Thực trạng và biện pháp nâng cao hiệu quả tự kiểm tra – đánh giá trong học tập môn Giáo dục học của sinh viên ở trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế

pdf
Số trang Thực trạng và biện pháp nâng cao hiệu quả tự kiểm tra – đánh giá trong học tập môn Giáo dục học của sinh viên ở trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế 9 Cỡ tệp Thực trạng và biện pháp nâng cao hiệu quả tự kiểm tra – đánh giá trong học tập môn Giáo dục học của sinh viên ở trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế 311 KB Lượt tải Thực trạng và biện pháp nâng cao hiệu quả tự kiểm tra – đánh giá trong học tập môn Giáo dục học của sinh viên ở trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế 0 Lượt đọc Thực trạng và biện pháp nâng cao hiệu quả tự kiểm tra – đánh giá trong học tập môn Giáo dục học của sinh viên ở trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế 11
Đánh giá Thực trạng và biện pháp nâng cao hiệu quả tự kiểm tra – đánh giá trong học tập môn Giáo dục học của sinh viên ở trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
4.2 ( 5 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỰ KIỂM TRA – ĐÁNH GIÁ TRONG HỌC TẬP MÔN GIÁO DỤC HỌC CỦA SINH VIÊN Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ PHẠM THỊ THUÝ HẰNG Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế Tóm tắt: Tự kiểm tra - đánh giá nhằm mục đích giúp sinh viên tự điều chỉnh trong quá trình học tập là hình thức đang được sử dụng ngày càng phổ biến trong các nền giáo dục tiên tiến. Kết quả tự kiểm tra là cơ sở để sinh viên tự đánh giá đúng mức độ tiếp thu kiến thức, kỹ năng và điều chỉnh hoạt động học tập kịp thời. Tự kiểm tra – đánh giá là năng lực rất cần thiết cho sự thành đạt trong cuộc sống sau này mà nhà trường cần phải trang bị cho sinh viên. Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu thực trạng và biện pháp nâng cao hiệu quả tự kiểm tra – đánh giá trong học tập môn Giáo dục học (GDH) của sinh viên trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế (ĐHSP, ĐH Huế). Từ khóa: tự kiểm tra – đánh giá, giáo dục học 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Kiểm tra – đánh giá (KT – ĐG) là khâu vô cùng quan trọng trong quá trình giáo dục, nó cung cấp những thông tin phản hồi cần thiết cho cả giảng viên, sinh viên và nhà quản lý để điều chỉnh tất cả các thành tố còn lại của quá trình giáo dục [4]. Tuy nhiên, nếu coi việc kiểm tra, đánh giá chỉ thuộc quyền hạn và trách nhiệm của sinh viên sẽ dễ dàng đặt sinh viên vào thế bị động, sinh viên thiếu cơ hội để kịp thời tự điều chỉnh kiến thức, kỹ năng, đặc biệt là phương pháp học tập của mình để việc học tập không ngừng tiến bộ. Hiện nay nhà trường vẫn tồn tại quan niệm cũ về KT - ĐG kết quả học tập và rèn luyện của người học. Đó là đánh giá chủ yếu dựa vào điểm số kiểm tra cuối kì, hoặc một vài điểm số bài kiểm tra của môn học mà xem nhẹ hoặc bỏ qua yếu tố cơ bản là đánh giá cần được thực hiện trong suốt quá trình học tập, và rèn luyện năng lực tự KT - ĐG trong cả quá trình đó. Hiện trạng đánh giá trong nhà trường Việt Nam vừa nêu dẫn đến những hệ quả: nhiều sinh viên còn thụ động trong việc học tập; khả năng sáng tạo và năng lực vận dụng tri thức đã học để giải quyết các tình huống thực tiễn cuộc sống còn hạn chế. Trong dạy và học tích cực - dạy học đề cao vai trò tự chủ của người học đòi hỏi phải tạo điều kiện, cơ hội và khuyến khích người học đánh giá và tự đánh giá mình [1]. Chỉ có như vậy, họ mới dám suy nghĩ, dám chịu trách nhiệm và luôn luôn tìm tòi sáng tạo, tìm ra cái mới, cái hợp lý, cái có hiệu quả