Thông tin Giáo dục Quốc tế về Giáo dục đại học - Số 2/2012

pdf
Số trang Thông tin Giáo dục Quốc tế về Giáo dục đại học - Số 2/2012 30 Cỡ tệp Thông tin Giáo dục Quốc tế về Giáo dục đại học - Số 2/2012 702 KB Lượt tải Thông tin Giáo dục Quốc tế về Giáo dục đại học - Số 2/2012 0 Lượt đọc Thông tin Giáo dục Quốc tế về Giáo dục đại học - Số 2/2012 34
Đánh giá Thông tin Giáo dục Quốc tế về Giáo dục đại học - Số 2/2012
4.1 ( 14 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 30 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

LỜI GIỚI THIỆU Trong những năm đầu thế kỷ XXI chúng ta đang chứng kiến sự trỗi dậy ngoạn mục của các trường đại học nghiên cứu (ĐHNC) mới trên toàn thế giới. Đây quả là một hiện tượng thú vị và rất đáng nghiên cứu nếu chúng ta nhớ lại rằng tuyệt đại đa số các trường ĐHNC lừng danh toàn cầu đều là các trường có vài trăm năm tuổi, như University of Oxford đã thành lập từ năm 1096, University of Cambridge từ năm 1209, Đại học Havard từ năm 1636. Đại học Khoa học Công nghệ Hong Kong (HKUST) là một trường hợp, chỉ một thập niên sau ngày thành lập, đã bước vào hàng ngũ 10 trường hàng đầu ở châu Á và riêng ngành quản trị kinh doanh thì xếp thứ 48 trên toàn thế giới. Vì sao HKUST đạt được một thành tựu ấn tượng như vậy? Bối cảnh lịch sử, đặc điểm địa chính trị, chính sách dùng người, cơ chế quản trị của HKUST đã tác động đến chất lượng hoạt động của nhà trường như thế nào, và liệu chúng ta có thể tái lập một thành công ngoạn mục như thế, hay ít nhất liệu có thể học được gì từ những nhân tố tạo ra sự xuất sắc đó? Bản báo cáo “Sự trỗi dậy của các trường ĐHNC: Đại học Khoa học Công nghệ Hong Kong” của tác giả Gerard A. Postiglione trình bày một nghiên cứu sâu về HKUST như một trường hợp điển cứu sẽ giúp chúng ta tự tìm câu trả lời. Bài nghiên cứu này là một chương trong tập sách “Con đường dẫn đến sự ưu tú trong học thuật” do Ngân hàng Thế giới tổ chức thực hiện năm 2011, với chủ biên là hai học giả nổi tiếng Philip Altbach và Jamil Salmi, mà Bản tin TTQT về GDĐH của Viện Đào tạo Quốc tế, ĐHQG-HCM đã có dịp giới thiệu trong số 1-2012. Ban Biên tập Bản tin và người dịch trân trọng cảm ơn tác giả Gerald A.Postiglione và tổ chức Ngân hàng Thế giới đã cho phép chúng tôi sử dụng bản dịch tiếng Việt này cho bản tin. Toàn cảnh HKUST T Gerard A. Postiglione rước khi thế kỷ XIX kết thúc, hiệu trưởng Charles Eliot của Trường Đại học Harvard University đã khuyên tỷ phú John D. Rockefeller rằng cần phải có 50 triệu USD (khoảng 5 tỉ ngày nay) và 200 năm để tạo ra một trường đại học nghiên cứu (ĐHNC) (Altbach 2003). Khi bước sang thế kỷ mới, với khoảng trên 50 triệu USD1 của Rockefeller, University of Chicago đã chỉ cần có hai mươi năm để đạt đến vị trí trên đỉnh. Ở Châu Á, ngay trước thời điểm bước sang thế kỷ này, trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hong Kong vừa thành lập đã chỉ mất mười năm và ít hơn một phần mười con số mà Eliot đưa ra để trở thành một trong mười trường ĐHNC hàng đầu của châu Á. 1, 50 triệu US$ năm 1900 khoảng chừng bằng 3 tỉ US$ năm 2000 Thông tin Quốc tế về Giáo dục Đại học, số 2-2012 Trang 3 Toàn cầu hóa đã làm cho việc xây dựng một trường ĐHNC thành ra nhanh hơn nhiều, và rút ngắn quãng thời gian mà những nước có nền kinh tế đang lên nhanh chóng phải chờ để có được một thành tựu như thế. Vì lý do đó, mô hình hiện nay của các trường ĐHNC đẳng cấp quốc tế(ĐCQT) đã phần nào chuyển từ những trường mất cả thế kỷ để trưởng thành sang những trường đạt được kỳ công này trong một thời gian ngắn hơn trong một thời đại mới cạnh tranh sôi nổi về kinh tế tri thức. Ngay cả trong thế giới “hậu Mỹ” với sự trỗi dậy của phần còn lại — nổi bật là Ấn Độ và Trung Quốc, nơi lưu giữ một kho báu là nền văn minh cổ xưa và một lịch sử quốc gia mạnh mẽ — có vẻ như một thế kỷ là quá dài để chờ đợi một trường ĐHNC mới trở nên chín muồi (Zakaria 2009). Bởi