Tiểu luận: Những tác động của việc Việt Nam tham gia vào cộng đồng an ninh ASEAN

pdf
Số trang Tiểu luận: Những tác động của việc Việt Nam tham gia vào cộng đồng an ninh ASEAN 20 Cỡ tệp Tiểu luận: Những tác động của việc Việt Nam tham gia vào cộng đồng an ninh ASEAN 289 KB Lượt tải Tiểu luận: Những tác động của việc Việt Nam tham gia vào cộng đồng an ninh ASEAN 3 Lượt đọc Tiểu luận: Những tác động của việc Việt Nam tham gia vào cộng đồng an ninh ASEAN 38
Đánh giá Tiểu luận: Những tác động của việc Việt Nam tham gia vào cộng đồng an ninh ASEAN
4 ( 3 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 20 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Tiểu luận Những tác động của việc Việt Nam tham gia vào cộng đồng an ninh ASEAN [1] MỤC LỤC Tóm tắt ___________________________________ Error! Bookmark not defined. Lời mở đầu ________________________________ Error! Bookmark not defined. 1. Cộng đồng an ninh ASEAN là gì? ___________________________________ 6 1.1. Mục đích, nguyên nhân thành lập ASC _______________________________ 6 1.2. Tính chất: ______________________________________________________ 8 1.3. Nhận xét ______________________________________________________ 9 2. Lợi ích với an ninh quốc gia và thách thức khi Việt Nam tham gia vào ASC __ 10 2.1. Lợi ích _______________________________________________________ 10 2.2. Thách thức ____________________________________________________ 16 3. Ý nghĩa của việc tham gia Cộng đồng an ninh ASEAN với chính sách đối ngoại của Việt Nam._____________________________________________________ 17 Kết luận _________________________________________________________ 19 [2] TÓM TẮT Bài viết có nội dung đề cập đến một vấn đề còn tương đối mới trong chính sách đối ngoại của Việt Nam là lợi ích, thách thức và những tác động của việc Việt Nam tham gia vào cộng đồng an ninh ASEAN (ASC) lên chính sách đối ngoại của Việt Nam. Cộng đồng này mới được thành lập với tư cách là một trong ba trụ cột của cộng đồng ASEAN từ năm 2003 và có kế hoạch sẽ trở thành hiện thực vào năm 2015. ASC được thành lập với mục đích tạo dựng một môi trường hòa bình, phát triển và liên kết an ninh giữa các nước trong khu vực Đông Nam Á với nhau trước những thách thức về mặt an ninh kể cả về mặt truyền thống lẫn phi truyền thống gia tăng tại khu vực sau sự kiện 11/9. Mặc dù là cộng đồng an ninh nhưng ASC lại không tập trung vào hợp tác quân sự mà là một cơ chế an ninh toàn diện, hợp tác trên tất cả các mặt từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh. ASC cũng có những đặc điểm khác với những tổ chức hợp tác an ninh khác khi đề cao yếu tố không xâm phạm độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia thành viên. Mặc dù có tính toàn diện nhưng ASC vẫn có nhiều điểm hạn chế mà nổi bật là tính không ràng buộc của cơ chế này do chịu ảnh hưởng của những đan xen về mặt lợi ích giữa các quốc gia thành viên và các nước lớn có trong khu vực. Ngay khi ASC được thành lập, Việt Nam đã là một thành viên và có những đóng góp tích cực cho việc hình thành và phát triển của ASC. Xét một cách tổng thể, ASC đem lại một môi trường hòa bình, phát triển trong khu vực, một điều cực kì quan trọng với an ninh, phát triển của Việt Nam. Cụ thể hơn, những công cụ mà ASC sở hữu cũng tăng cường việc đảm bảo an ninh cho Việt Nam. Đó là những công cụ tuy không mới như TAC (Hiệp ước thân hữu và hợp tác ở Đông Nam Á) hay SEANWFZ (Hiệp ước Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân) nhưng được ASC tăng cường sức mạnh bằng việc kêu gọi sự tham gia