Tiểu luận về chiến tranh - Phần 9

pdf
Số trang Tiểu luận về chiến tranh - Phần 9 24 Cỡ tệp Tiểu luận về chiến tranh - Phần 9 204 KB Lượt tải Tiểu luận về chiến tranh - Phần 9 2 Lượt đọc Tiểu luận về chiến tranh - Phần 9 19
Đánh giá Tiểu luận về chiến tranh - Phần 9
4.8 ( 20 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 24 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Tiểu luận về chiến tranh TIỂU LUẬN VỀ CHIẾN TRANH- XXXVI Đã đăng trên tờ "The Pall Mall Gazette" số 1852, ngày 19 tháng Giêng 1871 Sau khi Xê-đăng thất thủ từ khi Pa-ri lần đầu tiên bị uy hiếp nghiêm trọng bởi nguy cơ cuộc tấn công của địch, chúng tôi đã thường xuyên chỉ ra sức mạnh lớn lao của thủ đô có công sự như Pa-ri, và dù thế nào đi nữa, chúng tôi cũng không quên nói thêm rằng muốn phát huy đầy đủ khả năng phòng ngự của nó thì điều cần thiết là phải có một đạo quân chính quy lớn bảo vệ nó, đạo quân này phải mạnh đến mức không thể khóa chặt nó trong các công sự của cứ điểm hoặc không thể cản trở nó cơ động trên địa hình trống trải xung quanh cứ điểm dùng làm điểm tựa và một phần làm căn cứ tác chiến của nó. Trong điều kiện bình thường thì đương nhiên một đạo quân như thế hầu như bao giờ cũng có. Các đạo quân của Pháp thua trận ở gần biên giới có thể rút về Pa-ri như là dinh lũy cuối cùng và chủ yếu của chúng; trong tình hình thông thường chúng đến đây với đầy đủ lực lượng và tìm được đủ viện binh để có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhưng lần này chiến lược của nền Đế chế thứ hai dẫn tới chỗ tất cả các đạo quân của Pháp đều biến khỏi chiến trường. Do chiến lược ấy mà một trong những đạo quân ấy đã đi đến chỗ bị vây khốn ở Mét-xơ, và theo tất cả các dấu hiệu thì không có hy vọng gì giải thoát được ; một đạo quân khác thì đã đầu hàng thật sự ở Xê-đăng. Khi quân Phổ tiến đến Pa-ri thì toàn bộ lực lượng sẵn có để phòng thủ Pa-ri gồm có mấy đơn vị hậu bị huấn luyện mới có nửa quân số, một số đội cảnh vệ lưu động từ các tỉnh về (vừa mới tuyển mộ) và quân vệ binh quốc gia địa phương (chưa đầy một nửa đã biên chế xong). Ngay cả trong tình hình đó, sức mạnh của bản thân cứ điểm cũng vẫn là vô cùng to lớn đối với quân xâm lược mà nhiệm vụ tấn công lege artis[1*] thành phố đồ sộ ấy với những công sự ngoại vi của nó cũng cực kỳ nặng nề đến nỗi họ phải từ bỏ ngay nhiệm vụ ấy và cho rằng dùng nạn đói để buộc cứ điểm đầu hàng thì hơn. Tiểu luận về chiến tranh Bây giờ "ủy ban chiến lũy" gồm có Hăng-ri Rô-sơ-phoóc và những nhân vật khác đã được thành lập. Ủy ban này được trao nhiệm vụ xây dựng phòng tuyến bên trong thứ ba để chuẩn bi cho thành phố tiến hành những cuộc chiến đấu rất phù hợp với tính cách người Pa-ri, cụ thể là phòng ngự trên chiến lũy và chiến đấu giữ từng ngôi nhà. Báo chí thời bấy giờ chế diễu đủ điều ủy ban ấy; nhưng tin bán chính thức của bộ tham mưu Phổ không để lại