Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giám định, định giá tài sản theo quy định của bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015

pdf
Số trang Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giám định, định giá tài sản theo quy định của bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 6 Cỡ tệp Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giám định, định giá tài sản theo quy định của bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 132 KB Lượt tải Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giám định, định giá tài sản theo quy định của bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 4 Lượt đọc Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giám định, định giá tài sản theo quy định của bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 12
Đánh giá Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giám định, định giá tài sản theo quy định của bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015
4.6 ( 8 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG VIỆC GIÁM ĐỊNH, ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 Nguyễn Thanh Mai1 Tóm tắt: Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công tác giám định và định giá tài sản là một hoạt động quan trọng, cần thiết trong việc giải quyết nhiều vụ án hình sự. Kết quả của hoạt động này còn có thể là căn cứ, cơ sở cho việc quyết định có khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Trong một số vụ án, nó còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng xác định khung hình phạt chính xác. Trên thực tiễn, công tác này đang gặp phải rất nhiều khó khăn, lúng túng trong hoạt động phối hợp triển khai, đặc biệt một số vụ án nếu bị hại không hợp tác thì không thể giải quyết được. Nhiều vụ án, tài sản bị mất không thu hồi được, việc định giá tài sản rất khó khăn. Do đó Kiểm sát viên (KSV) cần được trang bị những kỹ năng, kiến thức cần thiết trong thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giám định và định giá tài sản. Từ khóa: Thực hành quyền công tố, Định giá tài sản, Giám định tư pháp Nhận bài: 05/5/2017; Hoàn thành biên tập: 29/6/2017; Duyệt đăng: 01/8/2017 Abstract: Exercising prosecution right and supervising the law compliance in appraising and assessiing property is an important activity needed in solving many criminal cases. It’s result can be ground for making decision of initiating criminal proceedings. In some cases, it helps procedure-conducting agency define certain punishment frame. In reality, there are difficulties,troubles found in coordination of implementation, especially with the cases when the victims are not willing to work with. The task of assessing property is difficult with the cases having property lost. Therefore, it is necessary to equip prosecutors with essential skills, knowledge in exercising prosecution right and supervising the law compliance in appraising and assessing property. Keywords: Exercise prosecution right, assessing property, judicial expertise Date of receipt: 05/5/2017; Date of revision: 29/6/2017; Date of approval: 01/8/2017 1. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giám định Trưng cầu giám định và hoạt động giám định trong tố tụng hình sự là một công tác quan trọng không thể thiếu trong quá trình giải quyết nhiều vụ án hình sự. Thực tiễn công tác cho thấy, hoạt động giám định tư pháp có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả và chất lượng của hoạt động tố tụng. Không ít trường hợp việc giải quyết vụ án bị kéo dài, ách tắc với nguyên nhân từ kết luận của các tổ chức giám định. Thực hiện giám định tư pháp cũng là nhằm làm sáng tỏ vụ án, tránh tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm. Ngoài ra, giám định tư pháp còn mang một ý nghĩa nhân văn sâu sắc, hướng hoạt động 1 tố tụng theo cơ chế minh bạch, đúng người đúng tội, phụng sự công lý. Giám định tư pháp là một kênh quan trọng đánh giá trình độ phát triển pháp luật và mức độ dân chủ của một quốc gia. Chính vì lẽ đó, trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 