Tiểu luận:Chính sách ngoại giao Việt Nam- Trung Quốc năm 1979

pdf
Số trang Tiểu luận:Chính sách ngoại giao Việt Nam- Trung Quốc năm 1979 19 Cỡ tệp Tiểu luận:Chính sách ngoại giao Việt Nam- Trung Quốc năm 1979 355 KB Lượt tải Tiểu luận:Chính sách ngoại giao Việt Nam- Trung Quốc năm 1979 2 Lượt đọc Tiểu luận:Chính sách ngoại giao Việt Nam- Trung Quốc năm 1979 78
Đánh giá Tiểu luận:Chính sách ngoại giao Việt Nam- Trung Quốc năm 1979
4.3 ( 16 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 19 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Tiểu luận Chính sách ngoại giao Việt Nam- Trung Quốc năm 1979 MỤC LỤC TÓM TẮT ......................................................................................................................................... 3 [1] LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 4 1. Nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến Việt Nam – Trung Quốc 1979 ................................................ 5 2. Chính sách của Trung Quốc và Việt Nam trong cuộc chiến. ......................................................... 10 3. Hệ quả của cuộc chiến. ................................................................................................................ 14 KẾT LUẬN..................................................................................................................................... 17 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................... 18 Bảng chấm điểm các thành viên ....................................................................................................... 19 [2] TÓM TẮT Bài viết thể hiện quan điểm của nhóm làm bài về cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979 qua góc độ lợi ích. Trong phạm vi giới hạn của bài viết, chúng tôi trình bày cuộc chiến theo phạm trù lợi ích của các bên khi tham gia vào cuộc chiến tranh, giới hạn ở lợi ích của hai nước trực tiếp tham chiến là Việt Nam và Trung Quốc. Một là nguyên nhân của cuộc chiến tranh dưới góc độ va chạm lợi ích. Qua phân tích, bài viết cho thấy, với việc có cả 3 lợi ích an ninh, phát triển, ảnh hưởng nên Trung Quốc đã tiến hành cuộc chiến năm 1979. Trong khi đó, với việc thực hiện chính sách đối ngoại chưa đúng đắn, đặt lợi ích ảnh hưởng và an ninh lên trên phát triển nên Việt Nam đã lâm vào thế đối đầu với Trung Quốc. Hai là chính sách mà các bên thực hiện để đạt được lợi ích của mình. Về mặt chính sách, chúng tôi giới hạn theo hai vấn đề: Việc Trung Quốc chỉ tấn công sau 16 ngày rồi rút quân và việc Việt Nam lúng túng, bị động trong việc ứng phó với cuộc chiến. Cuối cùng là hệ quả của cuộc chiến với hai phía Việt Nam và Trung Quốc. Theo đó, phía Việt Nam phải chịu một loạt các hậu quả nghiêm trọng về mặt kinh tế-xã hội còn phía Trung Quốc mặc dù phải chịu tổn thất về mặt lực lượng quân sự nhưng cũng qua đó trở thành cú hích để họ bắt đầu cuộc hiện đại hóa quân đội. [3] LỜI MỞ ĐẦU Với bất cứ một cuộc chiến tranh nào thì nguyên nhân dẫn đến chiến tranh đều là vấn đề gây bàn cãi nhiều nhất. Thường thì nguyên nhân dẫn đến chiến tranh bao gồm một loạt các nguyên nhân khác nhau nhưng tổng hợp lại thì cũng chỉ có một nguyên nhân chủ yếu là va chạm về mặt lợi ích. Lợi ích ở đây bao gồm lợi ích của hai bên trực tiếp tham chiến là Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, do giới hạn độ dài của bài viết nên chung tôi tập trung xung quanh các câu hỏi liên quan đến lợi ích của hai bên Việt Nam và Trung Quốc. Va chạm về mặt lợi ích khiến cho cuộc chiến tranh