Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam

pdf
Số trang Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam 27 Cỡ tệp Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam 946 KB Lượt tải Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam 2 Lượt đọc Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam 12
Đánh giá Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam
4.6 ( 18 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 27 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

0 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ----------------------- NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC ÁP DỤNG IFRS TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của nghiên cứu Thống kê của IFRS Foundation trên website IFRS.org cho thấy tính đến tháng 4/2020 đã có 166 nước đã hoặc đang trên lộ trình áp dụng IFRS với tổng GDP chiếm đến 98.8% tổng GDP toàn cầu, trong đó châu lục có nhiều nước áp dụng IFRS nhất chính là Châu Âu với 44 nước (trong tổng số 44 quốc gia độc lập), tiếp theo lần lượt là Châu Phi (38 nước) và Châu Mỹ (37 nước), Châu Á và Châu Đại dương (34 nước) và Trung Đông (13 nước). Có thể thấy rằng trước xu thế chung là toàn cầu hóa, việc tìm ra một ngôn ngữ thống nhất trong kế toán, cụ thể là thông qua việc lập BCTC và trình bày thông tin là hết sức cấp thiết. Điều này đã được minh chứng qua những nghiên cứu trong hai thập kỷ vừa qua về áp dụng IFRS tại từng quốc gia riêng biệt hoặc nghiên cứu theo nhóm quốc gia trên thế giới, chẳng hạn như: • Áp dụng IFRS làm giảm quản trị lợi nhuận: Barth và cộng sự (2008) Christensen và cộng sự (2015); • Áp dụng IFRS làm tăng giá trị thích hợp của thông tin: Bartov và cộng sự (2005), Horton và Serafeim (2010), Barth và cộng sự (2012); • Áp dụng IFRS giúp cho việc ghi nhận lỗ đúng kỳ hơn: Barth và cộng sự (2008), Chen và cộng sự (2010), Sun và cộng sự (2011), Christensen và cộng sự (2015); • Áp dụng làm tăng tính so sánh của thông tin: Joshi và cộng sự (2008); Li (2010) • Áp dụng làm tăng giá tính thanh khoản của cổ phiếu: Daske và cộng sự (2008), Barth và cộng sự (2014); Barth và cộng sự (2018). Việc áp dụng IFRS tại Việt Nam đã được đề cập từ vài năm trước, tuy nhiên theo IFRS Foundation (trên website ifrs.org) thì tính đến tháng 4/2020, Việt Nam vẫn chưa chính thức cam kết áp dụng. Mặc dù vậy, việc Bộ tài chính đã ban hành dự thảo Đề án áp dụng chuẩn mực BCTC quốc tế (2019) và bản chính thức của Đề án theo Quyết định 345/QĐ-BTC vào ngày 16 tháng 3 năm 2020 vừa qua đã chứng tỏ rằng áp dụng 2 IFRS là điều chắc chắn. Tuy nhiên, do đặc thù của IFRS là dựa vào nguyên tắc, tức là áp dụng IFRS phụ thuộc rất nhiều và trình độ và kỹ năng của người làm công tác kế toán, kiểm toán, điều này có thể phát sinh những thách thức trong quá trình áp dụng IFRS. Qua khảo lược các nghiên cứu đi trước, tác giả luận án nhận thấy tại các công bố tại Việt Nam và các nghiên cứu trên phạm vi thế giới tiếp cận theo dữ liệu BCTC hoặc các nguồn dữ liệu thứ cấp khá nhiều, trong khi đó việc áp dụng IFRS tiếp cận dưới góc độ hành vi chiếm tỷ lệ ít hơn và vẫn còn những khoảng trống có thể nghiên cứu. Cụ thể, các nghiên cứu đi trước về hành vi áp dụng IFRS, hoặc là chưa kết hợp được lý thuyết nền một cách đầy đủ để có thể giải quyết triệt để vấn đề nghiên cứu, hoặc là đa số nghiên cứu đều chọn phương pháp cũng như công cụ xử lý dữ liệu vẫn khá đơn giản chỉ với SPSS thay vì các phần mềm xử lý mô hình phức tạp. Nghiên cứu hành vi có thể khám phá và đánh giá được các nhân tố tác động đến ý định áp dụng IFRS, đặc biệt là đối với trường hợp như Việt Nam là chưa chính thức áp dụng IFRS. Do đó, dựa trên sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu này, tác giả quyết định chọn đề tài “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam” với mong muốn có thể làm rõ vấn đề đang rất được chú trọng trong lĩnh vực kế toán tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, chính là việc áp dụng chuẩn mực IFRS tại các doanh nghiệp. 