Tiểu luận nhóm 8:Cạn Kiệt Nguồn Nước

pdf
Số trang Tiểu luận nhóm 8:Cạn Kiệt Nguồn Nước 19 Cỡ tệp Tiểu luận nhóm 8:Cạn Kiệt Nguồn Nước 345 KB Lượt tải Tiểu luận nhóm 8:Cạn Kiệt Nguồn Nước 2 Lượt đọc Tiểu luận nhóm 8:Cạn Kiệt Nguồn Nước 56
Đánh giá Tiểu luận nhóm 8:Cạn Kiệt Nguồn Nước
4 ( 3 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 19 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO TIỂU LUẬN CÁC VẤN ĐỀ TOÀN CẦU Chủ đề: Cạn Kiệt Nguồn Nước Nhóm thực hiện 8: 1. Hoàng Thanh Phương 2. Nguyễn Tuấn Phương 3. Nguyễn Thanh Trọng 4. Lý Láo Tả Hà Nội, ngày 23 tháng 02 năm 2009 Mục Lục Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8 Lời mở đầu ………………………………………………………………....3 I/ Thực Trạng Của Việc Cạn Kiệt Nguồn Nước………………………….4 II/ Nguyên Nhân Của Việc Cạn Kiệt Nước……………………………….7 1. Nguyên nhân “nhân tạo”……………………………………………….7 2. Nguyên nhân “tự nhiên”……………………………………………….10 III/ Tác Động Của Vấn Đề Trong Quan Hệ Quốc Tế …………………....10 1. Nhân tố liên quan đến vấn đề an ninh tài nguyên nước………………..11 2. Ảnh hưởng của vấn đề với cấp quốc gia……………………………….12 3. Ảnh hưởng của vấn đề trên phạm vi quốc tế…………………………...12 IV/ Hướng Giải Quyết …………………………………………………….14 1. Áp dụng các biện pháp kĩ thuật và quản lý…………………………....14 2. Áp dụng các biện pháp thị trường……………………………………..15 3. Áp dụng các biện pháp hợp tác và thương lượng……………………...15 4. Áp dụng các biện pháp pháp luật ……………………………………...16 5. Áp dụng các biện pháp khác …………………………………………..17 Lời kết ……………………………………………………………………….18 Tài liệu tham khảo ………………………………………………………….19 2 Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8 LỜI MỞ ĐẦU Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu của thế giới đương đại. Cùng với sự phát triển ngày càng lớn mạnh của trang thiết bị khoa học kỹ thuật, nhân loại dường như đang đứng trước những thách thức mới, điều này giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về vấn đề toàn cầu hóa. Phạm vi vấn đề toàn cầu hóa rất rộng lớn, trong bài tiểu luận này chúng tôi xin đề cập đến một trong những vấn đề mà đang được nhiều chuyên gia, các nhà quan hệ quốc tế quan tâm trong giai đoạn đầu của thế kỷ XXI này: Cạn kiệt tài nguyên nước. Nước, thứ tài nguyên thiên nhiên vốn được coi là một tặng vật của thiên nhiên, là “cái lộc trời ban” không bao giờ cạn kiệt.Người ta đã nhầm khi quan niệm như vậy khi mà thứ “vàng xanh” này đang ngày một cạn kiệt dần đi. Trong thời đại toàn cầu hóa, cạn kiệt nguồn nước là vấn đề đáng báo động không chỉ ở quốc gia phát triển mà còn ở cả quốc gia đang phát triển, những nước giàu cũng như những nước nghèo. Điều này chứng tỏ đây là vấn đề toàn cầu trong thời đại ngày nay, để làm được điều này cần sự nỗ lực chung của toàn thể các quốc gia trên thế giới, vì một thế giới tươi đẹp hơn. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, trong khuôn khổ bài tiểu luận này chúng tôi sẽ giải thích tại sao cạn kiệt nguồn nước lại là vấn đề toàn cầu Bài tiểu luận này gồm những nội dung như: nguyên nhân của vấn đề, thực trạng của vấn đề này ra sao, nó ảnh hưởng như nào đến quan hệ quốc tế, đồng thời cũng đưa ra một số hướng giải quyết. I/ THỰC TRẠNG CỦA VIỆC CẠN KIỆT NGUỒN NƯỚC ( sinh viên thực hiện : Nguyễn Tuấn Phương ) 3 Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8 