Việt Nam – Trung Quốc xảy ra như thế nào? Yếu tố lợi ích tác động đến việc Trung Quốc tấn công rồi tự rút quân và phản ứng của Việt Nam ra sao với cuộc chiến này.? Cuối cùng là hệ quả của cuộc chiến trong cuộc chiến này như thế nào? [4] 1. Nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến Việt Nam – Trung Quốc 1979 Giống như tất cả các quốc gia khác, lợi ích chủ yếu của Việt Nam và Trung Quốc cũng gồm ba mặt chính là phát triển, an ninh và ảnh hưởng.1 Từ khi hai nước cộng sản này thành lập, những lợi ích của họ được che giấu sau cụm từ “ý thức hệ” hay “tinh thần quốc tế vô sản”. Sau khi chiến tranh chống Pháp và Mĩ kết thúc, những khác biệt về lợi ích dần xuất hiện và đỉnh cao của va chạm lợi ích là cuộc chiến giữa hai nước tháng 2 năm 1979. Thứ nhất là lợi ích về mặt ảnh hưởng. Trong bất kì một thời kì lịch sử nào thì Trung Quốc cũng muốn mở rộng tầm ảnh hưởng tại khu vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Có thể thấy rõ tầm quan trọng của Việt Nam với Trung Quốc khi nhìn vào vị trí địa-chính trị của Việt Nam giống như một “chiếc cầu nối bằng đất” từ Trung Quốc với khu vực Đông Nam Á rộng lớn, đông dân và giàu tài nguyên thiên nhiên. Bản thân Việt Nam cũng là một nước giàu tài nguyên thiên nhiên, có vị trí địa lí thuận lợi khi nằm ở trung tâm Đông Nam Á, kiểm soát nhiều tuyến đường biển chiến lược từ Tây sang Đông…. Như vậy, có thể thấy, va chạm lợi ích căn bản giữa Việt Nam và Trung Quốc trong bất kì một thời kì nào thì đều là giữa bá quyền và chống bá quyền. Cuộc đấu tranh này diễn ra theo hai hướng. Trung Quốc mở rộng bá quyền xuống Đông Nam Á, Việt Nam chống lại và ngược lại. Cho đến thế kỉ 20, khi mà hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã trở thành đồng minh trong khối Cộng sản thì cuộc đấu tranh giữa bá quyền và chống bá quyền vẫn tiếp tục. Mặc dù là một nước cộng sản và luôn tuyên bố là thực hiện theo “tinh thần quốc tế vô sản” khi giúp đỡ Việt Nam đánh Pháp và Mĩ nhưng đó chỉ là cái cớ để Trung Quốc che đậy tham vọng bá quyền của họ tại khu vực Đông Nam Á giống như các triều đại phong kiến trước đây. Họ đã từng ngăn cản việc Việt Nam thống nhất sau hiệp định Geneve năm 1954 và từng không đồng ý với việc Việt Nam thắng Mĩ quá nhanh năm 1975. Lợi ích của Trung Quốc là Việt Nam đủ mạnh để đánh lâu dài với 1 Vũ Khoan, “An ninh, phát triển và ảnh hưởng trong hoạt động đối ngoại”, tạp chí Nghiên cứu quốc tế tháng 12/1993. [5] Pháp, Mĩ nhằm lôi kéo Việt Nam vào cuộc tranh giảnh ảnh hưởng với Liên Xô, nhưng không thống nhất để trở thành một thách thức với Trung Quốc. Sau khi kí kết hiệp định Paris, TQ không thể sử dụng vấn đề Việt Nam phục vụ cho chiến lược của mình, và vấn đề Việt Nam cũng không còn có ý nghĩa gì đối với lợi ích chiến lược của Trung Quốc. Lợi ích của hai nước không còn trùng hợp như trước, hơn nữa lại còn hoàn toàn đối lập nhau trong thái độ đối với Liên Xô nên chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam nhanh chóng thay đổi: từ hữu nghị, ủng hộ sang kiềm chế cả làm suy yếu ảnh hưởng của Việt Nam2 Đặc biệt khi Việt Nam kí hiệp ước Hợp tác hữu nghị đặc biệt, toàn diện với Lào năm 1977 và đưa quân vào Campuchia năm 1978 thì tham vọng bá quyền của rung Quốc trong khu vực Đông Nam Á bị ảnh hưởng lớn. Trung Quốc muốn sử dụng Khmer Đỏ như một con bài để đưa ảnh hưởng của họ vào khu vực Đông Nam Á. Khi Việt Nam lật đổ chế độ do Trung Quốc xây dựng nên, Trung Quốc lo ngại rằng Việt Nam cũng muốn trở thành một bá quyền trong khu vực, cạnh tranh trực tiếp với Trung