có đến 18 điều luật quy định về các hoạt động liên quan đến công tác giám định này. Vì vậy, trong quá trình điều tra, KSV phải luôn chủ động, phát hiện kịp thời những vấn đề, những nội dung cần tiến hành giám định để yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành việc trưng cầu giám định. Theo quy định tại Điều 205 BLTTHS năm 2015, khi có các căn cứ được quy định tại Điều 206 BLTTHS năm 2015 hoặc khi xét thấy cần Thạc sỹ, Giảng viên khoa Đào tạo Luật sư, Học viện Tư pháp 54 Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai thiết, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ ra quyết định trưng cầu giám định. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định được quy định tại Điều 34 BLTTHS và tại Điều 39 BLTTHS, bao gồm các cơ quan sau đây: Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát; Tòa án; Bộ đội biên phòng; Hải quan; Kiểm lâm; Lực lượng cảnh sát biển; Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Kiểm sát viên cần kiểm sát chặt chẽ các căn cứ và sự cần thiết phải trưng cầu giám định. Để yêu cầu cơ quan có thầm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu hoặc báo cáo đề xuất lãnh đạo VKS ra quyết định trưng cầu giám định. Các trường hợp phải bắt buộc trưng cầu giám định bao gồm: “1. Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án; 2. Tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và không có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó; 3. Nguyên nhân chết người; 4. Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động; 5. Chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ; 6. Mức độ ô nhiễm môi trường”. Đối với những vụ án cần xác định rõ một trong các trường hợp nêu trên, Kiểm sát viên cần chủ động yêu cầu Điều tra viên lập kế hoạch trưng cầu giám định. Quyết định trưng cầu giám định của Cơ quan điều tra phải nói rõ nội dung yêu cầu, họ và tên người được trưng cầu giám định, quyền và trách nhiệm của người giám định. KSV cần kiểm sát chặt chẽ quyết định trưng cầu giám định, đảm bảo phải đầy đủ nội dung quy định tại khoản 2 Điều 205 BLTTHS. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định trưng cầu giám định, cơ quan trưng cầu giám định phải giao hoặc gửi quyết định trưng cầu giám định, hồ sơ, đối tượng trưng cầu giám định cho tổ chức, cá nhân thực hiện giám định; gửi quyết định trưng cầu giám định cho Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Nếu thấy nghi ngờ về tính khách quan, tính khoa học của bản kết luận giám định hoặc kết luận giám định không phù hợp với các chứng cứ khác, KSV báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát để nêu yêu cầu đối với Cơ quan điều tra hoặc trực tiếp yêu cầu Giám định viên giải thích thêm. Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ thời hạn giám định, tránh tình trạng kéo dài quá mức ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết vụ án. Nhiều vụ án phải chờ kết quả giám định mới thực hiện các hoạt động cần thiết theo quy định của pháp luật. Do đó, nếu hết thời hạn mà chưa có kết quả giám định thì các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải ra quyết định tạm đình chỉ điều tra, hoặc tạm đình chỉ vụ án chờ cho có kết quả mới phục hổi hoặc ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án. Việc thực hiện đúng tiến độ và thời hạn luật định sẽ giúp giảm thiểu tối đa về nguồn lực con người, tránh tình trạng kéo dài thời gian tố tụng. Thời hạn giám định đối với các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định được quy định rất chặt chẽ và cụ thể tại Điều 208 BLTTHS. Trường hợp việc giám định không thể tiến hành trong thời hạn quy định nêu trên, thì tổ chức, cá nhân tiến hành giám định phải kịp thời thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do cho cơ quan trưng cầu, người yêu cầu giám định. Kiểm sát viên cần kiểm sát chặt chẽ việc tiến hành giám định. KSV phải kiểm sát chặt chẽ hoạt động giám định của Giám định viên. Khi được trưng cầu giám định, Giám định viên không được từ chối và phải có trách nhiệm hỗ trợ cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc điều tra, khám phá vụ án. Theo 55 HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP đó tại khoản 4 Điều 68 BLTTHS có quy định “Người giám định kết luận gian dối hoặc từ chối kết luận giám định mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS”. Giám định viên chỉ được từ chối giám định khi việc trưng cầu giám định với nội dung phức tạp, mà thời gian để tiến hành giám định không đủ cho Giám định viên thực hiện hoặc yêu cầu giám định khi mà các tài liệu cung cấp không đủ hoặc những tài liệu đó không có giá trị để kết luận, hoặc nội dung mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu đã vượt quá phạm vi hiểu biết chuyên môn của mình. KSV cần kiểm sát tư cách pháp lý của Giám định viên, nhằm đảm bảo sự khách quan, vô tư của họ trong khi làm nhiệm vụ. Nếu xác định Giám định viên được trưng cầu giám định thuộc 1 trong các trường hợp quy định tại khoản 5 Điều 68 BLTTHS, thì KSV phải yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã ra quyết định trưng cầu giám định thay đổi người giám định. Nếu họ đã tiến hành giám định và có kết quả thì phải tiến hành giám định lại cho đúng quy định của pháp luật. Việc tiến hành giám định có thể được tiến hành tại cơ quan giám định hoặc tại nơi tiến hành điều tra vụ án ngay sau khi có quyết định trưng cầu, yêu cầu giám định. Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, người yêu cầu giám định có thể tham dự giám định nhưng phải báo trước cho người giám định biết. KSV phải kiểm sát chặt chẽ bản kết luận giám định của Giám định viên. Theo đó, kết luận giám định phải ghi rõ kết quả giám định với những nội dung đã được trưng cầu. Cơ quan trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân đã tiến hành giám định giải thích về kết luận giám định; hỏi thêm người giám định về những tình tiết cần thiết. Đối với những vụ án phức tạp, mặc dù đã có kết quả giám định, song kết luận trong bản giám định đó chưa được rõ ràng, không đầy đủ, còn chung chung, hoặc có phát sinh nhiều vấn đề mới mà chưa có kết luận về vấn đề 56 đó…KSV cần có yêu cầu hoặc báo cáo lãnh đạo ra quyết định trưng cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại. Sau khi nghiên cứu bản kết luận giám định, nếu phát hiện thấy nội dung kết luận giám định chưa rõ ràng, chưa đầy đủ, kết luận chung chung hoặc phát sinh những vấn đề mới cần phải giám định tiếp, những tình tiết này liên quan đến vụ án đã có kết luận giám định trước đó, thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ ra quyết định trưng cầu giám định bổ sung. Ví dụ: “Theo kết luận giám định: nạn nhân bị hai vết thương ở mặt sau vùng đùi phải, tỷ lệ thương tích là 12%”. Mặc dù có tỷ lệ thương tích để xem xét xử lý hình sự, song kết luận chưa đề cập đến vết thương đó được hình thành như thế nào và do vật gì gây ra, để xem xét vết thương và hung khí bị can mang theo và sử dụng có đúng là vật gây ra vết thương ở vùng đùi đó hay không. Trong trường hợp này cần phải tiến hành trưng cầu giám định bổ sung. KSV cần kiểm sát chặt chẽ việc giám định bổ sung được thực hiện do tổ chức và cá nhân nào, theo quy định của BLTTHS thì phải là tổ chức và cá nhân khác thực hiện. Thủ tục trưng cầu giám định bổ sung được thực hiện như giám định lần đầu. Trường hợp khi kiểm sát bản kết luận giám định mà thấy có nghi ngờ về kết luận giám định lần đầu không chính xác thì cơ quan trưng cầu giám định có thể tự mình hoặc theo đề nghị của Viện kiểm sát, của người tham gia tố tụng mà quyết định việc trưng cầu giám định lại. Việc giám định lại phải do người giám định khác thực hiện. Khi nhận được đề nghị từ phía Viện kiểm sát hoặc yêu cầu từ phía người tham gia tố tụng mà cơ quan có thẩm quyền trưng cầu giám định không chấp nhận lời đề nghị và yêu cầu này thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do vì sao không chấp nhận. Trường hợp giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại có sự khác nhau cơ bản, thậm chí đối lập nhau về cùng một nội dung yêu cầu giám định, thì cần trưng cầu