Hiện nay, sự thiếu hụt nguồn nước đang là vấn đề nghiêm trọng mang tính toàn cầu, nhưng quan trọng hơn là mang tính khu vực và quốc gia. Uỷ ban tài nguyên thiên nhiên của Liên hợp quốc cho rằng 40% dân số thế giới hiện nay và khoảng 80 nước đang đứng trước vấn đề thiếu nước nghiêm trọng. Các chuyên gia hữu quan đánh giá rằng đến năm 2025 sẽ có khoảng 2/3 dân số thế giới sống trong điều kiện căng thẳng do thiếu nước. Trung Đông và Bắc Phi là những khu vực thiếu nước nghiêm trọng nhất. Theo dự tính, 6 nước Trung Phi và 5 nước Bắc Phi là những quốc gia thiếu nước nghiêm trọng. Quốc tế lấy 1000m3 bình quân theo đầu người 1 năm làm “tuyến cảnh báo”. Hai phần ba của lục địa Phi châu, chín phần mười của lục địa Úc châu, hai phần ba lục địa Á châu và hai phần ba của lục địa Mỹ châu; các nguồn nước ngọt đã dần dần cạn kiệt. Nhiều nơi trên thế giới trong những thập niên qua đã chứng kiến cảnh sa mạc hóa đất đai nơi mà họ đã canh tác từ hằng nhiều thế kỷ qua. Trên thực tế, lượng nước bình quân theo đầu người của nhiều nước thấp hơn nhiều so với “tuyến cảnh báo”. Năm 1990, trong số 18 quốc gia Trung Đông và Bắc phi chỉ có 7 nước có lượng nước bình quân theo đầu người từ 100m3 trở lên, đến năm 2005, lượng nước bình quân của khu vực này thấp hơn 670m3. Lượng nước bình quân theo đầu người của các quốc gia như Angiêri, Burrundi, Tandania,...chỉ trong khoảng:600-700m3,các nước Ixraen, Tuynidi…khoảng 400-500m3,các nước Xyri, Ả Rập Xê Út, Gioócđani, Yemen chỉ có khoảng 100200m3. Châu Á vốn là khu vực có tài nguyên nước phong phú nhưng do sự tăng trưởng dân số và sự phát triển của kinh tế nên châu Á cũng sẽ trở thành châu lục thiếu nước nghiêm trọng. Báo cáo nghiên cứu của 1 số chuyên gia quốc tế về tài nguyên nước chỉ ra rằng, đến thế kỷ XXI, phần lớn các nước ở khu vực Châu Á sẽ phải đứng trước nguy cơ thiếu nước trầm trọng. Bắc Kinh gần đây cũng đã lo ngại rất nhiều cho các vùng đất đã sa mạc hóa của họ, tạo thành những cơn bão quét qua thành phố Bắc Kinh. Theo thống kê của Trung quốc, trong năm l950 chỉ có 5 trận bão cát thổi qua thành phố, nhưng đến năm 2000 thì con số đó đã lên đến 13 cơn bão! Nhiều vùng đất ở miền tây bắc Trung quốc đã sa mạc hóa rất nhanh, tạo ra sự khan hiếm nước ngọt rất trầm trọng. Sông Hoàng Hà, một trong hai con sông huyết mạch lớn ở Trung quốc, có đoạn hàng năm đã khô cạn đến ngàn cây số. Con sông này dài trên 3,400 dặm, và là cái nôi của Trung quốc. Sông nhiều đoạn đã bị khô hạn, bùn ở lòng sông bồi lên khi con nước cạn đi. Đến mùa nước lũ nước sông lại dâng lên rất mau làm vỡ cả đê điều, nước tràn ra hai ven sông làm ngập lụt những vùng dọc theo ven sông gây thiệt hại về mùa màng cùng nhân mạng khá lớn. Tình trạng hạn hán thường xuyên biến các dòng sông khô cạn trong đó dòng sông Hoàng Hà có nguy cơ khô cạn mau nhất. Từ năm cây số đến cửa khẩu của dòng sông này đã bắt đầu khô cạn trong những tháng mùa hè (theo bản tường trình gần đây nhất của ký giả Richard Hayes của dài BBC ở Bắc kinh) 4 Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8 Thế giới chúng ta đang sống chỉ có 3% nước ngọt, còn lại 97% là nước mặn không thể dùng để uống hay canh tác được, mặc dầu gần đây đã có những quốc gia tiến bộ đã dùng nước biển chế tạo ra nước ngọt như Hoa Kỳ hoặc Do Thái, song giá thành của