2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu Nghiên cứu trong luận án này được thực hiện căn cứ theo mục tiêu tổng quát là nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng chuẩn mực IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam. Các mục tiêu cụ thể gồm có:  Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS  Đo lường mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này đến việc áp dụng IFRS  Xác định các thành phần tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS 3  Đo lường mức độ tác động của các thành phần này đối với các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS Từ các mục tiêu cụ thể trên, nghiên cứu sẽ đi tìm hướng giải quyết cho các câu hỏi tương ứng lần lượt như sau:  Các nhân tố nào có ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS?  Mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam cụ thể ra sao?  Các thành phần tác động đến các nhân tố ảnh hưởng này bao gồm những gì?  Mức độ tác động của các thành phần này cụ thể ra sao đối với các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam? 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Từ vấn đề nghiên cứu là việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam, luận án xác định đối tượng của nghiên cứu chính là các nhân tố tác động đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam, cụ thể hơn nữa chính là các nhân tố hành vi gắn liền với lý thuyết TPB và gắn với mô hình TPB mở rộng cùng với sự kết hợp của lý thuyết đẳng cấu thể chế. Luận án không đi sâu vào nghiên cứu từng chuẩn mực IFRS. Để phù hợp với mục tiêu đã đề ra, luận án lựa chọn đơn vị phân tích là doanh nghiệp với đối tượng trả lời khảo sát chính bao gồm phụ trách phòng kế toán (kế toán trưởng, trưởng/phó phòng kế toán) và phụ trách doanh nghiệp ở mảng tài chính/kế toán (CEO, CFO, kiểm soát tài chính 4. Phương pháp nghiên cứu Để phù hợp mới mục tiêu nghiên cứu là xác định nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố, luận án được thực hiện bằng phương pháp hỗn hợp và được thực hiện theo hai giai đoạn: giai đoạn sơ bộ và giai đoạn chính thức. Đặc biệt, trong phần nghiên cứu định lượng sẽ tập trung phân tích dữ liệu với kỹ thuật PLS-SEM (Partial Least Square Strutural Equation Modeling - Mô hình cấu trúc tuyến tính bình 4 phương tối thiểu từng phần) để xác định các nhân tố tác động đến việc áp dụng IFRS tại Việt Nam. 5. Đóng góp mới của luận án Về mặt lý luận, luận án đã kiểm định được tính thích hợp của hai lý thuyết nền trong việc áp dụng IFRS bao gồm gồm lý thuyết hành vi dự định TPB của Ajzen (1991) và lý thuyết đẳng cấu thể chế của DiMaggio và Powell (1983) trong bối cảnh của một nền kinh tế mới nổi – Việt Nam. Ngoài ra, đóng góp của nghiên cứu về mặt lý thuyết là đã phát hiện ra các nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến ý định áp dụng IFRS tại Việt Nam bao gồm: Thái độ, Nhận thức về áp lực xã hội, Nhận thức về sự kiểm soát. Bên cạnh đó cũng đã xây dựng được mô hình chi tiết là mô hình TPB mở rộng để xác định các thành phần tác động đến các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS, bao gồm và Nhận thức về tính hữu ích tác động đến Thái độ; Áp lực cưỡng chế, Áp lực mô phỏng, Áp lực chuyên môn tác động đến Nhận thức về áp lực xã hội; Nguồn lực và Điều kiện cần có tác động đến Nhận thức về sự kiểm soát. Ngoài ra, luận án cũng đưa vào