vậy, các nước đều cân nhắc đến việc xây dựng những trường ĐHNC mới đồng thời với việc tăng cường năng lực nghiên cứu của những trường ĐH hoa tiêu truyền thống của quốc gia. Như chương này sẽ cho thấy, một chiến lược hai hướng sẽ nhạy cảm hơn với một nền kinh tế trên đường phát triển hơn là một cách tiếp cận theo lối thông thường là tập trung nguồn lực vào những trường ĐH dẫn đầu đang có (Ding 2004; Altbach and Balán 2007; Salmi 2009). Chương này khảo sát một trường hợp ở Hong Kong, Trung Quốc trong GDĐH — sự thành lập và phát triển của Đại học Khoa học và Công nghệ Hong Kong (Hong Kong University of Science and Technology, viết tắt là HKUST) và những thành tựu chưa từng có tiền lệ của nó trong việc trở thành một ĐHNC có thứ hạng trên trường quốc tế chỉ trong vòng một thập kỷ từ ngày thành lập năm 1991. Sự trỗi dậy nhanh chóng của trường ĐH này xoay quanh một số nhân tố. Mặc dù khó lòng nhân bản lại ở một nơi nào khác, sự phối hợp các nhân tố như thế rất đáng được xem xét chi tiết. Những ví dụ này minh họa rằng có thể xây dựng một trường ĐHNC thành công như thế nào khi nhà trường nhận thức được sâu sắc cơ hội của mình trong một nền kinh tế và môi trường chính trị thay đổi nhanh chóng; chủ động trong cách tiếp cận để chuyển những hỗ trợ tiềm năng thành nguồn vốn và vượt qua những rào cản có thể có trong xã hội; khéo léo trong việc lập kế hoạch tuyển dụng những giảng viên hàng đầu; nhấn mạnh tính chất độc nhất của nhà trường và để lại một cách tồn tại ổn định trong hệ thống GDĐH hiện tại. Những mô hình, cách thức được lựa chọn trong trường hợp điển cứu này sẽ cộng hưởng với điều kiện của những nền kinh tế mới nổi. Tuy vậy, bản chất phức tạp và đan dệt lẫn nhau, cũng như quá trình diễn ra trong một môi trường đang thay đổi này sẽ khiến bất cứ nỗ lực tạo ra ĐHNC ĐCQT nào nằm ngoài các điều kiện cụ thể đều là những nỗ lực vô hiệu. Sau khi xác định những nhân tố chính chung quanh việc thành lập và xây dựng HKUST, chương này sẽ thảo luận sâu hơn về những vấn đề lớn của việc xây dựng trường ĐHNC. Những nhân tố chính cho HKUST H KUST có thuận lợi của những năm đầu dưới chính quyền thuộc địa để ủ ấp văn hóa đại học nghiên cứu trong hệ thống GDĐH thuộc địa Anh. Vì những trường ĐH khác của Hong Kong cũng vẫn trung thành với di sản và đặc trưng của trường họ, trường ĐH này tự phân biệt mình với hiện trạng bằng sự thấy trước vai trò tiềm năng của một ĐH về khoa học và công nghệ trong một Hong Kong thuộc về Trung Quốc trong tương lai. Nó khởi động hàng loạt các tiêu chuẩn rút cục có thể thấy ở nhiều trường ĐH khác. Những tiêu chuẩn đó là đặt nặng vai trò của nghiên cứu ngang với giảng dạy, dựa vào cách tiếp cận “dám làm dám chịu” để phát triển, bổ nhiệm thay vì bầu chọn các trưởng khoa, và bắt buộc sinh viên học các môn khoa học xã hội và nhân Thông tin Quốc tế về Giáo dục Đại học, số 2-2012 Trang 4 văn ngoài chuyên ngành khoa học và kỹ thuật của họ2. Trong thực tế, chính sách này diễn ra như một phần của xu hướng chung về toàn cầu hóa trong GDĐH. Việc thành lập trường ĐH này trùng hợp với việc sáng lập Hội đồng Tài trợ Nghiên cứu Hong Kong, một tổ chức cung cấp tài chính để tăng cường năng lực nghiên cứu của các trường ĐH và cao đẳng ở Hong Kong (UGC 2000). Ngày nay, Hội đồng này vẫn là nguồn tài trợ kinh phí nghiên cứu chủ yếu thúc đẩy các trường ĐH tập trung vào giảng dạy theo lối truyền thống chuyển sang hướng về nghiên cứu nhiều hơn. Tuy nhiên, HKUST có một khởi động nhanh hơn thế. Tổng số kinh phí mà nó nhận được tăng đều để đạt đến mức độ có thể so sánh được với những trường ĐH khác và ngày nay nó vẫn dẫn đầu về số lượng dự án xin tài trợ được chấp thuận. Chẳng hạn trong năm 2009, số dự án thành công trong việc xin tài trợ của HKUST đạt đến 47%, vượt xa con số 36% của hai trường ĐHNC hàng đầu khác của Trung Quốc. Số tiền được tài trợ cho nghiên cứu tính trên đầu giảng viên cao gần gấp