giám Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai định lại lần thứ hai. Việc này do người trưng cầu giám định quyết định. Hoạt động giám định lại lần thứ hai được thực hiện bởi một Hội đồng giám định và tiến hành theo quy định của Luật giám định tư pháp. Theo quy định tại Điều 212 BLTTHS, trong trường hợp đặc biệt, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao sẽ quyết định việc giám định lại sau khi đã có kết luận giám định của Hội đồng giám định. Việc giám định lại trong trường hợp đặc biệt phải được thực hiện bởi một hội đồng mới, những thành viên trong hội đồng đã thực hiện giám định trước đó sẽ không được tham gia giám định lại trong hội đồng mới này. Kết luận giám định của Hội đồng giám định mới được sử dụng để giải quyết vụ án. Trong giai đoạn điều tra, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo kết luận giám định cho bị can và những người tham gia tố tụng khác biết nếu họ có yêu cầu. Những người này cũng có quyền yêu cầu giám định lại hoặc giám định bổ sung nếu bản thân họ không đồng ý với kết luận giám định hoặc cho rằng bản kết luận giám định còn thiếu, chưa đầy đủ. Trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không chấp nhận đề nghị của những người tham gia tố tụng thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. 2. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc định giá tài sản Trong Bộ luật hình sự có rất nhiều tội danh quy định yếu tố giá trị tài sản bị xâm phạm (cố ý làm hư hỏng tài sản, hành vi huỷ hoại tài sản, hành vi chiếm đoạt tài sản, chiếm giữ, sử dụng trái phép tài sản,...) là một trong những dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Vì vậy, việc xác định giá trị tài sản bị xâm phạm đó có ý nghĩa rất quan trọng và mang tính bắt buộc để xác định hành vi xâm phạm về tài sản đó có phải là tội phạm hay không. Bên cạnh đó, việc định giá tài sản còn là căn cứ để xác định khung hình phạt; đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội khi lượng hình và xác định mức bồi thường cho người bị thiệt hại. Theo quy định tại Điều 215 BLTTHS năm 2015, khi tiến hành giải quyết vụ án hình sự mà xét thấy cần xác định giá trị của tài sản mới có thể giải quyết vụ án hình sự được, hoặc trong thời hạn 07 ngày kể từ khi nhận được đề nghị định giá tài sản của bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác, thì các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ xem xét và ra văn bản yêu cầu định giá tài sản. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra văn bản yêu cầu định giá tài sản, cơ quan yêu cầu định giá phải giao hoặc gửi văn bản yêu cầu định giá tài sản, hồ sơ, đối tượng yêu cầu định giá tài sản cho Hội đồng giám định tài sản được yêu cầu; gửi văn bản yêu cầu định giá tài sản cho Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Văn bản yêu cầu định giá tài sản phải bao gồm những nội dung được quy định tại Điều 215 BLTTHS. KSV cần kiểm sát chặt chẽ việc yêu cầu định giá tài sản, cũng như kiểm sát Hội đồng thực hiện định giá tài sản, đảm bảo việc định giá tài sản khách quan, toàn diện, đúng pháp luật và kịp thời, đảm bảo cho việc xử lý vụ án được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh hiện tượng oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Ví dụ: Ngày 1/1/2016 Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận Đ đã bắt quả tang đối tượng Nguyễn Văn N thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Kết luận giám định định giá tài sản có giá trị là 4,5 triệu đồng. Quá trình hỏi cung, lấy lời khai của đối tượng và những người bị hại liên quan, đối tượng đã khai ra thực hiện 4 vụ trước đó. Cụ thể: vụ thứ nhất được thực hiện đầu năm 2015 trị giá tài sản được kết luận là trên 2 triệu đồng; vụ thứ hai được thực hiện vào khoảng tháng 4 năm 2015 trị giá trên 2 triệu đồng; vụ thứ ba được thực hiện vào khoảng tháng 6 năm 2015 trị giá tài sản được xác định dưới 2 triệu đồng; vụ thứ tư đối tượng thực hiện vào tháng 10 năm 2015 trị giá tài sản trên 2 triệu đồng. Lần thứ 5 thì bị bắt quả tang và trị giá 4,5 triệu đồng. Theo