các bằng chứng thực nghiệm nhằm minh chứng cho việc kế thừa và vận dụng những thang đo đã được kiểm định trong những nghiên cứu đi trước nhưng vẫn phù hợp với các khái niệm nghiên cứu trong điều kiện tại Việt Nam. Về mặt thực tiễn, nghiên cứu đã nhận diện được các nhân tố hành vi có tác động đến việc áp dụng IFRS cũng như mức độ tác động của các nhân tố này, qua đó đưa ra các hàm ý nhằm thúc đẩy quá trình áp dụng IFRS đối với các nhà hoạch định chính sách để có thể hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận IFRS một cách hiệu quả nhất. Cụ thể, tác động của Thái độ đối với việc áp dụng IFRS cho thấy việc khiến cho doanh nghiệp có cảm nhận tích cực về IFRS, nhất là trong giai đoạn tự nguyện, là điều rất quan trọng để thúc đẩy khả năng áp dụng IFRS của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cũng có thể góp phần giúp cho các doanh nghiệp có góc nhìn tổng quan hơn về việc áp dụng IFRS, qua đó có sự chuẩn bị đầy đủ nhất về nguồn lực hay các điều kiện khách quan cần có cho việc áp dụng sắp tới. 5 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 1.1 Những nghiên cứu ở nước ngoài: 1.1.1 Nhóm nghiên cứu nhân tố về môi trường kinh doanh Các nghiên cứu về nhân tố môi trường kinh doanh tác động đến việc áp dụng IFRS được trình bày thành hai nhóm: nhóm thực hiện ở phạm vi quốc tế và nhóm ở phạm vi quốc gia. Trong đó, nghiên cứu ở phạm vi quốc tế tức là phân tích số liệu của nhiều quốc gia hoặc của nhiểu doanh nghiệp của các quốc gia, còn nghiên cứu ở phạm vi quốc gia tức là nghiên cứu nhiều doanh nghiệp trong cùng một nước. 1.1.1.1 Các nhân tố ảnh hưởng ở phạm vi quốc tế Việc sử dụng một hệ thống chuẩn mực đồng nhất trên thế giới trong lĩnh vực kế toán như IFRS là việc làm rất cần thiết nhưng cũng có những thách thức không nhỏ, đặc biệt là trong bối cảnh của các quốc gia đang trong tiến trình hội nhập. Những nguyên nhân chính mang tính vĩ mô mà các quốc gia hay gặp phải như về hệ thống pháp luật, thuế, hệ thống tài chính hay yếu tố văn hóa, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Một số nghiên cứu tiêu biểu gồm có nghiên cứu của Hope và cộng sự (2006) tại 38 nước áp dụng tự nguyện trước năm 2005, của Zeghal và Mhadhbi (2006), Shima và Yang (2012), Fox và cộng sự (2013) nghiên cứu của Schultz và Lopez (2001) Zehri và Chouaibi (2013), hay nghiên cứu của Alon (2010) đã vận dụng lý thuyết thể chế của Meyer và Rowan (1977) và lý thuyết đẳng cấu thể chế của DiMaggio và Powell (1983) về việc áp dụng IFRS. 1.1.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng ở phạm vi quốc gia Các nghiên cứu tiêu biểu gồm có nghiên cứu của Gassen và Sellhorn (2006) ở Đức trong khoảng thời gian 1998-2004, André và cộng sự (2012) khi nghiên cứu tình hình áp dụng IFRS tự nguyện tại các công ty không niêm yết ở Vương quốc Anh vào năm 2009, ghiên cứu của Bessieux-Ollier và Walliser (2012) về việc tự nguyện áp dụng của 85 công ty tại Pháp đang niêm yết trên thị trường Alternext, nghiên cứu của 6 Şenyiğit (2014) tại Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn tự nguyện áp dụng 2003-2004, hay nghiên cứu của Bova và Pereira (2012) về trường hợp áp dụng IFRS tại Kenya. Các nhân tố chính ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS trong nhóm nghiên cứu này bao gồm: Quy mô doanh nghiệp: Gassen và Sellhorn (2006), Şenyiğit (2014), BessieuxOllier và Walliser (2012); Danh tiếng của kiểm toán viên: Şenyiğit (2014) BessieuxOllier và Walliser (2012); Văn hóa Shimaa và Yang (2012), Zeghal và Mhadhbi (2006), Fox và cộng sự (2013), Schultz và Lopez (2001); Sự phức tạp của IFRS và trình độ kế toán viên Jermakowicz và Gornick-Tomaszewski (2006), Alp và Ustundag (2009), Alsaqqa và Sawan (2013). 