một chút nghi ngờ gì về việc chính triển vọng chắc chắn về một cuộc kháng cự ngoan cường trên các chiến lũy mà quân Đức sẽ vấp phải chủ yếu đã buộc họ quyết định bất cứ điểm đầu hàng bằng nạn đói. Quân Phổ hiểu rất rõ rằng pháo đài và tường thành ở phía sau nếu chỉ phòng thủ bằng pháo binh thì sau một thời gian nhất định chắc chắn sẽ thất thủ và bấy giờ sẽ bước vào thời kỳ chiến đấu trong đó tân binh và thậm chí dân thường sẽ thành những kẻ địch xứng với cựu binh; trong cuộc chiến đấu đó sẽ phải chiếm từng ngôi nhà và từng dãy phố, điều đó không nghi ngờ gì hết sẽ đem lại những thiệt hại lớn nếu chú ý đến số quân phòng ngự rất đông đảo. Bất cứ ai quan tâm đến vấn đề này mà xem báo chí đều thấy rằng tờ báo Phổ "Staats-anzeiger"[121] đã nêu lý do ấy làm lý do có tính chất quyết định để từ bỏ vây đánh chính quy. Cuộc bao vây bắt đầu ngày 19 tháng Chín, đúng 4 tháng trước đây. Hôm sau, tướng Đuy-cơ-rô chỉ huy các đơn vị chính quy ở Pa-ri đã dùng 3 sư đoàn đánh thọc ra ở hướng Cla-mác, mất 7 khẩu pháo và 3.000 người bị bắt làm tù binh. Sau cuộc đánh thọc ra này là những cuộc đánh thọc ra tương tự vào ngày 23 và 30 tháng Chín, 13 và 21 tháng Mười; tất cả các cuộc đánh thọc ra ấy đều đem đến những thiệt hại lớn cho quân Pháp mà không có lợi ích gì, ngoài việc làm cho lính mới của Pháp quen với hỏa lực định. Ngày 28 lại có một trận đánh thọc ra nữa thành công hơn và Lơ-buốc-giê: chiếm được thôn này và giữ được hai ngày, nhưng ngày 30, sư đoàn vệ binh 2 của Phổ- gồm 13 tiểu đoàn bấy giờ có chưa đầy 10.000 - người đã chiếm lại thôn trên. Không nghi ngờ gì hết, quân Pháp sử dụng rất tồi hai ngày ấy, vì lẽ ra trong hai ngày ấy họ có thể biến thôn có nhiều nhà cửa vững chắc này thành một cứ điểm; họ cũng không quan tâm làm sao chuẩn bị sẵn Tiểu luận về chiến tranh được đội dự bị để kịp thời chi viện cho quân phòng ngự; nếu không thì không thể chiếm lại được của họ địa điểm ấy bằng lực lượng nhỏ như thế. Sau những cố gắng ấy là một tháng yên tĩnh. Rõ ràng là trước khi lại dám tiến hành những trận đánh thọc ra lớn, Tơ-rô-suy đã định cải tiến huấn luyện và tăng cường kỷ luật cho quân đội của mình điều đó là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng đồng thời ông đã coi nhẹ việc tổ chức các hoạt động chiến đấu của các đội cảnh giới đội trinh sát và đội tuần tra, phục kích và tập kích bất ngờ, nghĩa là những việc mà binh sĩ Pháp ở mặt trận xung quanh Pa-ri hiện thường xuyên tiến hành; thế nhưng phương thức tác chiến ấy là thích hợp hơn hết để bồi dưỡng cho lính mới sự tín nhiệm đối với sĩ quan của mình và lòng tự tin và làm cho họ quen bình tĩnh giao chiến với địch. Quân đội hiểu rằng họ có thể dùng những phân đội nhỏ: như tiểu đội, nửa đại đội và đại đội tập kích bất ngờ những phân đội cũng nhỏ như thế của địch, đánh bại chúng và bắt tù binh, họ sẽ nhanh chóng học được cách đánh