hai so với bất cứ trường ĐH cùng hạng nào khác. Bởi vậy, cùng với sự thành lập Hội đồng Tài trợ Nghiên cứu, thời điểm thành lập HKUST với tư cách là một trường ĐHNC quả là lý tưởng. Bước vào thập kỷ 90, bốn “con cọp” châu Á (Hong Kong; Hàn Quốc Singapore; và Đài Loan) làm tràn ngập các quốc gia láng giềng với những sản phẩm giá rẻ hơn. Với một dân số ngày càng có học hơn, những con cọp này đã nâng cấp các doanh nghiệp nội địa của họ theo hướng tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng nhiều hơn. Trong quá trình nâng cấp các doanh nghiệp này, chính phủ Singapore; Hàn Quốc; và Đài Loan đã đặt ra một sân chơi cho các doanh nghiệp công nghệ cao. Mặc dù những doanh nghiệp dựa vào nhân công lao động của Hong Kong đã bắt đầu di chuyển qua biên giới để vào nội địa Trung Quốc, chính phủ vẫn tránh công khai tài trợ cho những sáng kiến đề xướng công nghệ cao, thay vào đó họ chọn cách dựa vào kinh tế thị trường làm động lực. Họ tự giới hạn mình trong việc hỗ trợ đầu tư hạ tầng, trong đó có hạ tầng cho HKUST, là điều đã khiến trường này nhanh chóng trở thành biểu tượng trung tâm của việc nâng cấp công nghệ cao của Hong Kong. Nó tập trung vào khoa học và công nghệ trong một Châu Á đang trỗi dậy cộng hưởng với tầm nhìn phổ biến về chuyển giao tri thức cho một Trung Quốc hiện đại. Tầm nhìn này được khoa kinh doanh và quản lý của HKUST củng cố thêm trong một thành phố thương mại như Hong Kong. Không may là chính phủ đã không thành công khi dựa vào những lực lượng thị trường để biến Hong Kong thành một trung tâm kỹ thuật cao và do vậy họ đã làm giới hạn vai trò tiềm năng của trường ĐH trở thành người tiên phong cho sự trỗi dậy của Hong Kong. Thị trường bất động sản mạnh mẽ cũng như lớp quan chức thứ hai trong cương vị lãnh đạo Hong Kong sau khi giao trả về Trung Quốc đã không làm gì nhiều để hỗ trợ cho Hong Kong phát triển như một trung tâm công nghệ cao, bằng cách đó họ đã đưa những cơ hội ấy về phía bắc nơi Thượng Hải trở thành người chủ động hưởng lợi3. 2. Hiệu trưởng đầu tiên của HKUST, Woo Chia-wei, chịu ảnh hưởng thời ông làm nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ ngành vật lý ở University of California, San Diego, và 11 năm sau, làm Phó Hiệu trưởng Đào tạo của trường này, về việc nhà trường yêu cầu sinh viên khoa học và công nghệ phải dành 40% số môn học của họ cho khoa học xã hội và nhân văn. 3. Sự hỗ trợ sau đó của nhà nước về việc thành lập một trạm không gian, một ý tưởng phôi thai từ năm 1999 theo mô hình Thung lũng Silicon, đã thất bại cay đắng khi bong bóng chứng khoán công nghệ bắt đầu xẹp. Trạm không gian này sau đó được coi như một bất động sản cao cấp hơn là một nơi mà các công ty có thể tạo ra bước nhảy vọt của Hong Kong vào thế kỷ 21. Thông tin Quốc tế về Giáo dục Đại học, số 2-2012 Trang 5 Sự trỗi dậy nhanh chóng của HKUST cũng đã được hỗ trợ bởi thời điểm mà nó ra đời, ngay sau quyết định của chính phủ năm 1989 về việc tăng gấp đôi số chỗ cho sinh viên đại học. Quyết định này diễn ra theo sau sự kiện Quảng trường Thiên an môn, khi nhiều người có tiềm năng làm khoa học đáng lẽ sẽ học tập và nghiên cứu tại trường này thì đã ra các trường ĐH nước ngoài để theo đuổi việc học. Khi việc tản cư khỏi Hong Kong bắt đầu gia tăng trong thập kỷ 90, chạm đến mức khá cao 65.000 người một năm, trong đó có nhiều ngừơi có học vấn cao, chính phủ bắt đầu tăng gấp đôi số sinh viên vào ĐH. Việc mở rộng này sẽ khó đạt được nếu không thành lập trường ĐH mới này năm 1991. Tỉ lệ hồi cư của dân Hong Kong tăng cao vào giữa thập kỷ 90 khi họ cảm thấy đủ an toàn để trở về, dù có hay không có hộ chiếu nước ngoài4. Nhân tố thành công quan trọng nhất của HKUST là sự tuyển dụng các nhà khoa học và học giả tài năng lỗi lạc xuất chúng. Tất cả giảng viên trường này đều có bằng tiến sĩ, 80% lấy bằng tiến sĩ hoặc từng làm việc tại 24 trường ĐH hàng đầu trên thế giới. Nhà trường đã