hơn. Mặt khác, kết quả tất yếu của việc rèn luyện các kỹ năng phát hiện và giải quyết vấn đề, kết luận và áp dụng kết quả của qui trình giải quyết vấn đề đòi hỏi người học phải luôn đánh giá và tự đánh giá. Người học phải biết chính xác mặt mạnh, yếu, cái đúng, sai của mình, của việc mình làm, mới có thể tiếp tục vững bước tiếp trên con đường học tập chủ động. Không có khả năng đánh Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế ISSN 1859-1612, Số 03(35)/2015: tr. 70-78 THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỰ KIỂM TRA – ĐÁNH GIÁ... 71 giá, người học khó có thể tự tin trong phát hiện, giải quyết vấn đề và áp dụng kiến thức đã học [3]. Như vậy, trong nhà trường, ngoài việc đánh giá sinh viên, sinh viên còn phải chú trọng hướng dẫn sinh viên phát triển khả năng và thói quen tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau. Ở trường sư phạm, với nhiệm vụ trang bị cho sinh viên kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp, học phần GDH trở thành một môn dạy nghề có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình đào tạo người giảng viên. Trong tương lai, người giảng viên có thể tiến hành tất cả các hoạt động dạy học và giáo dục đạt hiệu quả phụ thuộc phần lớn vào việc ở nhà trường sư phạm họ được trang bị kiến thức nghề thông qua các môn học này như thế nào. Việc đánh giá đúng thực trạng và đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả tự kiểm tra – đánh giá của sinh viên trong học tập GDH ở nhà trường sư phạm là hướng nghiên cứu mang ý nghĩa thiết thực nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn học. Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đề tài, chúng tôi đã sử dụng phối hợp nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận nhằm xây dựng cơ sở lí luận của đề tài; nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn (bao gồm phương pháp điều tra, phỏng vấn, quan sát, nhằm khảo sát thực trạng tự KT – ĐG trong học tập môn GDH của sinh viên). Đề tài giới hạn đối tượng khảo sát bao gồm 205 sinh viên năm thứ 2 các khoa cơ bản ở Trường ĐHSP, ĐH Huế. Sử dụng phương pháp thống kê toán học và phần mềm SPSS 16.00 để xử lí số liệu điều tra. 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 2.1. Thực trạng tự kiểm tra – đánh giá của sinh viên trong học tập GDH ở trường ĐHSP, ĐH Huế 2.1.1. Nhận thức về tầm quan trọng của tự KT - ĐG trong học tập học phần GDH của sinh viên Câu hỏi trưng cầu ý kiến được đặt ra: “Anh (chị) đánh giá như thế nào về tầm quan trọng của việc người học tự KT - ĐG trong học tập học phần GDH ở trường sư phạm”. Kết quả cho thấy, đa số sinh viên được khảo sát đã nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của tự KT - ĐG trong học tập (20,5% sinh viên đánh giá rất quan trọng, 67,3% giảng viên đánh giá quan trọng). Với số đông sinh viên đánh giá cao tầm quan trọng của tự KT - ĐG trong học tập là một dấu hiệu tích cực, bởi nếu sinh viên có nhận thức đúng đắn sẽ là cơ sở để hình thành thái độ và hành vi đối với việc tự KT - ĐG của chính bản thân sinh viên ở hiện tại cũng như quá trình tự học, tự bồi dưỡng suốt đời. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một tỉ lệ khá cao sinh viên đánh giá tầm quan trọng của tự KT - ĐG trong quá trình học tập ở mức độ bình thường, thậm chí không quan trọng (10,7 % đánh giá bình thường, 1,5% cho rằng không quan trọng), điều này cho thấy cần thiết phải có sự giáo dục nhằm thay đổi, nâng cao nhận thức cho sinh viên thông qua hệ thống biện pháp phù hợp. Đánh giá đúng về bản thân mình không chỉ là một phẩm chất cần có để phát triển năng lực, mà còn là điều kiện tất yếu để giúp sinh viên có được sự hài lòng trong học tập. 72 PHẠM THỊ THÚY HẰNG 2.1.2. Mức độ thực hiện các nội dung tự KT - ĐG của sinh viên trong học tập học phần GDH Chúng tôi đã tiến hành khảo sát mức độ sinh viên tự KT - ĐG trong học tập GDH trên 3 khía cạnh: tri thức, kĩ năng, thái độ. Kết quả thu được phản ánh thông qua các bảng 1: Bảng 1. Mức độ thực hiện các nội dung tự KT – ĐG của sinh viên trong học tập GDH Khía cạnh Tri thức Kĩ năng Thái độ *Ghi chú: 0 ≤ Các khoa Tự nhiên SD 1.85 .773 1.51 .710 1.57 .707 Các khoa Xã hội 2.16 1.71 1.68 SD .612 .638 .761 Chung 2.00 1.61 1.62 SD .714 .682 .735 ≤3 Xét theo ngành học – Tự nhiên và Xã hội + Về khía cạnh tri thức: Với kết quả kiểm định sự bằng nhau của hai phương sai (Mức ý nghĩa (levene) = 0,75>0,05) kết quả kiểm định được lấy ở phần có cân bằng phương sai. Kết quả kiểm định t với mức ý nghĩa (2 chiều) = 0,02 cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa giữa tự KT - ĐG trên khía cạnh tri thức trong học tập giữa sinh viên các khoa tự nhiên và sinh viên các khoa xã hội ở trường ĐHSP Huế. Để xác định sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm, chúng tôi tiếp tục theo dõi giá trị trung bình của sinh viên các khoa Xã hội ( = 2,16) lớn hơn giá trị trung bình của sinh viên các khoa Tự nhiên ( = 1,85), chứng tỏ sinh viên các khoa xã hội tự KT - ĐG về mặt tri thức ở mức độ thường xuyên hơn sinh viên các khoa tự nhiên. + Về khía cạnh kĩ năng: Với kết quả kiểm định sự bằng nhau của hai phương sai (Mức ý nghĩa (levene) = 0,75>0,05) kết quả kiểm định được lấy ở phần có cân bằng phương sai. Kết quả kiểm định t với mức ý nghĩa (2 chiều) = 0,32 cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa tự KT – ĐG khía cạnh kĩ năng trong học tập giữa sinh viên các khoa tự nhiên và sinh viên các khoa xã hội ở trường ĐHSP Huế. + Về khía cạnh thái độ: Với kết quả kiểm định sự bằng nhau của hai phương sai (Mức ý nghĩa (levene) = 0,768>0,05) kết quả kiểm định được lấy ở phần có cân bằng phương sai. Kết quả kiểm định t với mức ý nghĩa (2 chiều) = 0,260 cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa tự KT - ĐG trên khía cạnh thái độ trong học tập giữa sinh viên các khoa tự nhiên và sinh viên các khoa xã hội ở trường ĐHSP Huế. Xét trên toàn mẫu sinh viên nghiên cứu Kết quả cho thấy, sinh viên tiến hành tự KT - ĐG trong học tập GDH trên các khía cạnh tri thức, thái độ, kĩ năng ở mức độ thường xuyên 1,5 < <2,5. Trong đó, khía cạnh tri thức được sinh viên tiến hành tự KT - ĐG với mức độ thường xuyên hơn so với kĩ năng, thái độ. Như vậy, trong các mục tiêu tri thức, kĩ năng, thái độ sinh viên quan tâm tự KT - ĐG về khía cạnh tri thức, kĩ năng hơn so với thái độ. Điều này phản ánh thực tế quá THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỰ KIỂM TRA – ĐÁNH GIÁ... 73 trình học tập sinh viên chỉ quan tâm đến tri thức mà chưa thực sự tích cực rèn luyện kĩ năng cũng như hình thành thái độ phù hợp. 2.1.3. Mức độ thực hiện các hình thức tự KT - ĐG của sinh viên trong học tập học phần GDH Về hình thức tự KT – ĐG của sinh viên trong quá trình học tập học phần GDH, qua khảo sát chúng tôi có được kết quả cụ thể được mình họa qua bảng 2: Bảng 2. Mức độ thực hiện các hình thức tự KT – ĐG của sinh viên trong học tập GDH Ngành Hình thức Sinh viên tự kiểm tra – đánh giá trong lớp học Sinh viên tự kiểm tra – đánh giá ngoài lớp học Sinh viên tự kiểm tra – đánh giá lẫn nhau *Ghi chú: 0 ≤ Các khoa Tự nhiên SD Các khoa Xã hội SD Chung SD 1.40 .661 .724 1.11 .726 .721 1.32 .782 1.20 .742 1.45 .806 1.39 .598 1.41 1.02 .724 