của các nước lớn. Đây là điều hết sức thuận lợi với an ninh của Việt Nam vì an ninh với các nước lớn bao giờ cũng là một trong những ưu tiên hàng đầu của Việt Nam trong khi Việt Nam chưa nhận được một sự [3] đảm bảo nào về mặt an ninh thông qua các cam kết song phương của các nước lớn. ASC cũng có những biện pháp để giải quyết vấn đề biển Đông vốn rất phức tạp với an ninh Việt Nam bằng việc đưa ra cơ chế tập thể các nước ASEAN đàm phán với Trung Quốc để cho ra đời Bộ các quy tắc ứng xử của cac bên ở biển Đông (COC). Đây là một cơ sở pháp lí cực kì quan trọng nhằm giải quyết một cách cơ bản lâu dài những tranh chấp trên khu vực này mà nếu chỉ mình Việt Nam giải quyết thì rất khó thành công. Nhằm giải quyết các nguy cơ an ninh phi truyền thống, ASC cũng đưa ra một loạt công cụ mà tiêu biểu là Công ước ASEAN chống khủng bố, các cơ chế chống tội phạm xuyên quốc gia. Đây là những vấn đề có tính vượt ra ngoài biên giới quốc gia và đương nhiên Việt Nam cần một cơ chế an ninh có tính tập thể như ASEAN để giải quyết. Bên cạnh những mặt lơi ích to lớn, chúng ta cũng phải nhìn nhận những thách thức mà Việt Nam gặp phải khi tham gia vào cộng đồng này. Đó là những thách thức đến từ sự khác biệt về mặt ý thức hệ, lơi ích quốc gia, sự e ngại của các nước ASEAN về những vấn đề an ninh tiềm tàng trong quan hệ giữa Việt Nam với những nước lớn như Mỹ và Trung Quốc. Mặc dù vẫ còn những thách thức song những thời cơ vẫn là nổi trội hơn. Do vậy, tác động của việc Việt Nam tham gia vào ASC lên chính sách đối ngoại của Việt Nam là tương đối đáng kể. Đó là việc Việt Nam nâng tầm mức độ tập hợp lực lượng trong khu vực. Nếu như trước kia chỉ là trong lĩnh vực kinh tế thì giờ đây đã thêm cả lĩnh vực an ninh, chính trị - lĩnh vực hết sức nhạy cảm nhưng cũng chứng tỏ xu hướng hợp tác sâu hơn với các nước trong khu vực của Việt Nam. Ngoài ra, đó còn là việc Việt Nam sẽ tăng cường chính sách kết hợp đối ngoại với an ninh quốc phòng, đưa đối ngoại thực sự trở thành vành đai phòng thủ đầu tiên trước những đe dọa an ninh từ bên ngoài. [4] LỜI MỞ ĐẦU Những năm đầu thế kỉ 21, đặc biệt sau sự kiện 11/9, mặc dù vẫn ở trong tình thế hòa bình, tập trung phát triển kinh tế nhưng một loạt thách thức mới đã nảy sinh, đe dọa an ninh của Việt Nam. Trong Chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới ra đời năm 2003, Đảng cộng sản Việt Nam đã nhận định “tình hình thế giới trong thời gian tới còn diễn biến phức tạp hơn” với ảnh hưởng của Cuộc chiến chống khủng bố do Mĩ đứng đầu, kinh tế thế giới không ổn định. Ngay trong khu vực Đông Nam Á cũng “tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất ổn định” do hoạt động của các nhóm khủng bố, xung đột trong nội bộ các nước khu vực, can thiệp của các nước lớn vào khu vực, ASEAN có nguy cơ bị chia rẽ, tình hình an ninh của hai nước có chung biên giới với Việt Nam là Lào và Campuchia cũng “có khả năng phức tạp hơn”. Ngoài ra, Đảng cộng sản còn nhận định “các hành động xâm hại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nước ta vẫn sẽ tiếp diễn”. Đứng trước các nguy cơ đe doạn an ninh đó, cùng năm 2003, Việt Nam là một trong số các nước đã kí vào Tuyên bố hòa hợp ASEAN II và thông qua việc thành lập Cộng đồng an ninh ASEAN. Việc Việt Nam tham gia vào một cơ chế an ninh khu vực như ASC là một điều còn khá mới mẻ nhưng rõ ràng là có ý nghĩa lớn với chính sách đối ngoại và an ninh quốc gia của Việt Nam nhất là khi phải đối đầu với một loạt nguy cơ mới nảy sinh. Từ đó đến nay, mặc dù thời gian không phải là dài nhưng cũng đủ để đánh giá