nước ngọt còn quá đắt và lại rất giới hạn. Trong số 3% nước chúng ta có trên địa cầu, thì đã có đến 68.7% là nước đá dưới dạng đóng băng, 30.1% nước nằm trong lòng đất, 0.9% nước đá trong lòng đất, và phần còn lại là 0.3% là nguồn nước sông hồ và đầm lầy. Trên một vài phần đất trên thế giới, nhu cầu nước ngọt đã vượt quá giới hạn cung cấp. Lý do rất dễ hiểu là vì một số lớn các cư dân đó đã ở vào những vùng đất khô hạn định kỳ hoặc thường xuyên. Theo thống kê của Viện nghiên cứu môi sinh Stockholm (The Stockholm Environment Institute) gần đây cho biết rằng một số rất lớn nhân loại đã ở vào những vùng đất khô hạn thiếu nước thường xuyên, và nhu cầu dùng nước hằng ngày đã cao gấp đôi hơn sự tăng trưởng nhân số. Những giếng nước đào thật sâu vào lòng đất cùng những hồ chứa nước có thể cung cấp nước cho nhân loại một cách tạm thời, song số lượng nước mưa và số lượng nước nằm trong lòng đất vẫn không thay đổi. Các chuyên viên khí tượng tiên đoán rằng trong vòng 25 năm tới, số lượng nước mà mỗi người trên thế giới đang dùng sẽ phải cắt đi một nửa. Trong khi đó một số nước trên thế giới đã làm ô nhiễm nguồn nước địa phương của mình trầm trọng, như ở Phần Lan chỉ có 5% nguồn nước sông rạch còn có thể dùng để uống, 75% bị ô nhiễm nặng cho dù để dùng cho kĩ nghệ cũng không được. Nhà máy cung cấp nước cho đô thị Mễ tây cơ, lớn đứng hàng thứ nhì trên thế giới, nguồn nước uống cung cấp gần 80% cho thị dân ở đây đã tụt xuống một cách đáng ngại. Bắc Kinh, thủ đô của Trung quốc cũng đang gặp phải nạn thiếu nước như trên. Lượng nước dùng đang trên đà tụt xuống 3 feet mỗi năm, và 1/3 các giếng nước cung cấp cho thành phố hầu như đã khô cạn. Hàm lượng nước vĩ đại Ogallala của Hoa Kỳ cũng đã dùng gần hết cho việc canh tác nông sản ở các miền Tây Bắc tiểu bang Texas, hiện đang co rút lại đến 1/3 vì thiếu nước để canh tác. Hai nước lớn là Trung Hoa và Ấn độ, đứng hạng nhì và ba trên đà sản xuất nông phẩm cũng đã khựng lại đối đầu với tình trạng thiếu nước ngày càng trầm trọng. Tình trạng càng bi đát hơn vì các giòng sông lớn như sông Hằng (Ganges) bên Ấn độ đã không còn chảy ra đến biển vì dòng sông đã đổi chiều chảy, cũng giống như giòng sông Colorado ở Bắc Mỹ vậy. Cơ thể chúng ta rất cần nước sạch để đem các chất thải ra ngoài, thế nhưng lại không có đủ nước sạch để sử dụng. Con số người trên địa cầu hiện nay không có đầy đủ nước sạch để sử dụng đã gia tăng từ 2.6 tỉ người vào năm 1990 lên đến 2.9 tỉ người vào năm 1997 và từ đó đến nay chỉ có tăng. Con số đó chiếm 5 Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8 gần nửa dân số trên địa cầu, và điều kiện vệ sinh của nước là cả một vấn đề sinh tử. Để sản xuất thực phẩm cũng phải tùy thuộc vào nước. Để tưới cho hoa màu cây trái dĩ nhiên chúng ta cũng cần đến nước và nước mưa. Những thời gian gần đây “dẫn thủy nhập điền” trở thành một phương tiện chính để có thể cung cấp thực phẩm cho nhân số hoàn cầu càng ngày càng gia tăng. Ngày nay 36% mùa màng trên toàn thế giới đều dựa vào phương tiện “dẫn thủy nhập điền”. Tổng số các vùng đất canh tác hoa màu trên thế giới nhờ vào phương tiện dẫn thủy đó đã lên đến tột đỉnh khoảng hai mươi năm về trước, và bây giờ thì đang tụt xuống một cách từ từ. Nếu ta phải dùng rất nhiều nước để dội cầu cho mạnh, cho bồn rửa mặt