1.20 ≤3 Kết quả cho thấy, xét trên toàn mẫu chung, phần lớn sinh viên có tiến hành tự KT - ĐG ở các hình thức với mức độ thỉnh thoảng: “Sinh viên tự KT - ĐG trong lớp học” ( =1,40); “Sinh viên tự KT – ĐG lẫn nhau” ( =1,32); “Sinh viên tự KT – ĐG ngoài lớp học” ( =1,11); vẫn còn một tỉ lệ không nhỏ sinh viên được khảo sát không bao giờ tự KT – ĐG ở tất cả các hình thức. Từ thực tiễn trên, chúng tôi nhận thấy, cần có biện pháp hướng dẫn sinh viên thực hiện các hình thức tự KT - ĐG phong phú, đa dạng như: sử dụng phiếu học tập, xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan, thiết kế website hỗ trợ ôn tập, tự KT - ĐG... nhằm nâng cao chất lượng tự KT - ĐG và kết quả lĩnh hội kiến thức, hình thành thái độ và kĩ năng tương ứng trong học tập môn học. 2.1.4. Mức độ thực hiện phương pháp tự KT - ĐG của sinh viên trong học tập học phần GDH Kết quả khảo sát về mức độ thực hiện các phương pháp tự KT - ĐG trong học tập GDH của sinh viên thể hiện qua bảng 3: Bảng 3. Mức độ thực hiện phương pháp tự KT – ĐG của sinh viên trong học tập GDH Ngành Phương pháp Tự KT - ĐG vấn đáp Tự KT - ĐG viết tự luận Tự KT - ĐG viết trắc nghiệm Tự KT - ĐG `thực hành *Ghi chú: 0 ≤ ≤3 Tự nhiên SD .93 1.59 1.05 1.10 .767 .855 .781 .830 Xã hội SD 1.29 1.68 1.14 1.41 .898 .859 .825 .908 Chung SD 1.11 1.63 1.09 1.25 .851 .856 .802 .881 74 PHẠM THỊ THÚY HẰNG Xét trên toàn mẫu chung, phương pháp tự KT – ĐG dạng viết tự luận ( =1,63) được sinh viên tiến hành thường xuyên so với các phương pháp khác. Các phương pháp khác được sinh viên thực hiện ở mức độ thỉnh thoảng: sinh viên tự KT - ĐG dạng vấn đáp ( =1,16); sinh viên tự KT - ĐG dạng viết trắc nghiệm ( =1,09); sinh viên tự KT - ĐG dạng thực hành ( =1,25); vẫn còn tỉ lệ sinh viên không bao giờ thực hiện các phương pháp tự KT – ĐG trong học tập học phần GDH. Qua đây, chúng tôi nhận thấy cần có biện pháp liên quan đến việc hình thành năng lực tự KT – ĐG cho sinh viên bằng cách hướng dẫn thực hiện các phương pháp tự KT - ĐG trong quá trình học tập nói chung và học tập môn GDH nói riêng, từ đó nhằm nâng cao kiến thức, thái độ và rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp tương ứng là vấn đề cần thiết. 2.1.5. Những khó khăn khi sinh viên tự KT – ĐG trong học tập học phần GDH Việc xác định đúng đắn mức độ khó khăn có vai trò quan trọng, nó giúp người nghiên cứu có thể đề xuất ra những biện pháp tác động hợp lí, hiệu quả. Chúng tôi đã khảo sát sinh viên về những khó khăn và mức độ ảnh hưởng của khó khăn khi sinh viên tiến hành tự KT - ĐG trong quá trình học tập GDH. Sinh viên nhận định khi tiến hành tự KT – ĐG, sinh viên gặp những khó khăn từ nguyên nhân khách quan như: Sinh viên không thường xuyên tự KT – ĐG lẫn nhau ( =2,07); giảng viên giảng dạy môn học không khuyến khích và hướng dẫn sinh viên tự KT – ĐG ( =1,92). Tuy nhiên, khó khăn chủ yếu đến từ chính sinh viên đó là: Bản thân sinh viên không có năng lực tự KT – ĐG ( =2,08), đây được xem là khó khăn lớn nhất và có ảnh hưởng lớn đến hoạt động và hiệu quả của tự KT – ĐG. Kết quả này phần nào đã giải thích được hệ quả: nhiều sinh viên còn thụ động trong việc học tập; khả năng sáng tạo và năng lực vận dụng tri thức đã học để giải quyết các tình huống thực tiễn cuộc sống. Đó cũng chính là lí do thúc đẩy chúng tôi tìm kiếm hướng nghiên cứu nhằm nâng cao nhận thức, bồi dưỡng thái độ, hành vi tự KT - ĐG trong quá trình học tập nói chung và học tập môn GDH nói riêng ở trường sư phạm. 2.1.6. Tự đánh giá về tính hiệu quả của tự KT – ĐG của sinh viên trong học tập học phần GDH Kết quả khảo sát các nội dung cho thấy, đa