Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp: Số 15/2018

pdf
Số trang Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp: Số 15/2018 68 Cỡ tệp Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp: Số 15/2018 3 MB Lượt tải Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp: Số 15/2018 0 Lượt đọc Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp: Số 15/2018 2
Đánh giá Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp: Số 15/2018
4.6 ( 8 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 68 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

www.nclp.org.vn VIỆN NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP THUỘC ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI Mục lục Số 15/2018 HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP: NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT 3 Quyền được tiếp cận thông tin và quyền bất khả xâm phạm về cuộc sống riêng tư PGS. TS. Nguyễn Ngọc Điện 10 Sự hình thành luật tập quán quốc tế trước bối cảnh thay đổi cơ bản TS. Lê Thị Anh Đào 21 Chuẩn mực quốc tế về bảo vệ quyền an toàn tình dục của trẻ em và sự tương thích trong Bộ luật Hình sự ThS. Vũ Thị Phượng BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT 27 Bàn về việc thành lập cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng ở nước ta PGS. TS. Vũ Công Giao - ThS. Đỗ Thu Huyền CHÍNH SÁCH 36 TS. NGUYỄN ĐÌNH QUYỀN (CHỦ TỊCH) TS. NGUYỄN VĂN GIÀU PGS,TS. NGUYỄN THANH HẢI PGS,TS. ĐINH VĂN NHÃ PGS,TS. LÊ BỘ LĨNH TS. NGUYỄN VĂN LUẬT PGS,TS. HOÀNG VĂN TÚ TS. NGUYỄN VĂN HIỂN PGS,TS. NGÔ HUY CƯƠNG TS. NGUYỄN HOÀNG THANH PHÓ TỔNG BIÊN TẬP PHỤ TRÁCH: TS. NGUYỄN HOÀNG THANH TRỤ SỞ: 27A VÕNG THỊ - TÂY HỒ - HÀ NỘI ĐT: 0243.2121204/0243.2121206 FAX: 0243.2121201 Email: nclp@qh.gov.vn Website: www.nclp.org.vn THIẾT KẾ: BÙI HUYỀN GIẤY PHÉP XUẤT BẢN: Vận dụng nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế tài sản ThS. Phan Phương Nam Số 438/GP-BTTTT NGÀY 29-10-2013 CỦA BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG THỰC TIỄN PHÁP LUẬT HÀ NỘI: 0243.2121202 42 Thông tin trên mạng và hệ thống hóa các loại hình thông tin trên mạng TS. Nguyễn Hoàng Thanh – ThS. Trần Thị Hoa TÀI KHOẢN: 51 Một số bất cập của pháp luật về giá và đề xuất hoàn thiện TS. Trần Vũ Hải – ThS. Đào Ánh Tuyết 59 PHÁT HÀNH - QUẢNG CÁO 0991000023097 VIỆN NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM (VIETCOMBANK), CHI NHÁNH TÂY HỒ MÃ SỐ THUẾ: 0104003894 KINH NGHIỆM QUỐC TẾ IN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN IN HÀ NỘI Cơ chế các đảng phái chính trị, các tổ chức xã hội một số nước tham gia kiểm soát quyền lực và những nội dung Việt Nam có thể tham khảo TS. Nguyễn Quang Anh GIÁ: 19.500 ÑOÀNG Ảnh bìa: Cột cờ Tổ quốc tại huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi Ảnh: ST LEGISLATIVE STUDIES www.nclp.org.vn INSTITURE FOR LEGISLATIVE STUDIES UNDER THE STANDING COMMITTEE OF THE NATIONAL ASSEMBLY OF THE S.R. VIETNAM Legis No 15/2018 STATE AND LAW 3 Right of Access to Information and Right to Privacy Prof. Dr. Nguyen Ngoc Dien 10 Formation of Customary International Law in Times of Fundamental Change. Dr. Le Thi Anh Dao 21 International Standards for Protection of