tuyển dụng loại giảng viên tầm cỡ này từ thế hệ các học giả lớn trong số người Hoa ở nước ngoài. Thế hệ học giả này đã rời Trung Quốc sang Đài Loan, rồi sau đó học tập tại nước ngoài, thường là ở Hoa Kỳ, đã bị thu hút bởi những thay đổi đang diễn ra ở Trung Quốc trong thập kỷ đầu tiên của cải cách kinh tế và sự mở cửa ra thế giới bên ngoài bắt đầu từ tháng 12 năm 1978. Ngày càng nhiều các nhà khoa học Hoa kiều ở các trường ĐH Hoa Kỳ đạt đến đỉnh cao sự nghiệp. HKUST tuyển dụng chủ yếu trong nhóm các nhà khoa học tài năng sinh ra ở Đài Loan hay Trung hoa lục địa và được đào tạo ở nước ngoài, chủ yếu là các trừơng ĐH Hoa Kỳ, là điều các trường ĐH khác ở Hong Kong ít làm vào lúc đó. Woo Chia-wei, hiệu trưởng đầu tiên của HKUST, là một thành viên của thế hệ độc nhất các nhà khoa học Trung Quốc ấy. Là một người vốn được đào tạo thành nhà vật lý, Woo cũng đã từng là hiệu trưởng của một trường ĐHNC chủ chốt ở Hoa Kỳ. Thực tế, ông đã là người gốc Trung Quốc đầu tiên lãnh đạo một trường ĐH lớn của Mỹ. Ông cũng là một bộ phận của mạng lưới các nhà khoa học Trung Quốc tại Hoa Kỳ. Một điều nổi bật ở HKUST là một thế hệ lớn tuổi các nhà khoa học đã đạt được uy tín quốc tế trong lãnh vực chuyên môn của họ đã cảm thấy đủ an toàn cho sự nghiệp của họ để rời bỏ vị trí vững chắc của họ và chuyển đến Hong Kong sinh sống. Sự thay đổi này cho thấy niềm tin vững chắc của Hiệu trưởng Woo, người không chỉ trông nom việc thành lập và những bước xây dựng ban đầu của HKUST mà còn là một phương tiện để tụ hội những nhà khoa học lỗi lạc xuất chúng và nổi tiếng thế giới. Với tư cách là hiệu trưởng đầu tiên của HKUST, Woo đã đặt ra nhịp điệu phát triển của HKUST cho hai đời hiệu trưởng kế tiếp. Để tiếp tục con đường trở thành một trường ĐH về khoa học và kỹ thuật đứng đầu ở châu Á, HKUST đã chọn Paul Ching-Wu Chu làm hiệu trưởng đời thứ nhì. Chu vốn là người tiên phong trong lãnh vực siêu dẫn nhiệt độ cao. Khi là T. L. L. Temple Chair of Science ở the University of Houston và là giám đốc sáng lập của Trung tâm Siêu dẫn Texas, ông cũng đồng thời là tư vấn và thành viên khách mời của Phòng Thí nghiệm Bell Laboratories, Los Alamos National Laboratory, the Marshall Space Flight Center, Argonne National Laboratory, và DuPont. Chu nhận Huân chương Khoa học 4. Do sự kiện Thiên an môn, một số nhà khoa học Trung Quốc học tập ở nước ngoài thời gian đó được đương nhiên bảo đảm quyền cư trú ở Mỹ, và một số ít người sau đó đã tìm việc làm trong lĩnh vực học thuật ở Hong Kong. Tuy thế, hầu hết các nhà lãnh đạo khoa học hàng đầu được HKUST tuyển dụng là người đã học tập ở Đài Loan, Trung Quốc. Thông tin Quốc tế về Giáo dục Đại học, số 2-2012 Trang 6 Quốc gia năm 1988, vinh dự cao nhất của một nhà khoa học. Ông cũng được nêu danh là Nhà Nghiên cứu Xuất sắc Nhất trong tờ U.S. News and World Report năm 1990, và được Tòa Bạch Ốc bổ nhiệm là một trong 12 nhà khoa học đánh giá các ứng viên cho Huân chương Khoa học Quốc gia. Một trong những đóng góp chính của ông cho HKUST là việc thành lập Viện Nghiên cứu Cao cấp. Kế nhiệm Paul Ching-Wu Chu, người về hưu cuối năm 2009, là Tony Chan, người đã từng là trợ lý giám đốc của Quỹ Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ phụ trách về khoa học vật lý và toán. Ở vị trí đó, ông hướng dẫn và quản lý quỹ nghiên cứu khoảng 1,29 tỷ USD mỗi năm cho các ngành khoa học vũ trụ, vật lý, hóa, toán, khoa học vật liệu, và các hoạt động liên ngành. Mặc dù ông mới chỉ vừa bắt đầu nhiệm kỳ hiệu trưởng tại HKUST, ngừơi ta mong ông sẽ kết hợp kỹ năng của một nhà khoa học hàng đầu với một nhà quản lý ở đẳng cấp quốc tế. Một cân nhắc trọng yếu trong việc tuyển dụng ở HKUST giai đoạn giữa và sau này T hập kỷ 1990 là thời kỳ sự thịnh vượng trào dâng trong kinh tế, khi đầu tư của Trung Quốc đã đẩy nền kinh tế này đến mức kỷ lục. Điều này đã giúp HKUST giành được nguồn tài chính khá lớn của chính