nhau với địch ở cấp tiểu đoàn chống với tiểu đoàn. Ngoài ra họ cũng nhờ đó hiểu được nhiệm vụ cảnh giới là gì, điều mà nhiều người trong họ vào tháng Chạp hình như còn chưa biết. Sau hết, ngày 28 tháng Mười một, bắt đầu một loạt cuộc đánh thọc ra kết thúc bằng cuộc đánh thọc ra lớn qua sông Mác-nơ ngày 30 tháng Mười một và cuộc tấn công trên toàn bộ chính diện phía đông Pa-ri. Ngày 2 tháng Chạp quân Đức lại chiếm lại và một phần Săm-pi-nhi và ngày hôm sau quân Pháp lui về bên kia sông Mác-nơ. Xét về mặt ý đồ chọc thủng tuyến công sự vòng tròn khép kín của bên bao vây xây dựng xung quanh Pa-ri, cuộc tấn công ấy đã hoàn toàn thất bại; nó được tiến hành thiếu sự cương quyết cần thiết. Nhưng nhờ nó quân Pháp giữ được cho mình đại bộ phận khu vực phía trước phòng tuyến của mình mà cho tới đây vẫn không thuộc về bên nào. Họ thu được một dải đất rộng chừng 2 dặm từ Đrăngxi đến sông Mác-nơ gần Nơi-i- dải đất này là khu vực mà hỏa lực của các pháo đài của Pháp hoàn toàn khống chế, có nhiều thôn xóm với những nhà cửa vững chắc Tiểu luận về chiến tranh thích hợp với phòng ngự, hơn nữa ở đó có cao nguyên Ai-rôn- một trận địa mới của quân Pháp khống chế khu vực xung quanh. Như vậy ở đây có khả năng mở rộng không ngừng khu vực phòng ngự; bám chắc được khu vực này có thể tiếp tục tấn công. Trong tình hình đó hoặc chiến tuyến của bên bao vây "lồi ra" đến mức khiến cho cuộc tấn công vào nó có thể thắng lợi hoặc quân địch do tập trung ở đây những lực lượng lớn nên buộc phải làm yếu trận tuyến của nó ở các khu vực khác và như vậy làm dễ dàng cho cuộc tấn công của quân Pháp. Khu vực này đã nằm trong tay quân Pháp cả một tháng trời. Quân Đức buộc phải đặt pháo công thành để bắn vào A-vrông vả những đơn vị pháo ấy đã bắn phá cả thảy chỉ có 2 ngày đã đủ để đánh bật quân Pháp khỏi đó; một khi mất A-vrông thi các trận địa khác cũng phải bỏ. Thật vậy, ngày 21 quân Pháp lại mở những trận tấn công mới trên toàn mặt trận đông bắc và đông; đã chiếm được một nửa Lờ-buốc-giê, chiếm được Medông-blăng-sơ và Vin-ê-vrác; nhưng tất cả các trận địa có lợi ấy lại bị mất ngay đêm ấy. Binh lính phải ở lại phía trước các pháo đài, nơi đây họ hạ trại ngoài trời dưới nhiệt độ từ 9o đến 21o dưới 0, nhưng cuối cùng họ rút vào hầm vì, đương nhiên, họ không thể chịu đựng nổi việc ở ngoài trời dưới nhiệt độ ấy. Hơn bất cứ sự kiện nào khác, toàn bộ sự kiện trên là một chỉ dẫn điển hình nói lên sự thiếu kiên quyết và cương nghị, nói lên cái mollesse[2*], thậm chí chúng tôi có thể nói sự thờ ơ, trong việc tiến hành cuộc phòng ngự Pa-ri. Diều đã xảy ra với A-vrông rút cục đã thúc đẩy quân Phổ biến cuộc bao vây thành cuộc vây đánh thực sự và sử dụng pháo công thành đã được chuẩn bị để dự phòng. Ngày 30 tháng Chạp bắt đầu cuộc pháo kích chính quy vào các pháo đài phía đông- bắc và phía đông, ngày 5 tháng Giêng vào các pháo đài phía