những tác động ban đầu của việc tham gia ASC lên chính sách đối ngoại của Việt Nam. Việc tham gia ASC đem lại lợi ích hay thách thức gì cho Việt Nam? Với tư cách là một phần của ASC, chính sách đối ngoại của Việt Nam có những thay đổi như thế nào? [5] 1. Cộng đồng an ninh ASEAN là gì? Cộng đồng an ninh ASEAN là một trong 3 trụ cột để xây dựng Cộng đồng ASEAN với tầm nhìn ASEAN đến năm 2020. Khái niệm cộng đồng an ninh ASEAN được nêu ra tại Tuyên bố Hoà hợp ASEAN II (Hay còn gọi là Tuyên bố Bali II) năm 2003. Một năm sau, các nhà lãnh đạo ASEAN đã thông qua Lộ trình hành động của ASC nằm trong Chương trình hành động Vientiane nhằm hiện thực hóa Cộng đồng an ninh ASESAN. Năm 2007, ASEAN đã quyết định đẩy nhanh quá trình thành lập ASC sớm 5 năm (năm 2015 so với mục tiêu ban đầu là 2020). 1.1. Mục đích, nguyên nhân thành lập ASC Theo Mục 1, Tuyên bố hòa hợp ASEAN II, thì mục đích của việc thành lập ASC là rất rõ ràng: ASC được thành lập nhằm đưa việc hợp tác chính trị và an ninh giữa các nước ASEAN lên một tầm cao mới và đảm bảo rằng các quốc gia trong khu vực chung sống hòa bình với nhau và với các quốc gia khác trên thế giới trong một môi trường chính nghĩa, dân chủ và hòa thuận. Các thành viên của ASC chỉ nên sử dụng các biện pháp hòa bình để giải quyết các tranh chấp trong khu vưc và xem an ninh của nước mình có liên kết với an ninh của thành viên khác bởi mối liên kết địa lí và việc chia sẻ tầm nhìn và mục đích chung. Như vậy, có 2 mục đích chính của việc thành lập ASC là (1) xây dựng một khu vực Đông Nam Á hòa bình và phát triển (2) tăng cường mối liên kết giữa các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là mối liên kết về an ninh . Nguyên nhân khiến cho các nước ASEAN phải thúc đẩy thành lập ASC là vì vào đầu thế kì 21, khu vực Đông Nam Á phải đối phó với một loạt các yếu tố mới nảy sinh trong khi các cơ chế hợp tác an ninh khác trong khu vực như Diễn đàn an ninh khu vực (ARF), các cơ chế hợp tác an ninh song phương chưa thể hiện tính hiệu quả. Các yếu tố mới đó là: [6] Thứ nhất là mối liên kết giữa các quốc gia trong khu vực có nguy cơ bị phá vỡ do chịu ảnh hưởng của việc điều chỉnh chiến lược của các nước lớn với khu vực sau Chiến tranh lạnh và đặc biệt là sau sự kiện 11/9. Để thực hiện cuộc chiến chống khủng bố, từ sau năm 2001, Mĩ liên tục tập hợp lực lượng trong cuộc chiến chống khủng bố của họ (mà thực chất là thực hiện mục đích bá quyền nước lớn) và các nước Đông Nam Á cũng là những mục tiêu để Mỹ lôi kéo vì nhiều nước trong khu vực đã hoặc đang là đồng minh quân sự của Mĩ như Indonesia, Singapore, Thái Lan hay Philippines và chính các nước này cũng phải đối phó với nguy cơ khủng bố trong nước mình. Xác định khu vực Đông Nam Á là khu vực có vị trí địa chính trị cực kì quan trọng, những năm đầu thế kỉ 21, Trung Quốc cũng liên tục gia tăng ảnh hưởng lên các nước ASEAN với những hành động như: Năm 2003, dồn dập Trung Quốc nâng cấp quan hệ Đối tác chiến lược với ASEAN, tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác của ASEAN, đồng thời thể hiện vai trò chủ đạo trong việc đẩy mạnh hợp tác Đông Á. Năm 2004, Trung Quốc đã nâng cao vai trò của mình trong Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) bằng việc thúc đẩy lập Hội thảo Chính sách An ninh ARF dành cho các quan chức quốc phòng. …1 Các nước lớn khác như Nhật Bản, Nga hay EU cũng đều muốn lôi kéo các nước ASEAN vào vòng ảnh hưởng của họ. Nhật Bản có chính sách “hướng về châu Á” mà trọng tâm là khu vực Đông Nam Á. Nhật Bản gia tăng ảnh hưởng của họ chủ yếu bằng