phủ, mặc dù con số này vẫn còn mờ nhạt nếu so sánh với những trường ĐHNC hàng đỉnh của Hoa Kỳ. Cũng như những trường ĐH khác ở Hong Kong, HKUST nhận kinh phí thường xuyên trên cơ sở ba năm của Ủy ban Tài trợ Đại học và nhận kinh phí nghiên cứu của Hội đồng Tài trợ Nghiên cứu mới thành lập. Tuy nhiên, không như những trường khác, HKUST không có cựu sinh viên, những người có thể tài trợ cho nhà trường bằng những nguồn tiền riêng. Lương giảng viên đạt tới mức có thể so sánh được với mức lương ở các nước phát triển, khiến việc tuyển dụng người ngoài Hong Kong dễ dàng hơn, mặc dù tiền lương không phải là nhân tố chủ chốt trong phương trình tuyển dụng nhân sự hàng đỉnh. Đối với nhiều nhà khoa học lỗi lạc, chuyển đến nơi khác sinh sống có nghĩa là di chuyển từ một căn nhà thoáng rộng kiểu Mỹ sang một căn hộ nhỏ hơn ở một khu phố nào đấy của Hong Kong, cộng với sự chia cắt gia đình, những người vốn trước đây học hay làm việc không xa lắm với họ. Những ngày gần đến thời điểm giao lại lãnh thổ tiêu biểu cho một bước ngoặt lịch sử quan trọng đối với các nhà khoa học Trung Quốc, làm mạnh thêm cảm xúc gắn bó của họ với Trung Quốc. Những tài năng khoa học đã trụ lại ở Đài Loan trong ba thập kỷ đã giúp cho nền kinh tế nơi này rất thành công trong sản xuất công nghệ cao; lần đầu tiên tập trung chú ý vào sự phát triển của Hong Kong, đặc biệt là việc mở rộng hệ thống GDĐH. Đối với giới hàn lâm người Mỹ gốc Hoa, sự thay đổi Thông tin Quốc tế về Giáo dục Đại học, số 2-2012 Trang 7 này tập trung vào chỗ đó là một cơ hội quan trọng và lớn lao để có đóng góp đáng kể cho quan hệ Hoa Kỳ và Trung Quốc. Tóm lại, các nhà khoa học với tình cảm gắn bó mạnh mẽ với Trung Quốc phấn chấn với sự tăng cường mở cửa và tiến bộ kinh tế của đất nước. Đối với họ, sự tiến bộ này mang lại cơ hội để tham gia vào một sự kiện trọng đại và thể hiện vai trò của họ trong hiện đại hóa Trung Quốc. Theo ý nghĩa đó, thời điểm đóng vai trò then chốt đối với việc tuyển dụng giới học thuật này. Nếu HKUST được thành lập trước đó một thập kỷ, khi chưa rõ là vị trí thuộc địa của Hong Kong sẽ kết thúc như thế nào vào năm 1997, thì hầu hết những người ấy sẽ không chọn làm việc tại Hong Kong. Một nhân tố quan trọng đối với các học giả này là HKUST bảo đảm một mức độ học thuật hiện chưa có ở Trung Hoa lục địa. Theo cách đó, HKUST đã tạo ra một chỗ thích hợp được thấy trước qua tầm nhìn của nhà trường và được hỗ trợ bằng việc tuyển dụng hai thế hệ học giả Trung Quốc có nền tảng ngoại quốc. Nó tiêu biểu cho một cơ hội lịch sử độc nhất để làm việc trong một nền kinh tế năng động và một hệ thống GDĐH đang mở rộng nhanh chóng. Nó đã tạo ra một không khí trí tuệ lành mạnh bên cạnh một Trung Quốc theo chủ nghĩa cải lương và đang nổi bật trên toàn cầu, đồng thời với hệ thống nâng cấp tài trợ công cho hoạt động nghiên cứu ở các trường ĐH Hong Kong. Mặc dù tốc độ khởi động một trường ĐHNC mới có thể được đẩy nhanh bằng một số nhân tố chủ chốt, một số nhân tố không dễ nhân bản ở nơi khác. Những nhân tố như một nền kinh tế năng động, tự do học thuật, và sự gần gũi với Trung Hoa lục địa đã góp phần vào sự phát triển chung của cả hệ thống GDĐH ở Hong Kong. Mỗi một hệ thống GDĐH có những điều kiện độc nhất mà một số có thể thành ra cơ hội cho việc thành lập các trường ĐHNC. Một trường ĐHNC không thể được tạo ra trong khoảng không. HKUST được làm tổ trong một hệ thống ở đó nó được xác định là một chỗ thích hợp, nhưng với một tầm nhìn vượt xa giới hạn của giới học thuật Hong Kong. Tuy các trường ĐH ở Hong Kong hiện nay đang được nhà nước cung cấp tài chính, quyền tự chủ của họ vẫn được luật pháp bảo vệ5. Cuối thế kỷ 20, sự cạnh tranh giữa ba trường ĐHNC hàng đầu (the University of Hong Kong, the Chinese University of Hong Kong, and HKUST) về nguồn tài trợ và về cương vị học thuật đối với cùng một kho bạc nhà nước cũng đã tạo ra một động lực mới cho GDĐH ở