nam. Cả hai trường hợp, cuộc pháo kích đã được tiến hành không lúc nào gián đoạn, và cách đây không lâu nó còn kèm theo việc pháo kích vào chính thành phố, đó là một hành động bạo ngược ngu xuẩn. Pháo kích một thành phố lớn như Pa-n không thể nào đẩy nhanh sự đầu hàng của nó- không ai biết điều đó rõ hơn bộ tham mưu ở Véc-xây và không ai đưa ra thường xuyên hơn nó những lý do để tuyên bố điều đó Tiểu luận về chiến tranh trên báo chí. Tiếp theo cuộc pháo kích các pháo đài là việc đào hào song song chính quy ít ra là đối với pháo đài Ít-xil có tin rằng đại bác đang được chuyển vào trận địa bố trí gần pháo đài hơn và nếu như bên phòng ngự không có những hành động tiến công kiên quyết hơn là họ tiến hành cho tới nay thì có thể là chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ được tin rằng một hoặc mấy pháo đài bị đánh hỏng thật sự. Nhưng Tơ-rô-suy cố tình hoặc vô ý kéo dài sự án binh bất động. Những cuộc đánh thọc ra ít ỏi được tiến hành trong mấy ngày qua hình như "quá không thiết thực" như tác giả những lời lên án Tơ-rô-suy trên tờ "Siècle" gọi tất cả những cuộc đánh thọc ra ấy Đồn rằng binh sĩ không phục tùng các sĩ quan. Nếu đúng vậy thì điều đó chỉ chứng tỏ rằng binh sĩ không còn tín nhiệm gì bộ tổng tư lệnh nữa. Và quả thực chúng tôi không thể không đi đến kết luận rằng sự cần thiết phải thay đổi bộ tổng tư lệnh ở Pa-ri đã chín muồi. Sự do dự, sự lờ đờ, sự thiếu kiên trì và kiên quyết trong toàn bộ việc tiến hành phòng ngự, không thể hoàn toàn quy toàn bộ điều đó cho chất lượng thấp kém của bộ đội. Trận địa đã không được củng cố thỏa đáng mặc dù đã giữ được cả một tháng trời trong đó chỉ có mười ngày thật giá rét, điều đó chỉ có thể chê trách Tơ-rô-suy, người có trách nhiệm quan tâm tiến hành việc đó. Thêm vào đó tháng này lại là thời kỳ hiểm nghèo của cuộc vây đánh; đến cuối tháng này vấn đề ai, bên vây đánh hay bên bị vây, sẽ giành được khu vực ấy phải được giải quyết. Sự án binh bất động và sự do dự của viên tổng tư lệnh chứ không phải của quân đội đã làm cho cán cân nghiêng về phía bất lợi cho bên bị vây. Nhưng tại sao sự án binh bất động và sự do dự đó thậm chí bây giờ còn tiếp tục? Các pháo đài bị địch bắn phá, các đơn vị pháo của bên bao vây ngày càng nhích gần; pháo binh Pháp, như chính Tơ-rô-suy thừa nhận, yếu hơn pháo binh của quân địch đang tấn công. Nếu như tường pháo đài chỉ được bảo vệ bằng pháo binh thì có thể tính toán chính xác ngày mà trong điều kiện đó những bức tường ấy- phần xây bằng đá và những phần khác- sẽ bị phá hủy. Sự án binh bất động và sự do dự Tiểu luận về chiến tranh không thể cứu được chúng. Cần làm cái gì đó, nhưng nếu như Tơ-rô-suy không thể làm được thì tốt hơn hết là ông ta nhường cho người nào đó thử làm xem sao Kinh-lếch đã lưu lại cho hậu thế một mẩu chuyện trong đó tính cách của Tơ-rô-suy đã biểu hiện đúng như biểu hiện trong