và cho bồn tắm thật sạch, thật khó mà tin rằng thế giới chúng ta đang sống đã không cung cấp đủ nước cho chúng ta xài. Nên nhớ rằng đó là chỉ mới có là 20% những người hưởng thụ được những phương tiện xa xỉ trên mà thôi. Tại lục địa Phi châu hầu hết đàn bà phải mất mỗi ngày ít nhất là 6 tiếng đồng hồ để đi kiếm nước đặng dùng và thường thường thì họ chỉ tìm được nước dơ bẩn và ô nhiễm mà thôi. Dĩ nhiên là những người đàn bà đó hiểu thế nào là nước sạch, nhưng họ phải đối diện một thực tế phủ phàng rằng càng ngày nguồn nước càng cạn kiệt! Thế giới với kĩ thuật hiện đại có thể giải quyết vấn nạn này được không? Nước đã đi dâu hết ? Trong khi đó thì nhu cầu đòi hỏi nước càng ngày càng gia tăng. Khu vực Nam Á, hạn hán ngày càng trầm trọng, do khai thác nước ngầm bừa bãi nên tài nguyên nước ngầm của các nước Ấn Độ, Pakixtan, Banglađet…bị khô kiệt. Tổng lượng Tài nguyên nước của Trung Quốc đứng thứ 6 trên thế giới, nhưng lượng nước tính theo bình quân đầu người chỉ có 2400m3, thấp hơn rất nhiều so với lượng nước bình quân đầu người trên Thế giới là 7700m3, chỉ đứng ở vị trí 109 và bị liệt vào 1 trong số các quốc gia thiếu nước trên thế giới. Lượng nước bình quân theo đầu người của 9 tỉnh miền bắc Trung Quốc chưa đến 500m3, thấp hơn tiêu chuẩn lượng nước ngọt thấp nhất thế giới. Diện tích biển nước mặn Aran đã thu nhỏ lại còn không bằng một nửa trước đây. Khu vực Trung Á cũng đang đứng trước vấn đề thiếu nước, 5 quốc gia ven biển đã bắt đầu hành động để bảo vệ nguồn nước của khu vực này. Tài nguyên nước của khu vực Châu Mỹ rất phong phú nhưng do phân bố không đồng đều nên các bang miền Tây và miền Bắc Mêhicô vẫn thiếu nước, thành phố Mêhicô thường xuyên không đủ nước để cung cấp trong thời gian dài, do việc khai thác bừa bãi mạch nước ngầm đã làm cho thành cổ này mỗi năm tụt xuống 17cm. Xét ở góc độ toàn cầu, các khu vực như Trung Đông, Bắc Phi, Trung Á, Nam Á đang ở trong tình trạng thiếu nước nghiêm trọng, tài nguyên nước ngày càng có ảnh hưởng to lớn đến sức khoẻ người dân, với môi trường sinh thái, và sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của những nước này 6 Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8 II/ NGUYÊN NHÂN CẠN KIỆT NGUỒN NƯỚC ( sinh viên thực hiện : Hoàng Thanh Phương ) Sự suy giảm mạnh mẽ về số lượng cũng như chất lượng của nước trên toàn thế giới hiện nay là một thực tế nguy hiểm. Nước là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý hiếm và quan trọng số một. Nguy cơ thiếu nước là một hiểm họa lớn cho sự sinh tồn của con người cũng như toàn bộ sự sống trên Trái Đất. Vậy nguyên nhân nào đã dẫn đến tình trạng cạn kiệt nguồn nước ? Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu 1 ) Nguyên nhân “nhân tạo” Nguyên nhân của thảm cảnh về nước trên thế giới hiện nay có rất nhiều, nhưng chủ yếu vẫn là do sự gia tăng nhanh chóng những hoạt động kinh tế của con người nhằm đáp ứng những nhu cầu sống còn của một số dân tăng quá nhanh. Trong thế kỉ XX, nhu cầu của toàn thế giới về nước đã tăng lên gấp 7 lần và cũng trong thời gian đó dân số tăng lên gấp 3 lần. Từ năm 1975 đến năm 1990 lượng nước dùng trong nông nghiệp toàn cầu tăng 6 lần, trong công nghiệp tăng 21 lần, nước sinh hoạt của thành phố tăng 7,5 lần. Sự gia tăng dân số cùng với sự phát triển