Hong Kong. Ở một mức độ nhất định, cách tiếp cận này đã đóng góp cho sự trỗi dậy của toàn bộ hệ thống các trường ĐH. Sau khi thành lập HKUST, cái bánh tài trợ của nhà nước đã được làm cho lớn ra. Tuy vậy, nguồn kinh phí đó vẫn được cấp trên cơ sở cạnh tranh. Thay vì dùng một chiến lược truyền thống là tập trung nguồn lực vào một hay vài trường đã là những đơn vị hoa tiêu, Hong Kong dùng một chiến lược hai hướng trong đó nguồn lực không tập trung vào một nơi dựa trên sự cắt giảm những nơi khác. Nó dùng chiến lược tạo ra các ĐHNC trong đó, ít ra là trên lý thuyết các trường bổ sung lẫn nhau và bằng cách đó tăng cường năng lực nghiên cứu cho cả hệ thống. Ủy ban Tài trợ ĐH khẳng định một cách tiếp cận ở tầm hệ thống nhằm xây dựng một hệ thống phối hợp lẫn nhau trong đó toàn bộ nền GDĐH được xem như một lực lượng tổng thể; hệ thống đó coi trọng vai trò 5. Những trường này bao gồm Chinese University of Hong Kong, City University of Hong Kong, Hong Kong Baptist University, Hong Kong Polytechnic University, Hong Kong University of Science and Technology, Lingnan University, và University of Hong Kong. Ngoại lệ độc nhất là quyết định gần đây dành cương vị đại học cho Shue Yan College, trường ĐH tư đầu tiên ở Hong Kong. Open University of Hong Kong không bao gồm trong danh sách trên vì nó vốn là một trường được nhà nước cấp ngân sách hoạt động trước khi chuyển thành mô hình tự chủ tài chính. Thông tin Quốc tế về Giáo dục Đại học, số 2-2012 Trang 8 đặc thù của từng trường đồng thời hợp tác với nhau và gắn kết với nhau bằng những hoạt động phối hợp mạnh mẽ (UGC 2010b). Phạm vi thực tế của cách tiếp cận như thế hẳn nhiên là còn phải tranh luận. Vẫn có nhiều nhà quan sát tín nhiệm cách tiếp cận này, ít ra là một phần, vì lý do bốn trong tám trường ĐH ở Hong Kong được xếp trong 10 trường hàng đầu của châu Á (theo bảng xếp hạng Times Higher Education 2008). Phần còn lại của chương này sẽ khảo sát chi tiết hơn về trường hợp HKUST. Những nhân tố độc nhất trong sự hình thành và phát triển của trường này sẽ được chú ý đặc biệt, và chương này sẽ khẳng định một lần nữa những điều kiện cho việc xây dựng các trường ĐHNC trong những nền kinh tế mới nổi. Bối cảnh của HKUST N hững trường ĐH mới, dù là công hay tư, là một phần của xã hội và của hệ thống GDĐH. HKUST được thành lập trong một xã hội năng động cao độ, với một hệ thống GDĐH vẫn còn chưa chuyển từ tinh hoa sang đại chúng. Hong Kong vẫn còn là một khu vực tương đối nhỏ với 422 dặm vuông và một số vùng đông dân nhất thế giới. Đặc điểm của GDĐH được định hình từ lịch sử của nó với tư cách thuộc địa của Anh từ 1842 đến 1997 và sau đó được trao trả về cho Trung Quôc trong một bối cảnh một quốc gia hai hệ thống (So and Chan 2002). Mặc dù phần lớn nghiên cứu được thực hiện bằng tiếng Anh, ở đó có hai ngôn ngữ chính thức: Tiếng Trung Quốc (Quảng Đông) và tiếng Anh. Trường University of Hong Kong thành lập năm 1911 và Chinese University of Hong Kong năm 19636. Tỉ lệ những người trong độ tuổi vào ĐH là 2% năm 1981 và 8% năm 1989, là lúc nhà nước có quyết định tăng gấp đôi tỉ lệ này đến 16% trước năm 1994 (UGC 1996). Trong thời kỳ đó, bốn trường cao đẳng kỹ thuật đã được nâng cấp lên thành ĐH, và đến cuối năm 1997, Hong Kong có 7 trường ĐH tất cả (UGC 1999). Khủng hoảng tài chính châu Á bắt đầu từ 1998 đã phá hỏng mọi cuộc thảo luận về việc mở rộng tiếp tục. Khi việc mở rộng rút cục diễn ra, thì chủ yếu là thông qua những ngành học hai năm cấp bằng á cử nhân ở các trường cao dẳng cộng đồng tư nhân (Postiglione 2008, 2009). Do vậy các trường ĐH đã nâng cấp năng lực nghiên cứu, bảo toàn tự do học thuật, và chuyển đổi từ những ngành đào tạo cử nhân ba năm thành bốn năm, bằng cách đó đưa hệ thống tới chỗ nhất quán với hai đối tác thương mại chính của mình là Trung Hoa lục địa và Mỹ (UGC 2002a, 2004a, 2004b). Hệ thống bốn năm cho phép HKUST đào sâu những khởi