số sinh viên có nhận thức đúng đắn về tự KT – ĐG trong học tập môn GDH, sinh viên thực hiện các nội dung, hình thức, phương pháp KT – ĐG ở mức độ thường xuyên, thỉnh thoảng; vẫn còn một tỉ lệ sinh viên không bao giờ tiến hành KT – ĐG. Vậy, hoạt động tự KT – ĐG của sinh viên được tiến hành có hiệu quả ở mức độ nào? Chúng tôi đã khảo sát tự đánh giá của sinh viên về vấn đề này, kết quả thu được thể hiện qua biểu đồ 1. Kết quả cho thấy, sinh viên tự đánh giá tính hiệu quả của tự KT – ĐG với = 2,83 tương ứng với mức độ tương đối hiệu quả. Qua đây, chúng tôi nhận định: dù sinh viên có nhận thức đúng đắn, có ý thức tiến hành tự KT - ĐG trong học tập nhưng nếu thiếu tri thức, kĩ năng thực hiện các nội dung, hình thức, phương pháp tự KT - ĐG thì hiệu quả mang lại không cao và không có ý nghĩa thiết thực cho quá trình học tập. Từ thực THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỰ KIỂM TRA – ĐÁNH GIÁ... 75 trạng đó, chúng tôi càng mong muốn thông qua việc nghiên cứu đề xuất các biện pháp giúp sinh viên nâng cao năng lực khi tiến hành các hình thức, phương pháp tự KT - ĐG trong quá trình học tập nói chung và học tập môn GDH nói riêng, qua đó nâng cao kiến thức, thái độ và rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp tương ứng cho sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn GDH tại nhà trường. *Ghi chú: 1 ≤ ≤5 Biểu đồ 1. Mức độ hiệu quả của tự KT – ĐG của sinh viên trong học tập học phần GDH 2.2. Biện pháp nâng cao hiệu quả tự kiểm tra – đánh giá của sinh viên trong học tập học phần GDH 2.2.1. Đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả tự kiểm tra – đánh giá của sinh viên trong học tập GDH Trên cơ sở vấn đề đổi mới giáo dục đại học và đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá học tập của sinh viên ở trường đại học theo học chế tín chỉ [2] và cơ sở nghiên cứu lí luận, thực tiễn của đề tài, chúng tôi đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả tự KT - ĐG của sinh viên trong học tập GDH bao gồm: Biện pháp 1. Tăng cường phát huy và nâng cao nhận thức về hoạt động tự KT – ĐG trong học tập của sinh viên. Biện pháp 2. Đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp KT – ĐG môn GDH theo xu hướng phát huy vai trò và hình thành năng lực tự KT – ĐG của sinh viên. Biện pháp 3. Hướng dẫn, rèn luyện giúp sinh viên hình thành kĩ năng tự KT - ĐG kiến thức, kĩ năng môn GDH (thông qua việc Hướng dẫn sinh viên tái hiện những điều đã 76 PHẠM THỊ THÚY HẰNG học; Hướng dẫn sinh viên tự trả lời những câu hỏi trong giáo trình, tài liệu học tập; sinh viên làm các bài tập do giáo viên yêu cầu). Biện pháp 4. Tăng cường năng lực tự KT - ĐG của sinh viên bằng hệ thống bộ đề kiềm tra đánh giá kiến thức, kĩ năng cuối mỗi phần/chương học phần GDH. Biện pháp 5. Xây dựng Website hỗ trợ sinh viên ôn tập và tự KT - ĐG kiến thức, kĩ năng môn GDH. Các biện pháp có tính độc lập nhưng chúng có mối quan hệ mật thiết và bổ sung cho nhau. Cần áp dụng phối hợp một cách linh hoạt, hợp lí và sáng tạo. Muốn đạt hiệu quả trong hoạt động tự KT - ĐG cần phải biết phát huy vai trò, ý nghĩa của mỗi biện pháp: Biện pháp 1 tạo cơ sở, tiền đề cho các biện pháp khác; Biện pháp 2 là điều kiện cần thiết, đảm bảo cho các biện pháp khác thực hiện tốt, đẩy nhanh tiến trình đổi mới hoạt động KTĐG; Biện pháp 3 đóng vai trò chủ đạo trong quá trình hình thành kĩ năng tự KT – ĐG cho sinh viên; Biện pháp 4 và 5 là nhóm biện pháp hỗ trợ tác động tích cực đến các biện pháp khác. 2.2.2. Khảo nghiệm tính hợp lí và khả thi của các biện pháp + Mục đích khảo nghiệm: Lấy ý kiến đánh giá tính