Right of Sexual Safety for Children and the Consistences in the Penal Code LLM. Vu Thi Phuong EDITORIAL BOARD: Dr. NGUYEN DINH QUYEN (Chairman) Dr. NGUYEN VAN GIAU Prof, Dr. NGUYEN THANH HAI Prof, Dr. DINH VAN NHA Prof, Dr. LE BO LINH Dr. NGUYEN VAN LUAT Prof, Dr. HOANG VAN TU Dr. NGUYEN VAN HIEN Prof, Dr. NGO HUY CUONG Dr. NGUYEN HOANG THANH CHEF EDITOR IN CHARGE: TS. NGUYEN HOANG THANH DISCUSSION OF BILLS 27 Discussions of Establishment of a Specialized Anti-Corruption Agency in Vietnam Prof. Dr. Vu Cong Giao LLM. Do Thu Huyen OFFICE: 27A VONG THI - TAY HO - HA NOI ĐT: 0243.2121204/0243.2121206 FAX: 0243.2121201 Email: nclp@qh.gov.vn Website: www.nclp.org.vn POLICIES 36 Adoption of the Fairness Principle to the Property Tax Law LLM. Phan Phuong Nam LEGAL PRACTICE 42 51 59 Network Information and Classification of Information on Network Dr. Nguyen Hoang Thanh LLM. Tran Thi Hoa Limitations of Law on Price and Recommendations for Improvements Dr. Tran Vu Hai LLM. Dao Anh Tuyet DESIGN: BUI HUYEN LICENSE OF PUBLISHMENT: NO 438/GP-BTTTT DATE 29-10-2013 MINISTRY OF INFORMATION AND COMMUNICATION DISTRIBUTION HA NOI: 0243.2121202 ACCOUNT NUMBER: 0991000023097 LEGISLATIVE STUDY MAGAZINE VIETCOMBANK FOREIGN EXPERIENCE TAX CODE: 0104003894 The Mechanism of Political Parties, Social Organizations in Controlling Power of Foreign Countries and References for Vietnam. Dr. Nguyen Quang Anh PRINTED BY HANOI PRINTING JOINT STOCK COMPANY Price: 19.500 VND NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT QUYỀN ĐƯỢC TIẾP CẬN THÔNG TIN VÀ QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM VỀ CUỘC SỐNG RIÊNG TƯ Nguyễn Ngọc Điện* * PGS. TS. Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học hải ngoại (Pháp); GV. Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Thông tin bài viết: Từ khóa: quyền tiếp cận thông tin về cuộc sống riêng tư, quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, xung đột về quyền Lịch sử bài viết: Nhận bài : 11/06/2018 Biên tập : 10/07/2018 Duyệt bài : 17/07/2018 Tóm tắt: Việc thừa nhận cả quyền tiếp cận thông tin liên quan đến các chủ thể tư, đặc biệt là thông tin cá nhân và quyền bất khả xâm phạm về cuộc sống riêng tư trên bình diện quan hệ công tất yếu dẫn đến sự xung đột giữa hai quyền này. Vấn đề đặt ra là làm thế nào giải quyết xung đột một cách thoả đáng đối với các chủ thể theo đuổi các lợi ích trái ngược nhau. Article Infomation: Abstract Keywords: right of access to information, right to privacy, conflict of rights The acknowledgement of both right of access to information related to private persons and right to privacy in the field of public law results obviously in the conflict between the two rights. The question to be raised is to know how to resolve this conflict in a reasonable manner. Article History: Received : 11 Jun 2018 Edited : 10 Jul. 2018 Approved : 17 Jul. 2018 1. Đặt vấn đề Luật Tiếp cận thông tin (TCTT) năm 2016 được xây dựng trong khuôn khổ cụ thể hoá quyền TCTT (right of access to information) được xác lập trong Hiến pháp năm 2013 như một trong các quyền cơ bản của con người, của công dân. Thông tin được đề cập trong văn bản luật bao gồm thông tin liên quan đến các