Quốc. Như vậy, vì lơi ích ảnh hưởng , Trung Quốc đã tiến hành một cuộc chiến tranh với Việt Nam. Đúng như lời tuyên bố của Đặng Tiểu Bình khi tiến hành cuộc chiến này là nhằm “dạy cho Việt Nam một bài học”, “đánh cho người ta xem”. Bài học mà Trung Quốc muốn dạy cho Việt Nam là bài học về bá quyền: Việt Nam muốn bá quyền ở Đông Nam Á thì phải tính đến vai trò của Trung Quốc. Cuộc chiến tranh đó về thực tế không phải giúp Trung Quốc xâm lược Việt Nam, mở rộng bá quyền một cách trực tiếp. Mục đích của Trung Quốc là khi tấn công Việt Nam ở phía Bắc, lực lượng của Việt Nam phải dàn mỏng ra 2 mặt trận khiến cho Việt Nam không thể dễ dàng chiếm Campuchia khiến cho đồng minh của Trung Quốc bị tiêu diệt và thực hiện bá quyền ở Đông Nam Á. Thêm nữa, một cuộc chiến tranh thì dù ít dù nhiều cũng khiến cho Việt Nam suy yếu, không đủ sức vươn lên như một thế lực ở Đông Nam Á. Nhất là khi Việt Nam mới trải qua 2 cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt và lại đang phải tiến hành một cuộc chiến tranh ở Campuchia. 2 Trần Văn Đào - Phan Doãn Nam, Giáo trình lịch sử quan hệ quốc tế 1945 -1995, trang 301-302 [6] Va chạm thứ hai về mặt lợi ích ảnh hưởng giữa Việt Nam và Trung Quốc là việc Việt Nam ngả theo Liên Xô đã hạn chế khả năng bá quyền của Trung Quốc trong khối XHCN. Sau một thời gian giữ cân bằng Trung – Xô, sau năm 1975, xu hướng ngả về Liên Xô trong giới lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam ngày càng rõ nét. Một vài ví dụ cụ thể là: Trong văn kiện Đại hội Đảng IV, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nêu cao chủ trương đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô như “hòn đá tảng của chính sách đối ngoại”, “là nguyên tắc, là chiến lược” trong đường lối đối ngoại của Việt Nam. 3Hay như Năm 1975, trong chuyến thăm Bắc Kinh, Lê Duẩn thẳng thừng từ chối đưa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào liên minh chống Liên Xô của Trung Quốc, phủ nhận quan niệm của Trung Quốc rằng chủ nghĩa bành trướng của Liên Xô là mối đe dọa đối với các nước cộng sản châu Á. 4 Năm 1978, Việt Nam gia nhập khối COMECON (khối tương trợ kinh tế bao gồm Liên Xô và các nước cộng sản Đông Âu)… Việc Việt Nam ngả về Liên Xô đã khiến Trung Quốc thiếu một đồng minh thân cận ngay bên cạnh, đồng thời còn giúp Liên Xô mở rộng ảnh hưởng xuống khu vực Đông Nam Á sau khi Mĩ rút đi. Cả 2 yếu tố này đều đe dọa một cách nghiêm trọng đến mục đích tập hợp lực lượng nhằm bá quyền trong phạm vi khối XHCN nói riêng và trên toàn thế giới nói chung của Trung Quốc. Xét về mặt lợi ích ảnh hưởng thì còn có một nguyên nhân khác mặc dù không va chạm trực tiếp lợi ích của Việt Nam nhưng lại khiến cho Trung Quốc tiến hành cuộc tranh này. Đó là cùng một lúc Trung Quốc muốn tác động đến 2 đối tượng trong cuộc đấu tranh giành bá quyền của họ là Liên Xô và Mỹ. Lãnh đạo Trung Quốc có câu “đánh cho người ta xem”. “Người ta” ở đây là Liên Xô, Mỹ và các nước phương Tây và ASEAN. Cuộc chiến sẽ là dịp để Trung Quốc thử phản ứng của Liên Xô và Mĩ trước cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam. Trung Quốc muốn thách thức khả năng lãnh đạo khối XHCN của Liên Xô bằng cách xem khả năng trợ giúp quân sự của Liên Xô cho một nước XHCN đồng minh đến đâu khi liên minh quân sự của họ với 3 King C. Chen, China’s border war with Vietnam, 1979, trang 24 4 Nayan Chanda, Brother Enemy. The War after the War, Harcourt Brace Jovanovich,1986 trang 134 [7] Việt Nam mới chính thức được thành lập. Bên cạnh đó, cuộc chiến này cũng là một thông