Tiểu luận: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam

pdf
Số trang Tiểu luận: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam 23 Cỡ tệp Tiểu luận: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam 512 KB Lượt tải Tiểu luận: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam 0 Lượt đọc Tiểu luận: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam 5
Đánh giá Tiểu luận: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam
4.8 ( 20 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 23 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM ĐỀ TÀI THUYẾT TRÌNH: VIỆC THAM GIA VỐN NƯỚC NGOÀI TẠI CÁC NGÂN HÀNG VIỆT NAM Giảng viên hướng dẫn: TS. Trương Quang Thông Nhóm sinh viên thực hiện: STT 1 2 3 4 5 6 Họ và tên Phó Trúc Phương Trần Thị Kim Phương Đỗ Quang Sinh Lê Minh Tâm Lưu Bảo Trâm Vương Mỹ Trinh Nhóm Lớp 5 Cao học đêm 3 – TCDN k22 Tp.HCM, 08/2013 MỤC LỤC 1. Sơ lược về hệ thống ngân hàng Việt Nam .....................................................................................3 1.1. Tình hình hoạt động trước khi gia nhập WTO ........................................................................3 1.2. Nguyên nhân thu hút vốn nước ngoài......................................................................................4 1.3. Lợi ích đạt được từ việc thu hút vốn nước ngoài .....................................................................5 2. Những xu hướng điều chỉnh thể chế...........................................................................................6 3. Khái niệm đối tác chiến lược.....................................................................................................10 4. Động cơ của việc tham gia.........................................................................................................13 5. Quá trình tham gia vốn của các đối tác nước ngoài vào các ngân hàng Việt Nam..............17 5.1 Trước khi gia nhập WTO........................................................................................................17 5.2 Sau WTO – 2010.....................................................................................................................17 5.3 Sau 2010 – nay.........................................................................................................................18 6. Nguyên nhân của những vụ thoái vốn......................................................................................18 6.1 Nguyên nhân khách quan:......................................................................................................18 6.2 Nguyên nhân chủ quan ............................................................................................................19 7. Kết luận.......................................................................................................................................21 2 Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới - WTO vào năm 2007 đã mở ra nhiều cơ hội kinh doanh, hợp tác làm ăn mới cho mọi lĩnh vực, mọi doanh nghiệp trong đó không thể không nói tới lĩnh vực ngân hàng. Với sự cho phép chính thức của chính phủ bằng nghị định số 69 ban hành ngày 20/04/2007 quy định cụ thể về tỷ lệ sở hữu tối đa của một nhà đầu tư, của đối tác chiến lược và tổng tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài tại một tổ chức tín dụng Việt Nam, việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ. Để thấy được lợi ích mang lại từ các nhà đầu tư nước ngoài đối với ngân hàng Việt Nam, chúng ta sẽ xem xét tình hình hoạt động của ngân hàng Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO. 1. Sơ lược về hệ thống ngân hàng Việt Nam 1.1. Tình hình hoạt động trước khi gia nhập WTO Kể từ khi thực hiện đổi mới kinh tế vào năm 1986, ngành ngân hàng Việt Nam đã có những bước chuyển mình quan trọng, đánh dấu bằng việc chuyển từ hệ thống ngân hàng đơn cấp sang cơ chế ngân hàng hai cấp với sự phân tách riêng rẽ trong hoạt động của các ngân hàng thương mại với ngân hàng nhà nước. Hoạt động của các ngân hàng trong nước vẫn chiếm ưu thế về thị phần tiền gửi và cho