thiết chế công cộng và thông tin liên quan đến các chủ thể tư, đặc biệt là thông tin cá nhân. Theo tinh thần của Luật TCTT thì công dân có quyền thu thập thông tin liên quan đến cá nhân công Số 15(367) T8/2018 3 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT dân khác trong những trường hợp được dự kiến và theo trình tự, thủ tục luật định. Tuy nhiên, cùng với quyền này, quyền bất khả xâm phạm về cuộc sống riêng tư cũng được hiến định tại Điều 21 Hiến pháp như là một trong các quyền cơ bản của con người, của công dân. Quyền bất khả xâm phạm về cuộc sống riêng tư được tái khẳng định tại Điều 38 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 như là một trong các quyền dân sự cơ bản. Ở các nước, quyền này còn được biết với tên gọi thông dụng hơn, là quyền riêng tư (right to privacy). Cần nhấn mạnh rằng BLDS năm 2015 không đề cập đến quyền TCTT của chủ thể. Điều đó có nghĩa là quyền TCTT không phải là quyền dân sự. Nói cách khác, trong quan hệ giữa tư nhân và tư nhân, quyền TCTT không được thừa nhận cho chủ thể: không ai có quyền đòi hỏi người khác phải cung cấp thông tin cho mình ngoài ý muốn của người đó1. Rốt cuộc, quyền TCTT được ghi nhận và điều chỉnh bởi Luật TCTT chỉ là và chỉ có thể là quyền được xác lập trong quan hệ giữa người dân và nhà chức trách công2. Tình huống dự kiến mang tính chất giả định cơ bản là nhà chức trách công, thông qua vai trò của cơ quan nhà nước, nắm giữ thông tin và người dân có nhu cầu nắm bắt thông tin được cơ quan nhà nước nắm giữ. Luật có những quy định điều chỉnh ứng xử của các bên trong các trường hợp đặc thù, nhằm 1 2 4 mục đích thoả mãn một cách hợp lý nhu cầu TCTT của người dân. Cần lưu ý rằng, trong khi quyền TCTT không tồn tại trong cuộc sống dân sự, thì quyền bất khả xâm phạm về cuộc sống riêng tư lại được thừa nhận cả trong quan hệ giữa tư nhân và tư nhân, cũng như quan hệ giữa tư nhân và nhà chức trách công. Rõ hơn, không chỉ tư nhân có nghĩa vụ tôn trọng cuộc sống riêng tư của tư nhân khác mà Nhà nước cũng có nghĩa vụ đó. Với tư cách là người nắm quyền lực công và đảm nhận chức năng duy trì trật tự xã hội, nhà nước còn phải bảo đảm thông tin về cuộc sống riêng tư không bị thu thập trái phép, bị sử dụng trái phép gây thiệt hại cho chủ thể. Việc thừa nhận cả quyền TCTT và quyền được tôn trọng đối với cuộc sống riêng tư trên bình diện quan hệ công tất yếu dẫn đến sự xung đột giữa hai quyền này. Vấn đề đặt ra đối với người làm luật khi xây dựng khung pháp lý cho hai quyền này là làm thế nào giải quyết xung đột một cách thoả đáng đối với các chủ thể theo đuổi các lợi ích trái ngược. Nói cách khác, luật phải được xây dựng như thế nào để, một mặt, đáp ứng nhu cầu của một chủ thể trong việc nắm bắt thông tin liên quan đến một tư nhân và, mặt khác, đảm bảo quyền của chủ thể tư nhân về việc giữ cho mình một cuộc sống riêng tư bình yên, không bị quấy nhiễu bởi sự tò mò của người khác. Về mặt lý thuyết, có thể trường hợp hai bên xác lập một thoả thuận, theo đó một bên cam kết cung cấp cho bên kia tất cả các thông tin liên quan đến cuộc sống riêng tư của mình, một khi bên kia yêu cầu. Một thoả thuận như thế không có tính pháp lý và không thể được bắt buộc thực hiện bằng một bản án