điệp mà Trung Quốc muốn gửi đến Mĩ khi họ vừa mới bình thường hóa cách đó hơn nửa tháng (1/1/1979). Thông điệp mà Trung Quốc muốn gửi đến người Mĩ là: Tranh thủ sự tín nhiệm của Mỹ và các nước đế quốc đối với Trung Quốc, cầu mong các nước đế quốc liên minh chặt chẽ hơn nữa với Trung Quốc, giúp Trung Quốc nhiều hơn để thực hiện kế hoạch bốn hiện đại hóa hòng nhanh chóng ngoi lên địa vị cường quốc siêu đẳng, chống lại Việt Nam, Liên Xô, các trào lưu cách mạng thế giới (đánh giá của Chính phủ trước Quốc hội tháng 5 năm 1979). Chỉ một cuộc chiến thôi mà Trung Quốc nhắm đến cùng một lúc 3 đối tượng trong cuộc đấu tranh giành ảnh hưởng của họ trong khu vực Đông Nam Á, trong khối XHCN và trên thế giới. Thế mới thấy là người Trung Quốc “làm gì cũng có tính toán” mà tính toán rất kĩ. Mặt thứ hai của lợi ích là về an ninh. Khi Việt Nam tăng cường hợp tác chặt chẽ với Liên Xô về mặt quân sự đã khiến Trung Quốc cảm thấy lợi ích sống còn của họ về mặt an ninh bị ảnh hưởng. Lúc đó, mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc vẫn diễn ra hết sức gay gắt, chủ yếu là vì tranh giành quyền lãnh đạo khối XHCN, nhất là sau khi những cuộc xung đột ở biên giới hai nước diễn ra, kèm theo đó là những chồng chéo về lợi ích ở khu vực đã góp phần làm quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc sau năm 1975 vướng vào nhiều mâu thuẫn hơn bao giờ hết. Khi đang trong tình trạng mâu thuẫn như vậy, việc đối thủ của mình gia tăng hợp tác quân sự với một quốc gia ngay bên cạnh mình chắc chắn sẽ khiến Trung Quốc cảm thấy bị đe dọa nghiêm trọng về mặt an ninh. Tiêu biểu cho sự gia tăng quan hệ đồng minh quân sự giữa Việt Nam và Liên Xô là việc ngày 3 tháng 11 năm 1978, hai nước này đã ký "Hiệp ước hữu nghị và hợp tác". Trong hiệp định này có rất nhiều điều khoản về tương trợ quân sự, đặc biệt là điều 6 có ghi “hai bên ngay lập tức sẽ trợ giúp lẫn nhau….trong trường hợp một trong hai bên bị đe dọa tấn công….nhằm mục đích ngăn chặn nguy cơ đó”. Không dừng ở mức độ phòng thủ, hiệp ước còn mở đường cho Việt Nam và Liên Xô tăng cường khả năng tấn công quân sự ngay ở phía sau Trung Quốc. Đó là việc Việt Nam chấp nhận cho Liên Xô được quyền sử dụng các căn cứ không quân và hải quân của họ kể cả căn cứ hải quân ở Cam Ranh. Theo đó, hải quân của Liên Xô lần đầu tiên sẽ có mặt tại [8] khu vực biển Đông (mà Trung Quốc gọi là Nam Hoa) và là mối đe dọa cận kề với lực lượng hải quân của Trung Quốc vốn rất yếu vào thời điểm đó. Thêm nữa, từ tháng 9 năm 1978, Liên Xô đã chuyển cho Việt Nam một số lượng vũ khí khá lớn bao gồm cả xe tăng, máy bay, tên lửa hành trình…5 Nhận định của Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, hiệp ước này là hiểm họa quốc phòng lớn vì đặt Trung Quốc vào tình thế “lưỡng đầu thọ địch” khi xảy ra chiến tranh với Việt Nam hoặc Liên Xô.6 Lợi ích an ninh bị đe dọa khiến cho Trung Quốc tiến hành cuộc chiến này và gọi đó là cuộc “phản công tự vệ”. Mặc dù Trung Quốc tấn công Việt Nam một cách chủ động nhưng họ vẫn sử dụng thuật ngữ này vì trong tính toán của họ, việc tấn công Việt Nam sẽ giúp họ giảm bớt được một mối đe dọa an ninh ngay bên cạnh . Mặt thứ ba là lợi ích về mặt phát triển. Năm 1979 là năm bắt đầu quá trình cải cách nền kinh tế của Trung Quốc sau khi Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 3 Khóa 11 Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 12/1978 quyết định chuyển trọng tâm công tác sang xây dựng hiện đại hóa đất nước Trung Quốc. Vào năm 1979, cuộc cải cách đó mới chỉ bắt đầu diễn ra