nam. Ở cấp độ luận văn thạc sĩ, liên quan trực tiếp tới đề tài luận án, có luận văn "Chủ thể buộc tội trong TTHS Việt Nam" (2016) của tác giả Đặng Văn Phượng. Luận văn đã nghiên cứu tương đối toàn diện những vấn đề liên quan tới CTBT trong TTHS Việt Nam. Tuy nhiên, ở cấp độ một luận văn thạc sĩ, luận văn chưa giải quyết một cách sâu sắc các vấn đề lý luận liên quan tới CTBT; những đề xuất hoàn thiện mô hình tố tụng, các nguyên tắc của TTHS, mối quan hệ giữa CTBT với chủ thể thực hiện các chức năng cơ bản khác của TTHS chưa được tập trung nghiên cứu. Nghiên cứu về các CTBT cụ thể như VKS, CQĐT và mối quan hệ giữa các chủ thể này, có thể kể tới một số luận án tiến sĩ luật học như luận án 6 "Quyền công tố ở Việt Nam" (2002) của Lê Thị Tuyết Hoa; luận án "Quá trình hình thành, phát triển và đổi mới Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam" (2010) của tác giả Trần Văn Nam; luận án "Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong TTHS Việt Nam" (2012) của tác giả Nguyễn Tiến Sơn; luận án “Mối quan hệ tố tụng giữa cơ quan cảnh sát điều tra và viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự” (2018) của tác giả Đào Anh Tới; luận án “Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra và Điều tra viên trong TTHS” (2018) của tác giả Bùi Thế Tỉnh. Về người bị hại, có một số công trình, bài viết nghiên cứu về người bị hại song các bài viết đề cập tới CNBT của người bị hại không nhiều. Ở cấp độ nghiên cứu chuyên sâu về người bị hại, có thể kể tới luận án tiến sĩ luật học "Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong TTHS Việt Nam" (2013) của tác giả Lê Nguyên Thanh; luận án tiến sĩ luật học "Quyền của người bị hại trong TTHS Việt Nam" (2014) của tác giả Đinh Thị Mai. Các luận án đã đề cập tới vai trò buộc tội của người bị hại, nguyên đơn dân sự, lý giải cơ sở của quyền buộc tội của các chủ thể này và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật theo hướng sửa đổi, bổ sung một số quyền của người bị hại có nội dung buộc tội. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Trên thế giới, vấn đề CTBT đã được quan tâm nghiên cứu từ các góc độ tiếp cận khác nhau và đã đạt được những kết quả quan trọng. Trước hết, có thể kể đến những công trình nghiên cứu của một số tác giả Xô viết như "TTHS Xô viết" của M.A Chen xốp (1978); "Truy tố trong TTHS" của M.X. Strogovich (1979). Trong đó, các tác giả đề cập những vấn đề cơ bản của TTHS và có những nội dung liên quan đến việc buộc tội, CTBT. Về mô hình tố tụng, cuốn "Comparative Criminal Justice Systems: A Topical Approach" (6th edition) (2013) của tác giả Philip L.Reichel đã cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa việc xác định CTBT với việc lựa chọn mô hình TTHS. Về mô hình TTHS trên thế giới, với sự trợ giúp của Chương trình Đối tác Tư pháp (Justice Partnership Programme - JPP) do Liên minh châu Âu, Đan Mạch và Thụy Điển đồng tài trợ, các nhà khoa học và thực tiễn có kinh nghiệm và uy tín quốc tế đã thực hiện các báo cáo nghiên cứu về mô hình TTHS của bảy quốc gia: Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Italia, Nga, Nhật Bản, Pháp, Trung Quốc. Trong các báo cáo có nhiều nội dung đề cập tới chủ thể của TTHS nói chung, CTBT nói riêng đặc biệt là vai trò, nhiệm vụ của CQĐT, cơ quan công tố, địa vị pháp lý của người bị hại. Về vai trò của Viện công tố và Công tố viên, có thể kể tới các công trình như bài viết "The Public Prosecutor, Its Role, Duties and Powers in the Pre-trial Stage of the Criminal Justice Process - A Comparative Study of the 7 French and the Swedish Legal Systems" của Akila Taleb và Thomas Ahlstrand đăng trên Tạp chí quốc tế về Luật hình sự 2011/3 (Vol. 82); Luận án tiến sĩ của Tony Paul Marguery (2008) "Unity and diversity of the public prosecution services in Europe. A study of the Czech, Dutch, French and Polish systems" (PhD thesis, The University of Groningen); bài viết của Gert Johan Kjelby (2015), Some Aspects of and Perspectives on the Public Prosecutor’s Objectivity according to ECtHR Case- Law, Bergen Journal of Criminal Law and Criminal Justice, Volume 3, Issue 1. Về người bị hại, một số công trình đã đề cập tới quyền của người bị hại, vai trò của người bị hại trong TTHS trong đó có các quyền và vai trò của chủ thể này đối với việc buộc tội như "Victims of Crime in 22 European Criminal Justice Systems" (2000 - 2005); "Seeking Justice