vay. Các ngân hàng quốc doanh chủ yếu phục vụ các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước trong khi các ngân hàng thương mại cổ phần mới thành lập tập trung vào các khách hàng doanh nghiệpnhỏ và vừa, cá nhân. Tuy nhiên, xét về tổng thể, hoạt động của các ngân hàng Việt Nam khi đó được đánh giá là yếu trên các mặt sau:  Về năng lực tài chính: Các ngân hàng trong nước có năng lực tài chính khiêm tốn, quy mô vốn hạn chế. Mặc dù vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại trong nước đã tăng trưởng gấp nhiều lần, s ong mức vốn điều lệ trung bình của cả ngân hàng quốc doanh và ngân hàng thương mại cổ phần vẫn còn khiêm tốn so với quy mô vốn của các ngân hàng nước ngoài. Tỷ lệ an toàn vốn CAR của các ngân hàng trong nước đạt thấp, trung bình ở mức 5% trong khi tỷ lệ này tại các ngân hàng nước ngoài là khoảng 9%. Tỷ lệ an toàn vốn thấp dẫn đến khả năng chống đỡ với các rủi ro hệ thống yếu, nguồn vốn hạn chế khiến các ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong việc cập nhật, ứng dụng các công nghệ mới và việc phát triển các sản phẩm đa dạng cho 3 khách hàng. Tỷ lệ nợ xấu ở các ngân hàng trong nước cũng ở mức cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với nền kinh tế.  Về hạ tầng công nghệ và hệ thống thanh toán: Do hạn chế về quy mô vốn, các ngân hàng trong nước cũng gặp khó khăn trong việc ứng dụng công nghệ vào hoạt động. Hạ tầng công nghệ và hệ thống thanh toán chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và nhu cầu của khách hàng.  Về quản trị hoạt động ngân hàng: hệ thống quản trị của ngân hàng trong nước trên tất cả các mặt như quản trị nguồn nhân lực, quản trị rủi ro đều chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Các ngân hàng trong nước chưa có các công cụ hiện đại để quản trị rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, quản lý thanh khoản, hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ trong ngân hàng lạc hậu, chưa có tính dự báo sớm với các rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động. Công tác quản lý nhân sự còn nhiều hạn chế, chất lượng lao động tại các ngân hàng trong nước chưa cao, chưa nhanh nhạy với nhu cầu của thị trường. 1.2. Nguyên nhân thu hút vốn nước ngoài Khi Việt Nam gia nhập WTO, bức tranh về tài chính, ngân hàng trong nước sẽ có sự thay đổi đáng kể. Các tổ chức tài chính nước ngoài có thể nắm giữ cổ phần của các ngân hàng trong nước, sẽ xuất hiện các ngân hàng 100% vốn đầu tư nước ngoài, khi đó thị phần tín dụng của các ngân hàng Việt Nam sẽ bị phân hoá và chia sẻ vì ngân hàng nước ngoài có uy tín, trình độ quản lý tốt, có lợi thế về vốn và công nghệ, cách thức tiếp thị rất bài bản. Do vậy, sức ép về cạnh tranh của các ngân hàng trong nước sẽ rất lớn.Các ngân hàng yếu kém, quy mô nhỏ sẽ phải sáp nhập, hợp nhất tích tụ, tăng vốn điều lệ để cạnh tranh.Trước những thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO, đã đến lúc các ngân hàng trong nước cần tăng tốc thực hiện kế hoạch nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua việc đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, củng cố tăng cường năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành, đặc biệt là việc tăng vốn điều lệ. Theo các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, để đảm bảo sức cạnh tranh của các tổ chức tài chính tín dụng thì hệ thống ngân hàng trong nước cần đề ra lộ trình huy động và tăng vốn điều lệ một cách cụ thể. Theo tính toán của các nhà hoạch định chính sách, 4 đến năm 2015 các ngân hàng thương mại nhà nước cần có số vốn chủ sở hữu đạt trên 1tỷ USD; có khoảng 10 ngân hàng cổ phần đạt số vốn trên 100 triệu USD; các ngân hàng thương mại cổ phần còn lại cần đạt số vốn tối thiểu là trên 50 triệu USD; hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn cần đạt số vốn điều lệ trên 10 triệu USD. Với lộ trình như vậy đòi hỏi các ngân hàng nhỏ, khả năng tăng vốn chậm hoặc không có khả năng tăng vốn cần có chiến lược cụ thể để sáp nhập hoặc hợp nhất với các ngân hàng lớn. Theo cam kết gia nhập WTO thì lĩnh vực ngân hàng là lĩnh vực mở cửa hoàn toàn vào năm 2010. Có hai quan điểm đặt ra, một là lựa chọn hợp tác, hai là hạn chế hợp tác để cạnh tranh.Hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn nhiều điểm yếu như nói trên và đa số các ý kiến cho rằng: hội nhập, cạnh tranh là tất yếu của quá trình phát triển, vì vậy, các ngân hàng nên lựa chọn giải pháp hợp tác để cùng phát triển. Như thế, các ngân hàng sẽ học hỏi được nhiều kinh nghiệm quản lý, quản trị ngân hàng, tận dụng công nghệ hiện đại và nhất là thu hút được vốn đầu tư và nâng cao khả năng cạnh tranh với đối thủ chính là các ngân hàng 100% vốn đầu tư nước ngoài. 