kinh tế, kéo theo đó là sự gia tăng về nhu cầu nước sạch cho sinh hoạt và sản xuất khiến cho khả năng đáp ứng của nguồn tài nguyên này giảm dần. Ở Việt Nam hiện nay, mức đảm bảo nước trung bình cho một người trong một năm đã giảm từ 12.800 m3/người vào năm 1990 xuống còn 10.900 m3/người vào năm 2000 và có khả năng chỉ còn khoảng 8.500 m3/người vào khoảng 2020. Việt Nam có tài nguyên tương đối phong phú với tổng lượng dòng chảy của các con sông chiếm khoảng 2% của thế giới, trong khi diện tích đất liền chỉ chiếm khoảng 1,35%. Tuy nhiên, sự gia tăng dân số cùng với sự phát triển kinh tế, kéo theo đó là sự gia tăng về nhu cầu nước sạch cho sinh hoạt và sản xuất khiến cho khả năng đáp ứng của nguồn tài nguyên này giảm dần. Sự tăng trưởng dân số ở các quốc gia đang phát triển nhưng thiếu nước ngày càng nổi bật, vì vậy một số nước đang đứng trước nguy cơ tài nguyên nước không thể nào đáp ứng được yêu cầu của việc tăng dân số Nguồn nước ngọt và sạch là nguồn tài nguyên không thể thay thế. Tuy nhiên nó đang ngày càng bị khan hiếm bởi sự khai thác quá mức, sự tiêu dùng lãng phí và cũng bởi do chúng ta không có biện pháp quản lý tốt tài nguyên này. Để thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của mình, con người đã khai thác, vơ vét tất cả những nguồn tài nguyên thiên nhiên (trong đó có nguồn nước quý giá) để đưa vào sản xuất, bất chấp các quy luật tồn tại của chúng, miễn là thu được lợi nhuận cao nhất, nhanh nhất. Một số công trình thủy lợi do không hợp lý trong thiết kế, 7 Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8 quản lý và sử dụng đã làm cho nước bị rò rỉ cháy thoát ra ngoài, gây ngập tràn lan, lãng phí một lượng nước rất lớn. Ước tính 60% nước dùng trong thủy lợi đã bị thất thoát qua các hệ thống tưới tiêu kém hiệu quả và 50% nước ở các vùng đô thị bị lãng phí do rò rỉ và bốc hơi. Cuộc khủng hoảng nước trên thế giới hiện nay, được nhận định, không chỉ do nước quá ít so với nhu cầu mà còn do quản lý nguồn nước quá kém. Báo cáo của Liên Hợp Quốc còn cho thấy: nguồn nước sạch toàn cầu đang cạn kiệt một cách đáng lo ngại. Hiện nay đã có khoảng 12.000 km3 nước sạch trên thế giới bị ô nhiễm. Hàng năm có hơn 2,2 triệu người chết do các căn bệnh liên quan đến nguồn nước ô nhiễm và điều kiện vệ sinh nghèo nàn. Sự phá hoại môi trường sinh thái cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm tài nguyên nước ngọt của đất liền. Bất chấp những lời cảnh báo, con người vẫn tiếp tục tác động ngày càng nhanh hơn, mạnh hơn lên giới tự nhiên vì lợi ích riêng của mình. Cụ thể là rừng bị tàn phá ở nhiều nơi trên thế giới góp phần vào việc làm xói mòn đất và khan hiếm nước. Hàng năm có khoảng 11 triệu ha rừng bị chặt phá khiến cho đất đai bị thoái hóa, nguồn nước bị phá hủy, khả năng hấp thụ và giữ nước giảm đi, mùa mưa nước tràn ngập, mùa mưa thiếu nước lớn…v.v.. gây thiệt hại nghiêm trọng đến môi trường sống của con người. Nước trong lòng đất mà chúng ta đang dùng là nguồn nước cung cấp bởi các giếng. Ở Việt Nam, tình trạng khoan giếng tràn lan của dân cư là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nhiễm phèn, nhiễm mặn và cạn kiệt nguồn nước nghiêm trọng.Việc đào giếng tạo thành các phễu mực nước ngày càng dày đặc. Có nơi tốc độ hạ thấp phễu mực nước đến 2m/năm gây ra tình