through the Criminal Justice System" (2010). Nhìn chung, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan tới đề tài luận án khá đa dạng, là nguồn tư liệu quý để tác giả luận án nghiên cứu, so sánh trong quá trình làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn về CTBT và đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật về CTBT trong TTHS Việt Nam. 1.2. Đánh giá kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu 1.2.1 Đánh giá kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 1.2.1.1 Những vấn đề lý luận về chủ thể buộc tội Trong các công trình đã công bố, nhiều vấn đề lý luận liên quan tới CTBT như chức năng tố tụng, mô hình tố tụng, các nguyên tắc cơ bản trong TTHS đã được nghiên cứu một cách sâu sắc, là nền tảng vững chắc cho việc tiếp tục nghiên cứu về CTBT trong luận án. Tuy nhiên, phần lớn các công trình không nghiên cứu trực diện về CTBT mà thông qua các nghiên cứu về mô hình tố tụng, tranh tụng trong TTHS, chủ thể THTT…Các nghiên cứu mới đặt vấn đề bước đầu mà chưa làm rõ cơ sở lý luận của việc phân chia các chủ thể TTHS theo các chức năng cơ bản của TTHS. Vấn đề phạm vi CTBT trong TTHS Việt Nam còn nhiều quan điểm khác nhau. Vai trò của mỗi CTBT trong việc thực hiện CNBT chưa được đề cập trong các công trình đã công bố. 1.2.1.2. Thực trạng chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam Phần lớn các nghiên cứu đều thống nhất đánh giá quy định về chủ thể TTHS trong BLTTHS có một số hạn chế như địa vị pháp lý của các chủ thể này còn nhiều bất cập, có sự chồng lấn giữa các chức năng và không đảm bảo bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Về thực tiễn hoạt động của các CTBT, thông qua các số liệu thống kê, các tác giả đã đánh giá bên cạnh những ưu điểm thì hoạt động của 8 CQĐT, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS còn nhiều hạn chế, bất cập; vai trò buộc tội của người bị hại còn khá mờ nhạt. 1.2.1.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của chủ thể buộc tội trong TTHS Việt Nam Các giải pháp được đề cập trong những công trình nghiên cứu đã công bố có những điểm phù hợp với giải pháp mà NCS dự định đề xuất. Tuy nhiên, do phần lớn các nghiên cứu đều được thực hiện trước khi ban hành BLTTHS năm 2015 nên một số điểm không còn phù hợp; một số giải pháp mà các công trình đã công bố chưa phân tích sâu sắc từ góc độ CTBT mà phân tích từ góc độ là chủ thể THTT theo quy định của luật thực định nên cần được phân tích, luận giải sâu sắc hơn. 1.2.3. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu 1.2.3.1 Lý luận về chủ thể buộc tội Kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có, NCS dự định xây dựng khái niệm CTBT, đặc điểm của CTBT, cơ sở xuất hiện CTBT trong TTHS, xác định phạm vi CTBT và vai trò của mỗi CTBT trong TTHS Việt Nam. 1.2.3.2. Thực trạng chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam Kế thừa một cách có chọn lọc những kết quả nghiên cứu đã công bố, luận án làm rõ hơn các nội dung sau: - Quy định về CTBT trong pháp luật TTHS Việt Nam qua các thời kỳ; đánh giá xu hướng phát triển, những hạn chế bất cập trong quy định pháp luật về CTBT; - Thực tiễn hoạt động của các CTBT trong TTHS Việt Nam giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2018 theo hướng chỉ rõ những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của những kết quả, hạn chế đó. 1.2.3.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể buộc tội trong TTHS Việt Nam Luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu và đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể buộc tội trong TTHS Việt Nam với các nhóm giải pháp: Hoàn thiện pháp luật về CTBT; Kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thuộc VKS, CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; nâng cao hiểu biết pháp luật cho bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại; Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội đối với việc thực hiện chức năng buộc tội; Đầu tư nguồn lực vật chất cho hoạt động của CQĐT, VKS, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra 1.3. Cơ sở lý thuyết, giả thuyết nghiên cứu và các câu hỏi nghiên cứu 1.3.1. Cơ sở lý thuyết của luận án Cơ sở lý thuyết trực tiếp của luận án là lý thuyết về chức năng tố tụng mà bản chất là thừa nhận sự tồn tại khách quan của các xu hướng lợi ích khác
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.