1.3. Lợi ích đạt được từ việc thu hút vốn nước ngoài Sau một quá trình thu hút vốn nước ngoài, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã đạt được một số ưu điểm nhất định. Cụ thể như sau: Thứ nhất, tạo cơ hội cho các ngân hàng thương mại trong nước tiếp cận vốn quốc tế dễ dàng hơn. Thứ hai, tiếp thụ kiến thức, kinh nghiệm và công nghệ hiện đại về quản lý và hoạt động ngân hàng khi các ngân hàng trong nước lựa chọn các ngân hàng nước ngoài danh tiếng làm đối tác chiến lược vì một trong các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO của Việt Nam là cho phép các ngân hàng nước ngoài được đầu tư mua cổ phần của các ngân hàng trong nước. Do vậy năng lực tài chính trong những năm qua của các ngân hàng thương mại được nâng lên: Cơ cấu và giá trị vốn điều lệ của hệ thống ngân hàng thương mại đã tăng lên đáng kể. Hầu hết các ngân hàng đều đạt được mức vốn pháp định là 3000 tỷ theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Trong đó, một số ngân hàng còn có số vốn điều lệ khá cao như: 5 VietinBank, Agribank, Vietcombank, BIDV, Techcombank,… Giá trị tổng tài s ản của các ngân hàng thương mại cũng tăng mạnh, trong giai đoạn từ năm 2007- 2010, quy mô tài sản của các ngân hàng thương mại đã tăng gấp đôi, từ 1.069 nghìn tỷ lên 2.690 nghìn tỷ đồng và đạt khoảng 3600 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2012. Thứ ba, về hiệu quả hoạt động: khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại, thể hiện qua chỉ tiêu ROA, ROE đều được cải thiện, đa phần ROE trên 10% và ROA trên 1%. Tính đến tháng 3/2013, đã có 11 ngân hàng thực hiện chào bán thành công cổ phần cho đối tác nước ngoài đều là các ngân hàng lớn trong khu vực và trên thế giới. Việc tăng vốn điều lệ góp phần củng cố năng lực tài chính, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong nước. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại trong nước đã có cơ hội học tập và nâng cao trình độ quản trị và cung cấp dịch vụ, phát triển các loại hình và kỹ năng kinh doanh mới mà các ngân hàng trong nước chưa có hoặc có ít kinh nghiệm như: kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế, tín dụng thương mại quốc tế, dịch vụ ngân hàng điện tử, môi giới tiền tệ, quản lý rủi ro,... 2. Những xu hướng điều chỉnh thể chế Đẩy mạnh phát triển kinh tế không thể không nhắc đến vai trò của hệ thống ngân hàng vì đây là tổ chức trung gian điều phối luồng vốn trong nền kinh tế, giúp các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn nhàn rỗi, tạo điều kiện củng cố, mở rộng, gia tăng quy mô sản xuất, đây là đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Do đó, sự hoạt động ổn định, chuyên nghiệp, an toàn của hệ thống ngân hàng phải được đảm bảo, đặc biệt trong tình hình hiện nay khi mà tính cạnh tranh ngày càng cao, rủi ro hoạt động ngày càng lớn, nhiều ngân hàng Việt Nam đã bộc lộ những yếu kém dẫn đến việc sáp nhập hoặc hợp nhất các ngân hàng này là không thể tránh khỏi. Nhìn nhận được những vấn đề trên,nhà nước đang cố gắng xây dựng một môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng, các chính sách, thủ tục hành chính thuận tiện hơn, bên cạnh đó tiếp tục thực hiện rà soát và hệ thống hóa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ngành ngân hàng nhằm đánh giá sự phù hợp, tương thích của các văn bản quy phạm pháp 6 luật ngành ngân hàng với toàn bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam, tình hình kinh tế - xã hội và định hướng phát triển dài hạn của đất nước. Nhiều ý kiến cho