1.1.2 Nhóm nghiên cứu nhân tố hành vi Thay vì sử dụng dữ liệu sẵn có, nhiều nghiên cứu về IFRS được thực hiện bằng dữ liệu sơ cấp, tức là dựa trên việc khảo sát thái độ của người làm kế toán, kiểm toán hay nhà hoạch định chính sách. 1.1.2.1 Những nghiên cứu vận dụng lý thuyết Đẳng cấu thể chế Các nghiên cứu trong nhóm này bao gồm nghiên cứu của Mir và Rahaman (2004) sử dụng lý thuyết Đẳng cấu thể chế DiMaggio và Powell (1983) để khám phá quy trình áp dụng IAS tại Bangladesh; nghiên cứu về sự sẵn sàng của Malaysia về áp dụng IFRS toàn phần từ ngày 1/1/2012 của Phang và Mahzan (2013), nghiên cứu về Bangladesh của Nurunnabi (2015), hay nghiên cứu Pricope (2016) từ dữ liệu của 97 nước đang phát triển (gồm có 70 nước đã áp dụng và 27 nước chưa áp dụng tại thời điểm 2013). Ở một khía cạnh khác, nghiên cứu của Aburous (2018) về việc triển khai IFRS ở Jordan tạo ra sự mất cân bằng về năng lực (power imbalance) giữa người làm kế toán tại doanh nghiệp và kiểm toán viên, và làm thay đổi thông lệ kế toán quen thuộc. 7 1.1.2.2 Những nghiên cứu vận dụng lý thuyết hành vi dự định TPB hoặc nghiên cứu chung về nhận thức Nghiên cứu của Djatej và cộng sự (2012) tại Mỹ (bao gồm nhân tố Thái độ, Nhận thức về áp lực xã hội và Nhận thức về sự kiểm soát). Một nghiên cứu kế thừa từ Djatej và cộng sự (2012) cũng như Shima và Young (2012) là nghiên cứu của Simegn (2015) tại Ethiopia. Một trong những nghiên cứu rất quy mô về hành vi là nghiên cứu của Jermakowicz và Gornick-Tomaszewski (2006) nhằm xem xét quá trình triển khai IFRS của các doanh nghiệp EU trước thềm áp dụng IFRS bắt buộc, Nghiên cứu của Joshi và cộng sự (2008) về nhận thức của người làm kế toán và kiểm toán về việc áp dụng IFRS tại Bahrain.. nghiên cứu Bozkurt và cộng sự (2013) về nhận thức của người làm kế toán và người làm kiểm toán về việc áp dụng IFRS tại Thổ Nhĩ Kỳ; nghiên cứu của Rezaee và cộng sự (2010) tại Mỹ nhằm đánh giá quan điểm của các nhóm khác nhau về việc hội tụ chuẩn mực kế toán Mỹ với IFRS. Trong một số các nghiên cứu được thực hiện sau này, bao gồm nghiên cứu của Moqbel và cộng sự (2013), của Kurt và Ucma (2013), đều sử dụng lại phương pháp và bảng câu hỏi của Rezaee và cộng sự. Một nghiên cứu kế thừa Moqbel và cộng sự (2013) là nghiên cứu của Ahalik (2016) tại Indonesia. Ở một khía cạnh khác, vấn đề mà doanh nghiệp hay phải đối mặt là IFRS quá phức tạp trong khi trình độ của kế toán viên có sự hạn chế, và việc chi phí chuyển đổi quá cao chẳng hạn như nghiên cứu của Alp và Ustundag (2009) tại Thổ Nhĩ Kỳ, Nghiên cứu của Sawan và Alsaqqa (2013) về việc áp dụng IFRS ở UAE, nghiên cứu của Fearnley và Hines (2007) ở Vương Quốc Anh hay Nghiên cứu của Bahadir và cộng sự (2016) ở Thổ Nhĩ Kỳ. 1.2 Những nghiên cứu tại Việt Nam: Hai nhóm nghiên cứu phổ biến tại Việt Nam liên quan đến IFRS là nghiên cứu về sự hòa hợp giữa VAS với IFRS, và nhóm nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS. Do Việt Nam chưa chính thức áp dụng IFRS, cho nên hầu hết các doanh nghiệp đã lập báo cáo theo IFRS đều trên cơ sở tự nguyện. Và do đó, các nghiên cứu 8 về nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại Việt Nam cũng xoay quanh các đối tượng tự nguyện áp dụng IFRS. Mặt khác, do Việt Nam chưa áp dụng IFRS, hầu hết các nghiên cứu liên quan đều mang tính mang tính chất khám phá, dựa vào nguồn dữ liệu sơ cấp để giải quyết vấn đề nghiên cứu. Trong phần tổng quan này, sẽ chỉ đưa vào các nghiên cứu tiêu biểu được thưc hiện tại Việt Nam có mô hình nghiên cứu cụ thể và có tiến hành kiểm định các giải thuyết nghiên cứu. 1.2.1 Nghiên cứu về sự hòa hợp giữa VAS với IFRS Những nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến chủ để