của toà án. Việc xác định quyền TCTT chỉ tồn tại trong quan hệ công có ý nghĩa rất rõ nét trong trường hợp cần TCTT liên quan đến tài khoản ngân hàng. Với tư cách là một chủ thể tư nắm giữ thông tin về tài khoản của khách hàng, ngân hàng không có trách nhiệm và cũng không có quyền cung cấp thông tin liên quan cho bất kỳ chủ thể tư nào khác. Trái lại, nếu thông tin tài khoản tư nhân được cơ quan nhà nước nắm giữ một cách hợp lệ, thì trong khuôn khổ thực hiện chức năng của mình, cơ quan này có quyền cung cấp thông tin liên quan cho cả chủ thể công và chủ thể tư theo trình tự, thủ tục luật định, trừ trường hợp luật có quy định cấm rành mạch đối với việc cung cấp thông tin loại này. Số 15(367) T8/2018 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 2. Nguyên tắc của quyền tiếp cận thông tin Từ quyền tự do cơ bản đến quyền TCTT 3. Một khi con người được thừa nhận có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, thì việc thừa nhận quyền được biết cho con người là việc làm tất yếu tiếp theo, như một hệ quả logic. Trong chừng mực nào đó, quyền được biết có thể được hiểu là quyền của chủ thể trong việc tìm hiểu nhằm nhận diện rõ ràng và chính xác không gian sống. Biết rõ khung cảnh chung quanh mình, đặc biệt là về những yếu tố tác động đến sự tồn tại của mình, chủ thể có điều kiện tổ chức cuộc sống một cách hợp lý. Đặc biệt, chủ thể có thể xác định cách ứng xử, giao tiếp với ngoại cảnh cho phù hợp, nhằm trước hết là để tự bảo vệ chống rủi ro, hiểm họa và tối hậu là thực hiện mục tiêu sống của mình. Nguyên tắc tự do TCTT và ngoại lệ hạn chế TCTT4. Quyền TCTT được nhìn nhận như một quyền có ý nghĩa đặc biệt trong điều kiện không phải thông tin nào hữu ích cho chủ thể cũng được bộc lộ. Chủ thể nắm giữ thông tin có thể tự nguyện quảng bá rộng rãi và miễn phí các thông tin mình nắm giữ, nhưng cũng có thể chỉ cung cấp thông tin mỗi khi được yêu cầu hoặc, thậm chí từ chối cung cấp. 3 4 5 Nếu thừa nhận quyền TCTT, một trạng thái của quyền được biết trong điều kiện thông tin không được bộc lộ, là hệ quả tất yếu của quyền tự do của con người, của công dân, thì quyền TCTT mang tính nguyên tắc. Điều đó cũng có nghĩa là quyền không cho phép TCTT mang tính ngoại lệ. Với tư cách là người đảm nhận chức năng bảo đảm tính có tổ chức của xã hội, nhà chức trách có nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc thực hiện quyền được biết của công dân trong khuôn khổ trật tự xã hội. Đặc biệt, môi trường giao tiếp xã hội trong mối quan hệ giữa nhà chức trách và công dân phải luôn có một giao diện minh bạch, vận hành trên cơ sở tôn trọng nghiêm ngặt luật chơi theo đó, “quyền được biết của công dân là nguyên tắc, quyền giữ bí mật của nhà chức trách là ngoại lệ”5. Được thừa nhận trong khung cảnh nguyên tắc tự do TCTT, quyền bất khả xâm phạm về cuộc sống riêng tư, được hiểu là quyền đòi hỏi không để cho thông tin về cuộc sống riêng tư được tự do nắm bắt, khai thác cũng mang tính ngoại lệ. Tất cả các ngoại lệ đều phải được áp dụng một cách nghiêm ngặt trong phạm vi do luật xác định; không ai được tuỳ tiện mở rộng phạm vi đó, đặc biệt là bằng cách áp dụng tương tự pháp luật. Tham khảo Anders Chydenius’ Legacy Today, The World’s First