cuộc phòng thủ Pa-ri. Khi huân tước Raglan và Xanh-Ác-nô đã quyết định tiến quân về Vác-na[122] và sư đoàn nhẹ của Anh đã xuất phát, đại tá Tơ-rô-suy đã đến thăm huân tước Ra-glan, Tơ-rô-suy là "một con người thận trọng, suy thước tính sau, tinh thông khoa chiến lược" một con người mà "người ta đoán rằng sứ mênh của anh ta là giữ gìn cho nguyên soái Pháp khỏi mắc phải bất cứ hành động ngông cuồng nào". Đại tá Tơ-rô-suy hội đàm với Ra-glan, do kết quả cuộc hội đàm đó sau khi đề nghị huân tước Ra-glan noi gương ông ta, Xanh-Ác-nô đã tuyên bố rằng ông ta đã quyết định "chỉ phái một sư đoàn đi Vác-na còn phần còn lại của đạo quân của ông ta thì ông ta dùng đề chiếm lĩnh các trận địa không phải ở phía trước mà là phía sau dẫy núi Ban-căng"[123]. Và làm điều đó đúng vào lúc mà quân Thổ suýt giành được thắng lợi trên sông Đa-nuýp mà không có viện trợ của bên ngoài! Người ta có thể nói rằng quân đội ở Pa-ri đã xa sút tinh thần, rằng họ không còn thích hợp với các cuộc đánh thọc ra lớn, rằng giờ đây đánh thọc ra vào các công sự bao vây của quân Phổ là quá muộn rồi, rằng có lẽ Tơ-rô-suy giữ gìn quân đội của mình để dốc toàn lực vào phút cuối cùng .v.v.. Nhưng nếu như 500.000 người có vũ trang ở Pa-ri phải đầu hàng quân địch kém họ trên hai lần về số lượng mà lại ở vào các trận địa cực kỳ bất lợi cho phòng ngự thì đương nhiên họ không làm việc đó chừng nào mà toàn thế giới và ngay bản thân họ chưa thấy rô ràng là họ yểu Tiểu luận về chiến tranh hơn địch. Họ nhất định không thể ngồi yên, ăn nốt phần dự trữ lương thực cuối cùng rồi đầu hàng! Nếu họ sa sút tinh thần thì đó là do họ cho rằng họ đã bị đánh bại hoàn toàn hay là do hết mọi sự tín nhiệm ở Tơ-rô-suy? Nếu hiện nay đánh thọc ra đã muộn rồi thì một tháng nữa việc đó càng ít có thể thực hiện được. Còn chỗ kết thúc của bản thân Tơ-rô-suy thì nó càng đến sớm càng tốt; hiện nay binh si ăn uống còn khá đầy đủ và tương đối khỏe mạnh nhưng khó nói được đến tháng Hai tình trạng của họ sẽ ra sao. Chú thích [1*]. chính quy [2*]. sự bạc nhược Tiểu luận về chiến tranh TIỂU LUẬN VỀ CHIẾN TRANH-XXXVII Đã đăng trên tờ "The Pall Mall Gazette" số 1854, ngày 21 tháng Giêng 1871 Tuần lễ này cực kỳ không may cho quân Pháp. Tiếp theo thất bại của Săng-di là cuộc tấn công của Buốc-ba-ki ở Ben-pho bị đánh lui và hiện nay, theo tin của Phổ, lại thêm Phai-đéc-bơ thất bại ở Xanh-căng-tanh[124]. Về việc Buốc-ba-ki bại trận thì không thể nghi ngờ gì nữa. Từ trận Vi-léc-xếchxen diễn ra ngày 9, ông đã tỏ ra chậm chạp trong tiến quân, điều đó chứng tỏ hoặc viên tướng này do dự hoặc quân của ông không đủ lực lượng. Cuộc tấn công vào trận địa có công sự bên kia sông Li-den (hoặc I-den theo các bản đồ khác) mà Véc-đe chuẩn bị để yểm trợ cho cuộc vây đánh Ben-pho mới bắt đầu ngày 15 mà đến chiều tối ngày 17 Buồc-ba-ki hết hy vọng thắng lợi đã ngừng lại. Hiện nay hoàn