trạng tầng nước ngầm thấm nước dơ bẩn nhanh chóng hơn. Hiện nay ở TP HCM, tổng công suất khai thác tầng nước ngầm của thành phố đạt khoảng 520.000 m3/ngày và có thể đạt đến mức 570.000 m3/ngày trong 5 năm nữa. Thế nhưng theo nghiên cứu từ Liên đoàn địa chất thủy văn - địa chất công trình miền Nam thì lượng nước ngầm bổ cập tự nhiên chỉ đạt khoảng chưa tới 200.000 m3/ngày. Điều này có nghĩa trữ lượng nước ngầm không được bổ sung kịp thời và cần phải tăng cường bổ cập nhân tạo bằng nguồn nước mưa, nước sông... . Ở các huyện Đức Trọng, Đơn Dương, Di Linh… nhiều hộ nông dân và một số doanh nghiệp đã tự động khoan giếng lấy nước tưới cho cây trồng, phục vụ chế biến nông sản với khối lượng lớn đang làm cạn kiệt nguồn nước ngầm dẫn tới hiện tượng sạt lở đất kéo dài. Nạn khan hiếm nước chỉ là một mặt của vấn đề về nước hiện nay trên thế giới. Mặt khác của vấn đề này là “chất lượng nước” cũng đang bị suy giảm một cách nghiêm trọng. Ô nhiễm nước theo nhận định của mọi người thì nó là dạng ô nhiễm nguy hiểm nhất, bởi vì toàn bộ sự sống trên Trái Đất gắn liền với nước Ở một số vùng trên thế giới nước đã bị ô nhiễm nặng nề đến mức không thể dùng 8 Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8 được, ngay cả cho nông nghiệp và công nghiệp.. Nguyên nhân là do nước đã sử dụng rồi (nước sinh hoạt và nước thải công nghiệp có nhiều chất độc hại) đã không được xử lý. Các chất độc hại thẩm thấu xuống đất rồi đi vào các mạch nước ngầm mang theo nhiều chất gây ô nhiễm cho nước. Theo báo cáo của “Tổ chức quốc tế cứu trợ trẻ em của Liên hiệp quốc” thì nguồn nước trong đất là nguồn nước nguy hiểm vì không nhìn thấy được và rằng một nửa số nước đó đã dùng cho con người và cho việc canh tác. Cũng vì nước giếng là nước sạch và ít bị ô nhiễm hơn nước trên mặt đất, một số lượng lớn đã dùng cho con người sử dụng để uống, kể cả thành thị lẫn nông thôn. Nước ở các thành phố còn bị ô nhiễm bởi các chất độc hại phân hủy từ các bãi rác thành phố, nước thải từ các bệnh viện, các cơ sở y tế và các khu trại chăn nuôi …v..v.. Người ta ước tính rằng 90% nước đã được sử dụng trong các nước đang phát triển đã không được xử lý mà đổ trực tiếp vào môi trường. Nếu chúng ta dùng một cách có điều độ, nước trong lòng đất sẽ cung cấp đủ cho chúng ta, vì nước mưa sẽ thấm vào lòng đất sau mỗi cơn mưa và tồn trữ lại trong những hồ chứa dưới mặt đất. Nhưng trong nhiều thập niên qua, con người đã lạm dụng bằng cách đặt ống mang nước đến các nơi khác và tiêu dùng nhiều hơn khi thiên nhiên không tái tạo và tuần hoàn kịp. Kết quả là mực nước trong lòng đất càng ngày càng sâu hơn, khó có thể cho ta đào sâu đủ để lấy được nước. Khi mà nước các giếng đã cạn, thì hậu quả về kinh tế và con người khó mà lường trước được mức độ thiệt hại nặng nề. Việc thi công nhiều công trình thủy lợi, thủy điện có dung tích lớn đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển KT-XH , nhưng lại đang làm giảm diện tích rừng tự nhiên và ảnh hưởng lớn đến tài nguyên nước. Đây là nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng sông suối cạn kiệt nước vào mùa khô và ngập úng trên diện rộng vào mùa mưa hàng năm. Việc gia tăng khai thác khoáng sản trên đất dốc cùng phần nào đang làm cho đất ngày càng bị xói mòn, rửa trôi làm bồi lấp sông suối, ao hồ, dẫn