hình thức kinh tế với việc thúc đẩy hợp tác kinh tế- thương mại, tăng cường cung cấp ODA cho các nước trong khu vực. EU có chính sách “châu Á mới” nhằm tăng sự hiện diện tại khu vực châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng, Nga cũng muốn trở lại sau khi mất ảnh hưởng vào thời kì đầu sau khi kết thúc Chiến tranh lạnh. Thứ hai, ngay trong khu vực Đông Nam Á vẫn tồn tại những yếu tố gây bất ổn như mâu thuẫn về biên giới, lãnh thổ giữa các quốc gia (đặc biệt là mâu thuẫn ở khu 1 Ths. Luận Thuỳ Dương, “Hướng tới cộng đồng an ninh ASEAN: Triển vọng cộng đồng và vai trò của Việt Nam”, Tham luận tại Hội thảo quốc tế “Cộng đồng ASEAN trong bối cảnh mới”, 8/2007 [7] vực biển Đông), tình hình bất ổn ở một số nước như Thái Lan, Campuchia, Indonesia… Thứ ba là nguy cơ của các mối đe dọa an ninh phi truyền thống như các vấn đề như nạn khủng bố, tình trạng buôn lậu vũ khí, ma tuý, phụ nữ và trẻ em; đại dịch bệnh SARs, cúm gia cầm… đã khiến các nước ASEAN nhận thấy, cần phối hợp hành động vì đây là những vấn đề xuyên quốc gia và chỉ có thể giải quyết bằng các giải pháp khu vực. 2 1.2. Tính chất: Tính chất quan trọng nhất của ASC là cơ chế này có tính chất hợp tác an ninh toàn diện. Hợp tác an ninh trong khuôn khổ ASC không dừng lại ở lĩnh vực quân sự, chính trị như những cơ chế hợp tác an ninh khác trên thế giới mà trải rộng ở cả lĩnh vực kinh tế, văn hóa-xã hội. Kế hoạch hành động của ASC bao gồm 5 lĩnh vực hoạt động chính, bao gồm (i) hợp tác chính trị, (ii) xây dựng và chia sẻ các chuẩn mực ứng xử, (iii) ngăn ngừa xung đột, (iv) giải quyết xung đột, và (v) kiến tạo hòa bình sau xung đột. Cả năm lĩnh vực này không chỉ thuần túy mang tính chất chính trị - an ninh mà còn có cả các yếu tố kinh tế, văn hóa. Việc ASC có tính an ninh toàn diện là cần thiết nhằm đối phó với các nguy cơ an ninh phi truyền thống mà sẽ có tác động mạnh mẽ lên an ninh của các nước thành viên nói riêng và của cả khu vực nói chung, đồng thời cũng làm giảm bớt tính an ninh của ASC, qua đó giảm sự nghi ngại của các nước lớn. Thứ hai là tính phi quân sự của ASC. ASC được khẳng định “không phải một khối phòng thủ, một liên minh quân sự hay một chính sách đối ngoại chung”. Mục đích chính của ASC là vì hòa bình, phát triển và thịnh vượng trong khu vực Đông Nam Á và cả châu Á – Thái Bình Dương chứ không phải liên kết quân sự nhằm mục đích phòng thủ. Điều này giúp tránh các nước lớn nghi ngờ về việc các nước ASEAN có thể sử dụng ASC như một hiệp ước an ninh tập thể nhằm mục đích chống lại một nước lớn nào đó. Đây là điều hết sức cần thiết vì việc tránh sự chú ý của các nước lớn vào khu vực là cách tốt nhất để hạn chế sự can thiệp của họ. Nhất là khi khu vực Đông 2 Nguyễn Thu Mỹ, “Cộng đồng an ninh ASEAN từ ý tưởng đến hiện thực”, Tạp chí Cộng Sản điện tử, http://203.162.0.19:8080/show_content.pl?topic=5&ID=4086 [8] Nam Á là một khu vực có vị trí địa-chính trị chiến lược và tất cả các nước lớn đều có những lợi ích không nhỏ tại đây. Thứ ba, ASC không xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ của các quốc gia thành viên. Đây là nguyên tắc cơ bản, không chỉ có ở ASC mà là của tất cả các hoạt động của ASEAN. Mục 2, phần A, Tuyên bố hòa hợp ASEAN khẳng định: “ASC ghi nhận chủ quyền của các quốc gia thành viên nhằm theo đuổi chính sách đối ngoại và sự sắp xếp phòng thủ riêng”. Với điều này, ASC đã bảo đảm tính đa dạng trong thống nhất của các thành viên ASEAN. Trong phạm vi lãnh thổ của mình, các quốc gia có hoàn toàn chủ quyền về việc hoạch định chính sách an ninh – đối ngoại. Điều