này gồm có: Nghiên cứu của Trần Hồng Vân (2014) về sự hòa hợp trong việc lập và trình bày BCTC hợp nhất giữa kế toán Việt Nam và kế toán quốc tế; Nghiên cứu của Trần Quốc Thịnh (2014) về hội tụ giữa VAS với IFRS. Nghiên cứu của Pham Hoai Hương (2016) về hội tụ giữa VAS và IFRS hay nghiên cứu mới của Trần Quốc Thịnh và Nguyễn Thị Cẩm Thúy (2018) cũng về hội tụ giữa VAS và IFRS. 1.2.2 Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS Đối với nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS, do Việt Nam chưa áp dụng IFRS, số lượng các công bố liên quan chưa nhiều và đều là nghiên cứu định lượng, mang tính chất khám phá, dựa vào nguồn dữ liệu sơ cấp để giải quyết vấn đề nghiên cứu. Do số lượng nghiên cứu có chất lượng về IFRS tại Việt Nam không nhiều, phần tổng quan này sẽ bao gồm cả một số nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS cho doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như việc áp dụng VAS để có cái nhìn tổng quát về vấn đề nghiên cứu. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng trong phạm vi doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể kể đến gồm có nghiên cứu của Trần Đình Khôi Nguyên (2011), hoặc nghiên cứu Trần Thị Thanh Hải (2015) khi nghiên cứu về xác lập và áp dụng khung pháp lý kế toán cho doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ và vừa. Một công bố quốc tế của Dang Duc Son (2011) đã xác định có 5 nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng CMKT ở Việt Nam cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nghiên cứu gần đây về các tác nhân bên ngoài 9 ảnh hưởng như thế nào đến việc các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam khi vận dụng IFRS, Nguyễn Thị Ánh Linh (2018). Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng ở phạm vi doanh nghiệp lớn/đại trà gồm có nghiên cứu của Phan và cộng sự (2014) đã sử dụng dữ liệu thu thập từ Việt Nam nhằm nghiên cứu về thuận lợi, những khó khăn, và các thách thức trong quá trình áp dụng IFRS, nghiên cứu của Phan và cộng sự (2016) đã chứng minh được rằng các nhân tố thể chế tại Việt Nam đều có ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS. Nghiên cứu của Đặng Ngọc Hùng (2017) về các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ áp dụng CMKT (VAS) tại Việt Nam. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Cúc và Nguyễn Lê Vân Khanh (2018) về các nhân tố tác động đến việc áp dụng IFRS tự nguyện tại Việt Nam. Nghiên cứu của Lê Trần Hạnh Phương (2018) đã xác định ở phạm vi quốc gia gồm 4 nhân tố vĩ mô và 3 nhân tố vi mô, nghiên cứu của Nguyen Ngoc Hiep (2017) về chuyển đổi BCTC từ VAS sang IFRS, nghiên cứu Hà Xuân Thạch và Nguyễn Ngọc Hiệp (2018) về các nhân tố ảnh hưởng đến việc chuyển đổi BCTC từ VAS sang IFRSm hay nghiên cứu của Thi Cam Thanh Tran và cộng sự (2019)về tác nhân ảnh hưởng đến áp dụng IFRS tại Việt Nam. 1.3 Khe hổng nghiên cứu Từ những phân tích nêu trên của các nghiên cứu ở nước ngoài và trong nước cho thấy, có thể thấy rằng, khe hổng của nghiên cứu về IFRS có thể được tổng kết như sau:  Nghiên cứu về việc áp dụng IFRS theo hướng hành vi trong giai đoạn này vẫn là phù hợp hơn cả với bối cảnh Việt Nam, khi số lượng doanh nghiệp áp dụng IFRS chưa nhiều, việc nghiên cứu các nhân tố môi trường kinh doanh vẫn cần thêm thời gian và số lượng doanh nghiệp áp dụng.  Hầu như chưa có nghiên cứu ở góc độ hành vi, đặc biệt là nghiên cứu trong nước áp dụng lý thuyết nền chính là lý thuyết hành vi dự định hoặc lý thuyết đẳng cấu thể chế một cách triệt để từ lý thuyết đến mô hình nghiên cứu để xác định các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS.
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.