rằng,Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính cần tiến hành tái cơ cấu ngân hàng theo lộ trình, để tránh việc các ngân hàng thương mại trong nước rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán; nên cho phép phát hành cổ phiếu không có quyền biểu quyết dành riêng cho doanh nghiệp nước ngoài. Việc phát hành cổ phiếu này sẽ giúp doanh nghiệp nội địa có thêm nguồn vốn kinh doanh trong khi doanh nghiệp nước ngoài có thể đầu tư và hưởng các quyền lợi tài chính trong các công ty nội địa song vẫn bảo đảm các doanh nghiệp này không tham gia vào việc biểu quyết các vấn đề của công ty. Bên cạnh đó, bản thân các ngân hàng cần nâng cao năng lực tài chính: tiếp tục khẩn trương tăng vốn điều lệ, xử lý dứt điểm nợ tồn đọng nhằm lành mạnh hóa tình hình tài chính; nâng cao khả năng cạnh tranh; nâng cao quản trị rủi ro, xây dựng bộ chứng chỉ hành nghề, bộ quy tắc ứng xử ngân hàng; nâng cao năng lực quản trị điều hành;nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên ngân hàng; hiện đại hóa công nghệ, chú trọng hoạt động marketing,đa dạng hóa và nâng cao tiện ích các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên công nghệ, kỹ thuật tiên tiến. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn lực nước ngoài trong quá trình tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam, Chính phủ đã ban hành đề án 254 với nội dung quan trọng là khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài hợp tác đầu tư với các tổ chức tín dụng Việt Nam, và khuyến khích các tổ chức tín dụng nước ngoài tham gia góp vốn mua cổ phần, sáp nhập hợp nhất vào các tổ chức tín dụng yếu kém của Việt Nam trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật. Theo đó,tỷ lệ góp vốn của các nhà đầu tư nước ngoài vào ngân hàng được nhà nước cho phép hay gọi là “room” cho các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng là điều rất quan trọng. Theo Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI), nếu room trong lĩnh vực ngân hàng bị bó hẹp thì rất khó khăn trong việc tìm kiếm đối tác chiến lược mạnh, đồng nghĩa với việc khó khăn trong việc huy động vốn từ các nhà đầu tư tổ chức và cũng đồng nghĩa với việc cơ cấu cổ đông nghèo nàn, kém cỏi, chỉ toàn những cổ đông cá nhân, cổ đông tổ chức thụ động và cổ đông gia đình. Chính cơ cấu cổ đông kiểu này đã không kiểm soát 7 được những cổ đông sáng lập điều hành và từ đó gây ra việc lạm quyền, tham nhũng, không những xâm phạm quyền lợi của người góp vốn mà còn xâm phạm quyền lợi của người gửi tiền, dẫn đến ngân hàng Nhà nước phải ra tay cứu. Theo một lãnh đạo cấp cao của ngân hàng Nhà nước, tăng room sở hữu cổ phần của ngân hàng nước ngoài là giải pháp tốt để hỗ trợ tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, nhưng nếu không thận trọng, quyền lợi của quốc gia sẽ bị ảnh hưởng, hệ thống ngân hàng có thể bị thâu tóm, khi các ngân hàng ngoại bắt tay nhau thao túng thị trường. Trước tình hình hiện tại, khi mà vấn đề tái cơ cấu ngân hàng đang được quan tâm, ngân hàng Nhà nước sẽ nới lỏng một s ố tiêu chuẩn và cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia nhiều hơn vào hệ thống ngân hàng Việt Nam theo dự thảo Nghị định về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của TCTD Việt Nam dự kiến sẽ thay thế cho Nghị định 69/2007/NĐ-CP ban hành ngày 20/04/2007 của Chính phủ đang được áp dụng hiện nay. Đây cũng là một trong những xu hướng thay đổi thể chế của Việt Nam về việc thu hút vốn nước ngoài vào ngân hàng trong hoàn cảnh hiện nay. Sau đây là bảng so sánh các quy định trước và sau khi thay đổi. Thay đổi giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại các tổ chức tín dụng trong Dự thảo Nghị định Nghị định 69 Tỷ lệ sở hữu tối đa Dự thảo Nghị định Tỷ lệ sở hữu tối đa Nhà đầu tư nước ngoài không phải tổ chức tín dụng và người có liên quan 5% Một cá nhân nước ngoài 5% Một tổ chức tín dụng nước ngoài và người có liên quan 10% Một nhà đầu tư nước ngoài và người có liên quan 20% Một tổ chức nước ngoài 15% 8 Nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và người có liên quan 15% Nhà đầu tư chiến lược nước Đến 20% nếu được ngoài Thủ tướng chấp thuận Tổng tỷ lệ sở hữu nước ngoài 30% Tổng tỷ lệ sở hữu nước ngoài 20% 30% Có thể thấy, có hai thay đổi quan trọng trong dự thảo Nghị định:  Một là nước ngoài có thể sở hữu trên 30% ở các tổ chức tín dụng yếu kém nếu được Thủ tướng chấp thuận.  