hợp lí và khả thi của các biện pháp đề xuất + Nội dung khảo nghiệm: Khảo nghiệm tính hợp lý và khả thi của các biện pháp đề xuất theo 5 mức độ: Rất hợp lí/Rất khả thi; Hợp lí/Khả thi; Ít hợp lí/Ít khả thi; Không hợp lí/Không khả thi; Hoàn toàn không hợp lí/Hoàn toàn không khả thi. + Phương pháp khảo nghiệm: Để đánh giá tính hợp lí và khả thi của các biện pháp đề xuất, chúng tôi tiến hành thu thập thông tin bằng bảng hỏi ở 20 giảng viên giảng dạy bộ môn Tâm lý học và Giáo dục học ở Trường ĐHSP, ĐH Huế. Kết quả khảo nghiệm như sau: Bảng 4. Kết quả thăm dò ý kiến về tính hợp lí và khả thi của các biện pháp Biện pháp Tính hợp lí 1 4.05 SD .759 TB 2 2 3.50 .605 3 4.10 4 5 *Ghi chú: 1 ≤ Tính khả thi 3.75 SD .639 TB 3 5 3.50 .513 4 .826 1 4.10 .553 2 3.55 .605 4 3.35 .587 5 4.04 .848 3 4.47 .612 1 ≤5 Kết quả cho thấy, của các biện pháp > 3,0 chứng tỏ các biện pháp đề xuất được phần lớn giảng viên đánh giá cao về tính hợp lí và khả thi. Chúng tôi xem xét mối liên hệ tương quan về tính hợp lí và khả thi của các biện pháp bằng cách dùng kiểm nghiệm tương quan Pearson để kiểm tra các mối liên hệ (tương quan Pearson dùng để lượng hóa THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỰ KIỂM TRA – ĐÁNH GIÁ... 77 mức độ chặt chẽ của mối liên hệ tuyến tính giữa hai biến định lượng). Kết quả thu được cho thấy, tính hợp lí và tính khả thi cùng biến thiên theo 1 hướng (hệ số tương quan thuận). Từ đó, chúng tôi khẳng định, tính hợp lí và tính khả thi của các biện pháp được đề xuất trong đề tài có ý nghĩa. Tóm lại, rèn luyện kỹ năng tự KT - ĐG trong học tập của sinh viên trong học tập GDH ở trường sư phạm, thực chất là giúp hình thành ở sinh viên năng lực tự học – chìa khoá vàng của giáo dục [5]. Nó góp phần tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường đại học, nâng cao chất lượng dạy học GDH ở trường sư phạm. Song những kỹ năng này được hình thành dần dần trong quá trình luyện tập kiên trì và có hệ thống trên cơ sở tính tự giác học tập của sinh viên dưới sự hướng dẫn của giảng viên. Do vậy, ngoài việc có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng và sự cần thiết của tự KT – ĐG trong học tập sinh viên cần có ý thức luyện tập và thường xuyên rèn luyện, còn giảng viên cần phải đặt ra yêu cầu và hướng dẫn sinh viên thực hiện. Vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu Chúng tôi nhận thấy vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu là khả năng ứng dụng, triển khai các biện pháp được đề xuất,chúng tôi thiết nghĩ cần có hướng phát triển và nghiên cứu nghiêm túc để vấn đề KT – ĐG trong dạy học và tự KT - ĐG trong học tập của sinh viên đáp ứng xu hướng đổi mới hiện nay của ngành giáo dục. 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận Kết quả nghiên cứu đã cho thấy thực trạng tự KT - ĐG của sinh viên trong học tập GDH, trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn, chúng tôi đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả tự KT – ĐG của sinh viên trong học tập GDH. Kết quả khảo nghiệm đã cho thấy tính hợp lí và khả thi của những biện pháp đề xuất. Việc đề xuất các biện pháp phù hợp sẽ giúp sinh viên nâng cao nhận thức, hình thành năng lực, rèn luyện kĩ năng tự KT - ĐG – một kĩ năng quan trọng đối với sinh viên trong học tập nói chung, học tập môn GDH nói riêng và cần thiết đối với hoạt động nghề nghiệp trong tương lai của người giảng viên, qua đó, tích cực hóa hoạt động nhận thức, giúp sinh viên tự chủ trong học tập, tự học. Các biện pháp đề xuất có khả năng áp dụng trong thực tiễn dạy học nhằm nâng cao năng lực, kĩ năng tự KT - ĐG