đến tài nguyên nước ngày càng mai một. Những hạn chế về mặt tiền vốn, kĩ thuật cũng phần nào dẫn đến tính trạng thiếu thốn nước sạch ở một số nơi. Vì không có đủ vốn, kĩ thuật để khai thác, bảo vệ và cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt nên hơn ¼ dân số toàn thế giới thiếu nước sạch, nước an toàn, khoảng 1,8 tỉ người trong tình trạng không có bảo đảm y tế vệ sinh về nước. 2 ) Nguyên nhân “tự nhiên” Không chỉ kiệt quệ trước nhu cầu tăng lên của con người, nguồn nước còn có thể bị suy giảm do tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, có mùa lượng mưa tập trung tạo thành lũ lụt, có mùa lại hạn hán. Sự nóng lên của khí hậu toàn cầu 9 Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8 cũng là một nguyên nhân làm giảm tài nguyên nước. Khuynh hướng nóng lên của nhiệt độ trên hành tinh kéo dài 15 năm qua đã báo động về mối đe dọa thiếu nước nghiêm trọng, đồng thời cũng kéo theo bệnh tật do vi trùng và côn trùng gây ra đang lan nhanh ở các khu vực trên thế giới. Báo cáo của Liên Hợp Quốc đầu tháng cho thấy, nhiệt độ trái đất nóng lên sẽ làm mất khoảng 1/3 nguồn nước đang sử dụng của thế giới trong 20 năm tới. Ở Việt Nam, mức biến đổi lượng dòng chảy, được xác định, xảy ra mạnh nhất ở Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ. Sự phân bố tài nguyên nước trên toàn cầu hoàn toàn không theo ý muốn của con người, một số quốc gia và khu vực có nguồn tài nguyên nước rất lớn, trong khi một số quốc gia và khu vực khác lại đứng trước nguy cơ thiếu nước trầm trọng. Phần lớn tài nguyên nước lớn lại chảy qua các khu vực không có người hoặc ít người, trong khi ở những khu vực mật độ dân cư đông đúc lại thiếu nước nghiêm trọng. Sự phân bố tài nguyên nước không đồng đều không những gây lãng phí nước mà còn làm cho các quốc gia và các khu vực dễ xảy ra tranh chấp và mâu thuẫn. III/ TÁC ĐỘNG CỦA VẤN ĐỀ TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ ( sinh viên thực hiện : Nguyễn Thanh Trọng) Như trên đã trình bày thì đây là một vấn đề có tính toàn cầu bởi nó đang ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của mỗi cá nhân cũng như toàn thể các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Tài nguyên nước ngày càng thiếu thốn, chất lượng nước ngày càng xấu đi, vai trò của nó đối với an ninh quốc gia và an ninh quốc tế ngày càng rõ nét, vì vậy, người ta cũng dự tính rằng nước cũng giống như những tài nguyên chiến lược khác như dầu lửa, năng lượng,… sẽ dẫn đến những mâu thuẫn và tranh chấp giữa các quốc gia. Tại diễn đàn Thế giới lần thứ 3 về nước họp ở Kyoto( Nhật Bản) tháng 32003, các đại biểu đã cảnh báo nguy cơ nước sẽ trở thành nguyên nhân của những xung đột sắp tới, khi mà trạng thái thiếu nước ngọt và sạch ngày càng tiếp tục gia tăng. Liên hợp quốc cũng thừa nhận hiện nay trên thế giới đã và đang xảy ra xung đột dữ dội về nước trong gần 300 khu vực. Sự suy giảm một cách nhanh chóng cả về mặt số lượng cũng như về mặt chất lượng cuả nước dẫn đến những cuộc khủng hoảng về nước trên quy mô toàn cầu. 1. Nhân tố liên quan vấn đề an ninh tài nguyên nước Có thể nói rằng tình trạng thiếu hụt nước ở mỗi quốc gia, mỗi khu vực là khác nhau do lượng nước phân bổ không đồng đều nhau, do đó phạm vi ảnh 10
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.