Hai là loại bỏ một số tiêu chuẩn có thể cản trở việc tổ chức tín dụng yếu kém bán cổ phần cho tổ chức nước ngoài. Hai thay đổi này giúp các tổ chức tín dụng yếu kém có thể tìm kiếm nguồn vốn nước ngoài dễ dàng hơn và được kỳ vọng giúp đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu ngân hàng vốn còn đang rất chậm. Trong dự thảo Nghị định mới, không có quy định cụ thể như như vốn điều lệ tối thiểu là 1.000 tỷ đồng, báo cáo tài chính lành mạnh, quản lý hiệu quả,… mà các tổ chức tín dụng Việt Nam phải đáp ứng trước khi có thể bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài. Việc loại bỏ tiêu chuẩn này sẽ hỗ trợ cho các tổ chức tín dụng yếu kém đang cần tái cơ cấu thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Kỳ vọng là vậy, nhưng với những thay đổi không nhiều như vậy cũng khó có thể kích thích được các nhà đầu tư nước ngoài bởi các lý do:  Hiện tại, Thủ tướng có thể cho phép bất kỳ tổ chức nào vượt quy định 15% lên 20%. Nhưng trong dự thảo mới, thay vì có thể quyết định từng trường hợp thì Thủ tướng chỉ quyết định cho những ngân hàng yếu kém, với mục đích là tái cấu trúc ngân hàng. Như vậy, trong vấn đề này quy định mới hình như còn chặt chẽ hơn.  Tại Dự thảo Nghị định, một ngân hàng được phép vượt quy định 30% sẽ bị liệt vào loại yếu kém thì mới nhận được ưu đãi. Điều này sẽ khiến các tổ chức tín dụng không mặn mà 9 với việc nhận “danh hiệu” này. Còn với nhà đầu tư nước ngoài cũng không muốn mua các tổ chức tín dụng đã được cho là yếu kém vì lo ngại sẽ ảnh hưởng đến thương hiệu. 3. Khái niệm đối tác chiến lược Theo những nội dung trên, việc thu hút vốn nước ngoài vào các ngân hàng Việt Nam là điều cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, mục tiêucủa các ngân hàng Việt Nam khi thực hiện điều này ngoài việc tăng vốn điều lệ còn có mong muốn tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm, công nghệ hiện đại về quản lý và hoạt động ngân hàng, phát triển các loại hình và kỹ năng kinh doanh mới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Như vậy, để đáp ứng mục tiêu trên, ngân hàng Việt Nam trong quá trình kêu gọi nhà đầu tư nước ngoài không chỉ thu hút đại trà mà còn phải mang đến cho mình ai là đối tác chiến lược. Bởi vì, theo nghị định số 69/2007/NĐ-CP của chính phủ xác định: "Nhà đầu tư chiến lược nước ngoài" là tổ chức tín dụng nước ngoài có uy tín, có năng lực tài chính và khả năng hỗ trợ ngân hàng Việt Nam trong phát triển sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, nâng cao năng lực quản trị, điều hành và áp dụng công nghệ hiện đại; có lợi ích chiến lược phù hợp với chiến lược phát triển của ngân hàng Việt Nam, đáp ứng các tiêu chí cụ thể do ngân hàng Việt Nam quy định. Đối tác chiến lược khi đã bỏ một lượng vốn nhất định để sở hữu một tỷ lệ đáng kể trong một ngân hàng, sẽ cố gắng cải thiện năng lực và vị thế cạnh tranh của ngân hàng. Thông thường, đối tác chiến lược có thể đóng góp thêm cho ngân hàng bằng công nghệ hiện đại, quyền sở hữu trí tuệ, kỹ năng quản lý, tiếp thị, khả năng tiếp cận với những thị trường mới, khách hàng mới,... Bằng cách đó, họ mong đợi ngân hàng mà họ đầu tư sẽ có thể đạt được những khoản lợi nhuận vượt trội so với các ngân hàng khác trong ngành, và họ được chung hưởng thành quả đó với ngân hàng mà họ đầu tư . Tìm đối tác chiến lược nước ngoài được coi là con đường dẫn đến thành công của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam vì đa số ngân hàng ngoại có nền tảng tài chính và năng lực quản trị tốt, nhiều ngân hàng có mặt ở Việt Nam từ lâu như HSBC, ANZ, Standard Chartered, Deutsche Bank,… đã có bề dày hoạt động hàng trăm năm trên toàn cầu, do vậy họ có rất nhiều thế mạnh có thể bù đắp cho đối tác Việt Nam. Sau đây là một vài ví dụ dẫn chứng cho mối quan hệ này: 10
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.