hướng dẫn tại nghị quyết 01/2006 ngày 12/5/2006 của Hội 57 HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP đồng thẩm phán Tòa án tối cao, nếu đối tượng phạm tội từ 5 lần trở lên và lấy hành vi phạm tội là nghề kiếm sống, thì đối tượng thuộc diện phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Đây là tình tiết định khung tăng nặng tại điểm b khoản 2 Điều 173 BLHS. Tuy nhiên, khi định giá chính xác các lần thực hiện hành vi phạm tội nêu trên thì xác định có một lần thực hiện vụ thứ ba dưới 2 triệu đồng, không thỏa mãn các quy định trong hướng dẫn nên không xử lý đối tượng theo tình tiết định khung này được. Điều này cho thấy, việc tiến hành định giá tài sản chính xác có ý nghĩa rất lớn trên thực tiễn giải quyết vụ án hình sự. Kiểm sát viên phải tiến hành kiểm sát chặt chẽ thời hạn định giá tài sản được quy định tại Điều 216 BLTTHS. Theo đó, việc định giá tài sản và trả kết luận định giá tài sản thực hiện theo thời hạn nêu trong văn bản yêu cầu định giá tài sản. Trong trường hợp Hội đồng định giá không thể tiến hành trong thời gian mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu, Hội đồng định giá tài sản phải kịp thời thông báo bằng văn bản cho phía cơ quan yêu cầu và nói rõ lý do cho cơ quan và người có yêu cầu định giá biết. Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc thành lập Hội đồng định giá tài sản có đúng quy định của pháp luật không, trường hợp không đúng thì kết quả định giá tài sản đó không có giá trị chứng minh vì không đảm bảo tính hợp pháp của chứng cứ. Vì vậy, KSV cần kiểm sát chặt chẽ việc thành lập Hội đồng định giá tài sản được quy định tại Điều 5 Nghị định 26/NĐ-CP ngày 2/3/2005. Sau khi có quyết định thành lập Hội đồng định giá tài sản, KSV cần kiểm sát các thành viên trong hội đồng định giá có đúng quy định của pháp luật không, các thành viên được tham gia trong Hội đồng định giá tài sản được quy định tại Điều 5 Nghị định 26/NĐ-CP có quy định như sau: KSV cần kiểm sát về số lượng thành viên trong Hội đồng cũng như các tiêu chuẩn của thành viên tham gia hội đồng định giá tài sản. Mọi trường hợp không đúng thành phần KSV 58 phải đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu thay đổi ngay, vì việc sai thành phần sẽ dẫn đến giá trị kết quả định giá không được công nhận, không có giá trị chứng minh trong vụ án hình sự. Theo đó, những trường hợp sau đây sẽ không được tham gia trong hội đồng định giá tài sản: (1) Đã tiến hành tố tụng với tư cách là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký toà án hoặc đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người phiên dịch trong vụ án đó; (2) Đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp pháp, người thân thích của những người đó hoặc là bị can, bị cáo trong vụ án; (3) Được yêu cầu tham gia Hội đồng định giá lại tài sản mà mình đã tham gia định giá; (4) Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng người đó có thể không vô tư trong khi thực hiện việc định giá. Việc định giá tài sản do Hội đồng định giá tài sản tiến hành. Phiên họp định giá tài sản có thể được thực hiện tại nơi có tài sản được định giá hoặc nơi khác theo quyết định của Hội đồng định giá tài sản. Theo đó, trong phiên họp định giá tài sản này, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán cũng có thể tham dự phiên họp nhưng phải báo trước cho Hội đồng định giá tài sản biết; khi được sự đồng ý của Hội đồng định giá tài sản thì có quyền đưa ra ý kiến. Kiểm sát viên cần kiểm sát kết luận định giá tài sản. Kết luận này phải ghi rõ kết luận về giá của tài sản theo nội dung yêu cầu định giá và các nội dung khác theo quy định của pháp luật. Kết luận định giá tài sản phải có đầy đủ chữ ký của các thành viên trong Hội đồng định giá tài sản và phải được lưu trong hồ sơ định giá tài sản. Kết luận định giá tài sản phải được gửi cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu định giá tài sản, người yêu cầu định giá tài sản trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra kết luận định giá. Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá bao gồm những nội dung được quy định tại Điều 18 Nghị định 26/NĐ-CP. Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được kết luận định giá tài sản, cơ quan đã yêu cầu và người yêu cầu định giá tài sản phải gửi kết luận định giá tài sản cho Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. KSV cần kiểm sát chặt chẽ quy trình nêu trên. Để làm sáng tỏ nội dung kết luận định giá tài sản, cơ quan yêu cầu định giá tài sản có quyền yêu cầu Hội đồng định giá tài sản giải thích kết luận định giá; hỏi thêm Hội đồng định giá tài sản về những tình tiết cần thiết. Trường hợp định giá tài sản mà tài sản đó bị thất lạc hoặc không còn, Hội đồng định giá tài sản sẽ căn cứ vào hồ sơ của tài sản trên cơ sở các thông tin, tài liệu thu thập được về tài sản cần định giá để xác định giá trị tài sản. Trên thực tiễn, khi giải quyết một số vụ án hình sự, hoạt động này không được thực hiện nghiêm túc, dẫn đến ảnh hưởng lớn đến định tội, định khung hình phạt và giải quyết phần bồi thường thiệt hại không chính xác. Ví dụ: ngày 1/2/2013, đối tượng X thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là 05 chỉ vàng của bà H. Sau đó, X lại trộm cắp chiếc đồng hồ đeo tay của bà H trị giá 15 triệu đồng. Khi phạm tội lần 2, bị bắt quả tang và tang vật thu giữ được, còn 05 chỉ vàng thì đối tượng đã bán và ăn tiêu hết. Tại tiệm vàng, nơi đối tượng bán có xác nhận là đã mua vàng của X nhưng không nhớ mua số lượng bao nhiêu, loại gì và giá như thế nào vì cũng đã bán cho các đối tượng khác. Cơ quan điều tra cho rằng không cần thiết định giá 05 chỉ vàng vì chiếc đồng hồ định giá 15 triệu đã đủ để khởi tố đối với X. Trường hợp này, KSV cần yêu cầu Cơ quan điều tra thu thập chứng cứ về 05 chỉ vàng mà bị hại đã khai X lấy và X đã nhận để định giá, xác định chính xác khung hình phạt cần áp dụng đối với X và mức tiền mà X cần phải bồi thường cho bị hại H. Kiểm sát viên phải kiểm sát việc thông báo kết luận định giá tài sản của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cho bị can, bị cáo, bị hại và người tham gia tố tụng khác có liên quan. Những người này có quyền trình bày ý kiến về kết luận định giá và có quyền đề nghị định giá lại tài sản. Trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không chấp nhận đề nghị của những người này thì phải thông báo cho họ bằng văn bản và nêu rõ lý do. Khi có nghi ngờ về kết luận định giá tài sản lần đầu, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tự mình hoặc theo đề nghị của người bị buộc tội, người tham gia tố tụng khác ra văn bản yêu cầu định giá lại tài sản. Việc định giá lại tài sản do Hội đồng định giá tài sản cấp trên trực tiếp thực hiện. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa kết luận định giá tài sản lần đầu với kết luận định giá tài sản lại về giá trị của tài sản cần định giá, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ ra văn bản yêu cầu định giá lại tài sản lần thứ hai. Việc định giá tài sản lại lần thứ hai sẽ do Hội đồng định giá tài sản có thẩm quyền thực hiện. Kết luận định giá lại trong trường hợp này được sử dụng để giải quyết vụ án. Trong trường hợp do tính chất đặc biệt của vụ án hoặc do yêu cầu phải bảo đảm bí mật, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cụ thể là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao sẽ quyết định việc định giá lại tài sản khi có kết luận định giá lần thứ hai của Hội đồng định giá tài sản. Việc định giá tài sản trong trường hợp đặc biệt này sẽ do Hội đồng định giá tài sản mới thực hiện. Những người đã tham gia định giá trong những lần trước đó sẽ không được tham gia trong Hội đồng định giá tài sản lại lần này. Kết luận định giá trong trường hợp đặc biệt này được sử dụng để giải quyết vụ án. Trên đây là một số nội dung về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động giám định và định giá tài sản theo quy định của BLTTHS năm 2015. Chúng tôi mong rằng những nội dung nêu trên sẽ được thực hiện thống nhất, đúng quy định của pháp luật trên thực tiễn./. 59
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.