xướng nguyên thủy của mình được đề xuất từ năm 1991, về việc đem lại cho sinh viên một khối lượng kiến thức đáng kể về khoa học xã hội và nhân văn, hơn cả những gì đã được dạy trong những trường ĐH tổng hợp khác ở Hong Kong. Những đặc điểm cơ bản của HKUST N hững đặc điểm sau đây đã miêu tả những gì được quy thành nền tảng của HKUST: vị trí cao của nó trong nhiều bảng xếp hạng toàn cầu; vai trò và mục tiêu của nó. 6. The Chinese University of Hong Kong cũng có đặc điểm Mỹ ở một mức độ nhất định, do di sản truyền giáo Hoa Kỳ của nó, cũng như chương trình đào tạo bốn năm, và nhiều giảng viên được đào tạo trong các trường ĐH Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nó đã được thành lập khi chính phủ thuộc địa có vai trò thống trị, trong lúc HKUST được thành lập trong những năm cuối cùng của chính phủ thuộc địa mà tính chính đáng của nó đang bị nhiều người xem xét. Thông tin Quốc tế về Giáo dục Đại học, số 2-2012 Trang 9 Các bảng xếp hạng toàn cầu Vì cuốn sách này tập trung vào việc thành lập các trường ĐHNC, điều nổi bật là HKUST đã đạt được một điểm số ấn tượng trong nhiều bảng xếp hạng các trường hàng đầu (HKUST 2010d): (a) hạng 35 trong 200 trường hàng đầu thế giới năm 2009; (b) hạng 26 trong 100 trường hàng đầu thế giới về kỹ thuật và công nghệ thông tin năm 2008 (Times Higher Education 2008); (c) hạng 2 trong 200 trường ĐH hàng đầu Châu Á năm 2010; (d) hạng 39 trong 100 trường hàng đầu thế giới về kỹ thuật, công nghệ, và khoa học máy tính (số 1 trong các nước nói tiếng Hoa) năm 2010; và (e) hạng 52–75 trong bảng xếp hạng 100 trường hàng đầu thế giới về khoa học xã hội năm 20107. Vai trò, mục đích và mục tiêu của HKUST Hong Kong University of Science and Technology (a) đưa ra những chương trình hàng đầu cấp bằng thứ nhất và bằng sau đại học; (b) bao gồm các khoa chuyên ngành, đặc biệt là các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và kinh doanh; (c) đưa ra những môn khoa học xã hội và nhân văn chỉ đủ mức đem lại chiều rộng trí tuệ, nền tảng hiểu biết về bối cảnh và kỹ năng truyền thông giao tiếp cho một chương trình đào tạo mang tính kỹ thuật và cụ thể và cho một số công việc sau ĐH; (d) đưa ra các chương trình nghiên cứu cho số đông sinh viên ở từng lĩnh vực chuyên môn; và (e) đem lại một khoảng không gian đủ rộng cho giảng viên để họ có thể làm tư vấn và thực hiện các dự án hợp tác với doanh nghiệp trong các lãnh vực mà họ có kiến thức chuyên môn (UGC 2008). HKUST nhấn mạnh tầm quan trọng của tính chất độc nhất vào thời điểm Hong Kong còn xem các trường ĐH là những tổ chức tinh hoa. HKUST tuyên bố sẽ trở thành một “lực lượng dẫn đầu trong GDĐH”, một “người lãnh đạo giới học thuật toàn cầu”, “một tổ chức của sự thay đổi”, “một người tiên phong của những tiến bộ nổi bật trong nghiên cứu khoa học công nghệ và giáo dục ở Hong Kong, và ở lục địa” (HKUST 2010e). Trọng tâm này hỗ trợ cho khẳng định của Jamil Salmi là một trường ĐHNC đẳng cấp quốc tế phải dựa trên một tầm nhìn xa về phía trước, một tầm nhìn thật sự đổi mới” (Salmi 2009,57). Do vậy, một số mục tiêu của HKUST cũng phản ánh đặc điểm của nhũng trường ĐHNC khác trên thế giới: • Đem lại cho tất cả mọi sinh viên, bậc cử nhân cũng như hậu đại học, một trải nghiệm đại học rộng lớn bao gồm đào tạo tốt hơn trong lĩnh vực chuyên ngành mà họ đã chọn, một nền giáo dục đa dạng làm mạnh thêm tính sáng tạo, tư duy phản biện, một cái nhìn toàn cầu, một ý thức văn hóa, và một đời sống trong nhà trường chuẩn bị cho họ trở thành những nhà lãnh đạo cộng đồng và những ngừơi học suốt đời. • Đem lại một môi trường năng động và hỗ trợ trong đó giảng viên và nhân viên có thể liên tục phát triển trí tuệ và chuyên môn. 7. Dữ liệu ở các mục a, b, c, và d là từ hệ thống xếp hạng Academic Ranking of World Universities ở Thượng Hải. Tiêu chí xếp loại đối với khoa học xã hội (e) là kết quả của những phương pháp mà bảng xếp