này vừa trấn an các nước khu vực vừa đảm bảo sự các nước lớn không mất quyền lợi trong khu vực khi vẫn có thể có thể có những thỏa thuận riêng về hợp tác an ninh – chính trị với từng nước. Thứ tư, ASC không có tính bắt buộc. ASC không có mục đích hòa nhập chính sách an ninh của các nước thành viên mà chỉ yêu cầu các nước thành viên liên kết an ninh của nước mình với an ninh của cả khu vực. Các công cụ chính của ASC là ZOPFAN, SEANWFZ, TAC, DAC I và DAC II đều là những chuẩn mực không có tính ràng buộc mà chủ yếu có tính kêu gọi. 1.3. Nhận xét Qua các phân tích về mục đích thành lập và tính chất của ASC cho thấy, ASC thực sự là một cộng đồng an ninh có tính chất toàn diện. (1) ASC đã tính toán được cả lợi ích của các nước trong khu vực và các nước lớn khi không làm mất đi chủ quyền của các quốc gia thành viên đồng thời không khiến lợi ích của các nước lớn bị ảnh hưởng. Thậm chí, với việc thành lập cộng đồng ASEAN, các nước lớn có thể yên tâm về việc an ninh ở Đông Nam Á sẽ được đảm bảo và chuyển hướng chú ý về an ninh sang các khu vực chiến lược khác của họ trên thế giới. (2). Mục đích chính của ASC là vì một Đông Nam Á hòa bình, phát triển nên yếu tố hợp tác an ninh toàn diện được đặt lên hàng đầu. Có thể thấy rõ là mặc dù là cộng đồng an ninh nhưng ASC không đặt nặng vấn đề hợp tác quân sự mà tập trung vào hợp tác chống lại các nguy cơ an ninh phi truyền thống, trong đó có cả an ninh kinh tế, văn hóa – xã hội. Các nước ASEAN đều hiểu rằng, trong thời đại ngày nay thì không thể tách rời các yếu tố văn [9] hóa – xã hội, kinh tế khỏi an ninh và chỉ có việc hợp tác cùng nhau phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội thì các nước ASEAN mới có thể đảm bảo an ninh nước mình được. Tuy nhiên, ASC vẫn còn rất nhiều điểm hạn chế mà lớn nhất là do tính không ràng buộc. Vì đặc điểm này, khả năng đưa ASC trở thành một cơ chế hữu hiệu nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến an ninh, xung đột trong khu vực là không cao. Ngoài ra, do ASC nhấn mạnh việc “liên kết an ninh” và tôn trọng độc lập chủ quyền quốc gia nên ASC không phải là một cơ chế giúp các quốc gia giải quyết xung đột trong nước hay xung đột với một nước khác ngoài khu vực mà chỉ nhằm đảm bảo hòa bình, ổn định trong khu vực. Do đó, các nước ASC không thể trông đợi vào ASC như một công cụ để giải quyết các mâu thuẫn ngay trọng nội bộ nước mình hay một nước khác. 2. Lợi ích với an ninh quốc gia và thách thức khi Việt Nam tham gia vào ASC 2.1. Lợi ích Có thể thấy mục đích, tính chất của ASC tương đối phù hợp với chính sách đối ngoại của Việt Nam. Đó là các điểm đồng nhất về quan điểm an ninh toàn diện đã được Việt Nam khẳng định tại phương châm chỉ đạo của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là “xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại”3; chính sách “hoà bình, hợp tác và phát triển”, “nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình”4. Hơn nữa, do tính phi quân sự và tính tôn trọng độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ các nước thành viên của ASC, Việt Nam có thể yên tâm tham gia các hoạt động của Cộng đồng này mà không lo sợ chủ quyền của mình bị xâm phạm hay khiến cho các nước lớn nghi ngại về việc Việt Nam gia nhập một liên minh quân sự. Những điểm tương đồng như vậy là cơ sở cho lợi ích mà Việt Nam được hưởng khi tham gia 3 Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Nxb CTQG, H. 2003 4 Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần X [10]
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.