toàn không nghi ngờ gì nữa là cuộc tiến quân đó đã được tiến hành với lực lượng không đủ. Quân đoàn 15 ở lại gần Nê-véc, quân đoàn 19 thì một tháng nay chúng tôi không có tin gì; quân đội từ Li-ông đến chỉ có một quân đoàn là quân đoàn 24. Hiện nay chúng tôi được biết rằng có những lực lượng tăng viện lớn đang vội vã tiến về Đi-giông nhưng do bên địch cũng có viện binh mạnh đến nên Buốcba-ki không thể lập tức lại tấn công. Một câu hỏi có thể được đặt ra là Buốc-ba-ki có nên đưa quân lính mới của mình cường tập vào trận địa có công sự được phòng thủ bằng súng nạp đạn bằng quy lát hay không, nhưng chúng tôi còn biết rất ít về tình hình chiến thuật của trận đánh ba ngày ấy; có thể là Buốc-ba-ki không thể hành động khác được. Việc tổng hành dinh quân Phổ không coi thường cuộc tiến quần của Buốc-ba-ki như đa số công chúng ở đây tại Luân Đôn, có thể thấy được qua sự kiên quyết phi thường của nó trong việc thi hành những biện pháp để đẩy lùi Buốc-ba-ki. Những biện pháp ấy khiến ta tin chắc rằng Véc-xây đã biết rõ cuộc tiến quân của Buốcba-ki ngay khỉ ông ta bắt đầu cuộc hành quân về phía đông, nếu không phải là sớm Tiểu luận về chiến tranh hơn. Ngày 2 tháng Giêng quân đoàn 2 được lệnh tiến về hướng đông-nam Pa-ri, tới vùng thượng lưu sông Xen. Khoảng chừng cùng thời gian đó Sa-xtơ-rốp đem sư đoàn 13 từ vùng phụ cận Mét-xơ tiến về Sa-ti-ông. Ngày 9, ngay sau khi Rôcơ-roa thất thủ, sư đoàn 14 (sư đoàn còn lại của quân đoàn 7 của Sa-xtơ-rốp) được lệnh tiến từ Sác-lơ-vin đến Pa-ri rồi từ đấy đi theo quân đoàn 2; ngày 15 chúng tôi được tin các phân đội đi đầu của nó (một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 77) đã chiến đấu ở gần Lăng-grơ . Trong khi đó, các đơn vị lan-ve được điều gấp từ Đức sang Nam An-da-xơ, còn Man-toi-phen thì rõ ràng là được bổ nhiệm chức vụ mới[1*] chính là do cuộc tiến quân quan trọng đầu tiên này vào nơi yếu nhất của toàn bộ trận tuyến quân Đức. Nếu Buốc-ba-ki có đủ lực lượng để đánh bại Véc-đe thì ông có thể đẩy lùi Véc-đe về thung lũng sông Ranh, bố trí quân của mình sao cho giữa quân của ông và Véc-đe có dãy núi Vô-he-dơ và đưa đại bộ phận lực lượng tiến đánh những lực lượng tăng viện mà ông có thể tấn công từng bộ phận khi họ từ các phía khác nhau kéo đến. Ông ta có thể thọc vào tuyến đường sắt Pa-ri - Xtơ-raxbua và trong trường hợp này không chắc là liệu cuộc bao vây Pa-ri có tiếp tục được không. Thất bại của Buốc-ba-ki không hề chứng tỏ rằng cuộc tiến quân của ông ta là sai lầm xét theo quan điểm chiến lược; nó chỉ chứng minh rằng cuộc tiến quân đó đã được tiến hành với binh lực không đầy đủ. Tác giả loạt bài "Tiểu luận" này vẫn giữ ý kiến cho rằng kế hoạch chắc chắn nhất để giải phóng Pa-ri trong thời gian ngắn nhất là tấn công vào đường sắt Xtơ-ra-xbua - Pa-ri; đó là con đường sắt chạy thẳng duy nhất nằm trong tay quân Đức vì hiện nay