loại này đã dùng trong đó dữ liệu được phân bố cho nhiều chỉ báo khác nhau nhằm khảo sát bất cứ ảnh hưởng sai lệch đáng kể nào và kỹ thuật thống kê tiêu chuẩn được dùng để điều chỉnh các chỉ báo. Xem thêm tại địa chỉ http://www.arwu.org/ và tại địa chỉ: http:// www.arwu.org/FieldSOC2010.jsp. Thông tin Quốc tế về Giáo dục Đại học, số 2-2012 Trang 10 • Đem lại một môi trường và không khí cởi mở dẫn đến sự trao đổi tri thức, quan điểm, và những ý tưởng đổi mới giữa sinh viên, giảng viên và nhân viên, cũng như các học giả thỉnh giảng. • Trở thành một trường hàng đầu về nghiên cứu và đào tạo sau ĐH, theo đuổi tri thức trong cả hai lãnh vực cơ bản và ứng dụng và hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp, công ty trong việc đẩy mạnh cải tiến kỹ thuật và phát triển kinh tế. • Thúc đẩy và hỗ trợ sự phát triển kinh tế và xã hội của Hong Kong và làm phong phú thêm văn hóa của nó (HKUST 2010b). Sinh viên và đội ngũ giảng viên, chuyên viên nghiên cứu Những sinh viên đầu tiên được tuyển vào năm 1991 cho trường ĐH mới vừa thành lập này là một trong những hoạt động tối quan trọng của HKUST, bởi vì trong mắt công chúng, nhà trường chưa đạt được vị thế có uy tín. Về việc này, HKUST đã chọn cách tiếp cận chủ động, tập trung vào việc đưa nhà trường trực tiếp đến với nhiều bộ phận công chúng. Nó đã tự cởi mở với cộng đồng bằng cách tận dụng khuôn viên kỳ vĩ của mình để tạo điều kiện cho mọi khách tham quan có thể tiếp cận, nhất là những sinh viên tiềm năng và gia đình họ. Sức hấp dẫn chính của nó là cơ sở vật chất được thiết kế mới toanh với kiến trúc ấn tượng và tầm nhìn toàn cảnh của đồi núi, bờ biển bao quanh. Khoảng 250 trường trung học được mời gửi 2 đại diện học sinh đến dự lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng trường. Bên cạnh việc mở cửa cơ sở đào tạo ra công chúng, nhà trường còn sắp xếp tổ chức triển lãm trên toàn Hong Kong. Các giáo sư gặp gỡ sinh viên tương lai từng em một để cung cấp thông tin chung, mặc dù những cuộc triển lãm này không bao gồm việc tuyển sinh. Sinh viên chính thức được chọn qua một hệ thống trên toàn Hong Kong ngày nay được biết dưới tên gọi Hệ thống Tuyển sinh Liên kết các Trường theo Ngành học. Hệ thống này giúp học sinh trung học có thể dùng kết quả kỳ thi Kiểm tra Trình độ Nâng cao của Hong Kong để nộp hồ sơ xin học các chương trình cử nhân của 7 trường ĐH công và Viện Giáo dục Hong Kong. Trước khi HKUST mở cửa, nó đã xây dựng một kế hoạch về thành phần sinh viên cho ba khoa chủ yếu: sinh viên khoa học sẽ là 25 phần trăm, kỹ thuật 40 phần trăm, và quản trị kinh doanh 35 phần trăm. Đồng thời, 20 phần trăm tổng số sinh viên sẽ là sinh viên sau ĐH (Kung 2002, 5). Tỉ lệ này được duy trì ổn định cho đến năm 2009 (xem bảng 3.1). Tuy nhiên, tổng số sinh viên của trường sẽ được giữ ở mức dưới 10.000. Ấn tượng ban đầu gợi ý rằng con số này phù hợp với quy mô của nền kinh tế và giúp giữ vững những đặc điểm cụ thể của nhà trường. Tuy vậy, con số giảng viên có thể làm hỏng bức tranh (xem bảng 3.2). Năm 1991, Ủy ban Tài trợ Đại học cấp nguồn lực cho HKUST đào tạo 7.000 sinh viên, cho dù trong lúc đó hai trường ĐHNC khác đã tăng trưởng tói 12.000 sinh viên. Trong thời hiệu trưởng thứ nhì của HKUST, số sinh viên tăng đến 10.000 dựa trên lời hứa của chính phủ là sẽ hỗ trợ để duy trì tỉ lệ giảng viên/sinh viên là 12: 18. Lời hứa của chính phủ đã không được thực hiện khi số sinh viên tiếp tục tăng. Lời hứa không được thực hiện đã dập tắt kế hoạch làm tăng tỉ lệ giảng viên/sinh viên và tăng thêm gánh nặng cho đội ngũ giảng viên. Điều này đã làm giảm thời gian nghiên cứu của giảng viên và bất lợi cho nhuệ khí của họ. Khi tỉ lệ này tăng lên đến 19:1, ảnh 8. Hiệu trưởng Paul Chin-Wu Chu đã lãnh đạo HKUST từ đầu năm 2001 đến tháng 8 năm 2009. Thông tin Quốc tế về Giáo dục Đại học, số 2-2012 Trang 11
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.