và nền kinh tế Trung Quốc vẫn đang ở trong tình trạng cực kì khó khăn. Thêm nữa, trong nội bộ Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng còn nhiều ý kiến chưa đồng tình với cuộc cải cách này. Những người đứng đầu Đảng Cộng Sản Trung Quốc mà đứng đầu là Đặng Tiểu Bình cần có một cú hích để thống nhất ý kiến trong toàn Đảng, toàn dân vào cuộc cải cách do Đặng Tiểu Bình khởi xướng. Có thể khẳng định, yếu tố lợi ích của Trung Quốc là nguyên nhân chính gây ra cuộc chiến tranh này. Tuy nhiên, xét về mặt chiến lược, việc thực hiện chính sách đối ngoại có phần sai lầm của Việt Nam cũng là một trong những nguyên nhân gây nên cuộc chiến với người Trung Quốc. Chính những nhà lãnh đạo của Việt Nam cũng thừa nhận sai lầm của mình trong nghị quyết 13 của Bộ chính trị năm 1988. Nghị quyết có ghi: Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta sau khi giải phóng miền nam, cả nước thống nhất, đi lên CNXH là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây 5 Bruce Elleman, Sino-Soviet Relations and the February 1979 Sino-Vietnamese Conflict 6 François Joyaux, La Tentation impériale - Politique extérieure de la Chine depuis 1949, 1994, trang 240 [9] dựng và phát triển kinh tế. Trên thực tế, khi thực hiện chính sách, những nhà lãnh đạo Việt Nam không làm được như thế. Lợi ích chính của Việt Nam chuyển dần từ phát triển sang an ninh. Hơn nữa, chính sách quan hệ với các nước lớn của Việt Nam đã thất bại khi thi hành chính sách “viễn giao cận công” hay “nhất biên đảo”, làm mất cân bằng trong quan hệ Xô-Trung, hình thành liên minh quân sự với Liên Xô khiến Trung Quốc thực sự lo ngại. Không chỉ có vậy, yếu tố lợi ích ảnh hưởng của Việt Nam cũng là một yếu tố trực tiếp va chạm với lợi ích của Trung Quốc như đã nói ở trên. Ngoài việc đưa quân vào Campuchia thì cần phải thấy rằng, sau chiến thắng năm 1975, những nhà lãnh đạo Việt Nam đã có những biểu hiện muốn vươn lên giành ảnh hưởng hơn nữa trong khu vực và trong khối XHCN. Có thể nói, nếu xác định và thực hiện một chính sách đối ngoại đúng đắn hơn thời kì sau năm 1975, ít nhất Việt Nam đã không rơi vào thế va chạm lợi ích với Trung Quốc ở 2 mặt: ảnh hưởng và an ninh, qua đó giảm bớt nguy cơ đối đầu với Trung Quốc. 2. Chính sách của Trung Quốc và Việt Nam trong cuộc chiến. Như vậy, để thực hiện lợi ích của mình, Trung Quốc đã tiến hành cuộc chiến chống lại Việt Nam. Nhưng điều gây ngạc nhiên cho rất nhiều người là Trung Quốc chỉ tấn công trong khoảng 3 tuần rồi rút về nước. Theo quan điểm của chúng tôi, Trung Quốc rút về nước là vì họ đã tính toán kế hoạch tấn công với mục tiêu cụ thể là một cuộc “chiến tranh giới hạn”. Xét về mặt quân sự thì Trung Quốc đã thất bại khi họ bị thiệt hại khá lớn về người. Tuy nhiên, xét về mặt lợi ích chiến lược thì Trung Quốc đã thành công khi đạt được những mục đích của mình. Về mục tiêu ngăn Việt Nam thực hiện bá quyền, Trung Quốc đã thành công khi khiến cho sức mạnh của Việt Nam bị suy yếu đáng kể sau cuộc chiến với Trung Quốc. Về mặt quân sự, Việt Nam không còn khả năng dồn sức chiếm Campuchia khi còn phải chia sẻ lực lượng cho mặt trận biên giới phía Bắc. Một ví dụ dễ thấy nhất là ngay khi chiến tranh Việt – Trung diễn ra, Việt Nam đã phải điều động ngay Quân đoàn 2, quân đoàn tinh nhuệ nhất của Việt Nam từ Campuchia về để phản công. 7 Việc quân 7 Lịch sử Quân đoàn 2 (1974-2004), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 2003, http://www.quansuvn.net/index.php?topic=130.110 [10]
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.