chúng tôi biết rằng tuyến đường thứ hai chạy qua Ti-ôn-vin và Mê-di-rơ vẫn chưa thể sử dụng được; một thời gian nữa vẫn chưa sử dụng được tuyến đường này vì rằng đường hầm ở Ác-đen-nơ bị phá hoại. Nhân đây xin nói thêm rằng đây là trường hợp thứ hai trong cuộc chiến tranh này việc phá hoại đường hầm đã làm gián đoạn vận chuyển đường sắt mấy tháng trong khi các cầu bị phá hoại lần nào cũng được khôi phục trong một thời gian ngắn khó tin được. Tiểu luận về chiến tranh Còn Săng-di thì hiển nhiên là đã mắc sai lầm rất nghiêm trọng khi bước vào trận quyết chiến. Hình như ông đã được biết về cuộc tiến quân của Buốc-ba-ki gần một tháng trước; rõ ràng ông biết rằng mục đích thực sự của cuộc tiến quân này là giải phóng Pa-ri và lúc bấy giờ đạo quân của Phri-đrích- Các-lơ có thể dốc toàn bộ lực lượng tấn công ông ta một cách mãnh liệt. Ông không buộc phải tiếp nhận trận đánh, trái lại vừa rút lui từ từ vừa luôn luôn mở những cuộc chiến đấu hậu vệ như ông đã hành động vào tháng Chạp và gây được tiếng tăm, ông có thể kéo địch vào nơi nguy hiểm cho nó. Ông hoàn toàn có đủ thời gian để chuyển dự trữ vào nơi an toàn cũng như có thể rút hoặc là về Brơ-ta-nhơ, nơi có các hải cảng có công sự, hoặc qua Nan-tơ về phía nam sông Loa-rơ. Ngoài ra, Phri-đrích- Các-lơ không thể đem toàn bộ lực lượng truy kích ông xa như vậy. Cuộc rút lui như thế- một cuộc rút lui do tình hình quân sự quyết định, càng phù hợp với quan niệm trước đây của chúng tôi về hoạt động của Săng-di; vì nhất định ông ta phải biết rằng viện binh mới mà ông ta nhận được về mặt trang bị và vũ khí cũng như về mặt kỷ luật đều chưa thích hợp để tiến hành trận tổng công kích nên chúng tôi không thể không đi đến kết luận rằng trận đánh ở Lơ-măng diễn ra không phải do những lý do quân sự mà do những lý do chính trị, và người chịu trách nhiệm về trận đánh ấy không phải là Săng-di mà là Gam-béc-ta. Còn cuộc rút lui hiện nay của Săng-di thì dĩ nhiên đã bị cuộc thất bại xảy ra trước nó làm cho trở nên đặc biệt khó khăn; nhưng Săng-di rất có tài thực hành rút lui và cho tới nay kẻ chiến thắng hình như đã không làm suy sút được một cách nghiệm trọng tinh thần cố kết của dạo quân của ông. Nếu không họ có thể đưa ra những bằng chứng chắc chấn để củng cố lời khẳng định của họ là đạo quân ấy "để lộ ra những dấu hiệu tan rã". Cuộc rút lui của đạo quân của Săng-di có thực sự tiến hành theo các hướng khác nhau hay không thì người ta không biết chắc. Dù sao thì căn cứ vào chỗ một bộ phận đội quân của ông rút về A-lăng-xông và bộ phận nữa rút theo hướng La-van còn chưa thể kết luận rằng bộ phận thứ nhất sẽ bị đẩy lùi về bán đảo Cô-tăng-tanh theo hướng Séc-bua còn bộ phận thứ hai bị đẩy lùi về Brơ-ta-nhơ theo hướng Brê-xtơ. Dù có thế thì cũng không phải là một tai họa nghiêm trọng vi hạm đội Pháp trong
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.