cho sinh viên Trường ĐHSP, ĐH Huế. 3.2. Kiến nghị Nhà trường cần xem xét vấn đề tự KT - ĐG của sinh viên như một trong xu hướng đổi mới quan trọng cần quan tâm hiện nay (chuyển từ đánh giá một chiều, sang đánh giá đa chiều: tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau); đồng thời tạo điều kiện và có cơ chế rõ ràng để đưa hoạt động tự KT - ĐG của sinh viên vào chương trình rèn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Bên cạnh đó, cần có sự khuyến khích, định hướng, điều chỉnh, kiểm tra, đánh giá kịp thời với những giảng viên tích cực khuyến khích, hướng dẫn sinh viên tự KT - ĐG trong học tập. Thường xuyên tổ chức những khoá tập huấn nhằm cung cấp, bồi dưỡng và 78 PHẠM THỊ THÚY HẰNG nâng cao nhận thức cho đội ngũ giảng viên về tầm quan trọng và sự cần thiết của tự KT ĐG của sinh viên trong học tập và đối với chất lượng giảng dạy môn học. Giảng viên cần tích cực trong việc tìm hiểu, bồi dưỡng kiến thức về KTĐG và tự KTĐG để hướng dẫn, hình thành, rèn luyện kĩ năng tự KT – ĐG trong học tập thông qua các hình thức, phương pháp tự KTĐG phong phú, đa dạng, phù hợp; chú trọng khuyến khích sinh viên quan tâm tiến hành tự KT – ĐG trong học tập môn học; luôn đưa ra các yêu cầu sinh viên phải tiến hành tự KT –ĐG tri thức, kĩ năng như một kĩ năng quan trọng trong tự học và là tiêu chí quan trọng để đánh giá cho điểm quá trình của sinh viên trong học tập môn học; mặt khác tích cực tiếp cận nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn về tự KTĐG để xây dựng nội dung, phương pháp và tìm kiếm nhiều biện pháp khả thi nhằm giúp sinh viên nâng cao hiệu quả tự KTĐG của sinh viên. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] [2] [3] [4] [5] Lê Hồng Ánh (2009). Hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử thế giới lớp 10 (chương trình chuẩn) ở trường Trung học phổ thông, Luận văn thạc sỹ chuyên ngành LL&PPDH Lịch sử, Trường ĐHSP Hà Nội. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007). Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ, Ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15 tháng 8 năm 2007. Đào Lan Hương (1999), “Vị thế và sự tự đánh giá thái độ học tập của sinh viên”, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 10. Nguyễn Thị Thiên Nga (2008). Tăng cường năng lực tự kiểm tra đánh giá của học sinh THPT bằng hệ thống bộ đề kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng hoá học lớp 11 Nâng cao (Phần hữu cơ), Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: LL&PPDH Hoá học Trường ĐH Sư phạm Hà Nội. Phan Trọng Luận (1998). “Tự học - một chìa khoá vàng của giáo dục”, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 2. Title: REALITY AND MEASURES SELF TEST – REVIEW OF STUDENTS IN LEARNING CONTENTS OF PEDAGOGY IN HUE UNIVERSITY’S COLLEGE OF EDUCATION Abstract: Self check - assessment is intended to help students adjust themselves in the learning process is the form being used increasingly common in the advanced education. Self-test results are the basis for students to appreciate the degree to acquire knowledge, skills and adjust timely learning activities. Self check - assess the capabilities essential for success in later life that schools need to equip the students. The paper presents research results situation and measures to improve the efficiency of self-examination - rated in academic subjects Student Education Teachers' Training University, Hue University. Keywords: self check - assessment, Contents of Pedagogy ThS. PHẠM THỊ THUÝ HẰNG Khoa Tâm lý – Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.