Freedom of Information Act, Kokkola, Phần Lan, 2006. Anders Chydenius’ Legacy Today là một quỹ nghiên cứu luật học phi lợi nhuận mang tên nhà chính trị Thiên chúa giáo Phần Lan cổ vũ cho tự do thông tin và tự do báo chí. Tập sách này được xuất bản dưới sự tài trợ của Quỹ nhân kỷ niệm 240 năm Vương quốc Thuỵ Điển ban hành luật TCTT đầu tiên của thế giới (1766). Phiên bản điện tử của tập sách này có thể được tải về miễn phí bằng cách truy cập trang web https://www.access-info.org/wp-content/uploads/ worlds_first_foia.pdf. Về tóm tắt quá trình phát triển quyền TCTT trên thế giới, như là một quyền chính trị - pháp lý: xem: History of Right of Access to Information, https://www.access-info.org/uncategorized/10819 (truy cập ngày 16/05/2018). Tài liệu đáng chú ý về quyền được thông tin trong luật Việt Nam: Thái Thị Tuyết Dung, Quyền TCTT và quyền riêng tư ở Việt Nam và một số quốc gia, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2012. Tham khảo: B. Mclachlin, Access to Information and Protection of Privacy in Canadian Democracy, thông điệp của Chánh án Toà án tối cao Canada ngày 05/9/2009, https://www.scc-csc.ca/judges-juges/spe-dis/bm-2009-05-05-eng. aspx (truy cập ngày 16/05/2018). Nguyễn Ngọc Điện, Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2010, tr. 148 và 149. Số 15(367) T8/2018 5 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 3. Nội dung quyền tiếp cận thông tin về cuộc sống riêng tư 3.1 Thông tin không được tiếp cận Theo quy định của khoản 2 Điều 6 Luật TCTT, công dân không được TCTT mà nếu để tiếp cận sẽ gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác. Như vậy, có thể xếp các loại thông tin này thành ba nhóm sau: - Loại thông tin mà việc tiếp cận có thể gây nguy hại cho tính mạng; - Loại thông tin mà việc tiếp cận có thể gây nguy hại cho cuộc sống (lợi ích phi vật chất); - Loại thông tin mà việc tiếp cận có thể gây nguy hại cho tài sản của người có liên quan. Liên quan đến thông tin mà việc tiếp cận có thể gây nguy hại đến tính mạng của chủ thể, tình huống dự kiến là có một chủ thể đang muốn tước đoạt mạng sống của một người và đang tìm kiếm tung tích của người đó. Nếu chủ thể này là một tư nhân thì một mặt, cơ quan nắm giữ thông tin phải từ chối cung cấp thông tin được yêu cầu, mặt khác, chủ thể yêu cầu phải bị bắt giữ nếu đang ở trên phạm vi lãnh thổ do có hành vi chuẩn bị giết người. Vấn đề chỉ trở nên phức tạp trong trường hợp chủ thể yêu cầu cung cấp là nhà chức trách của một nước. Có ý kiến cho rằng, thông tin về tài sản của một người cũng có thể là loại thông tin mà việc tiếp cận, trong một số trường hợp, có thể gây nguy hại đến tính mạng của chủ thể6. Nói nôm na, khi biết một người nào đó có nhiều của cải, thì bọn cướp có thể tập trung sự chú ý vào người đó và tìm cách xâm hại tính mạng người đó để chiếm đoạt tài sản. Chúng tôi không đồng tình với quan điểm này. 6 6 - Liên quan đến thông tin mà việc tiếp cận có thể gây nguy hại đến cuộc sống của chủ thể, trước hết, cần hiểu “cuộc sống” trong ngữ cảnh của điều luật là sự sinh hoạt, là tập hợp các quan hệ giao tiếp xã hội, chứ không phải là sự sống, sự tồn tại. Sự sống, sự tồn tại của chủ thể gắn với tính mạng và các thông tin liên quan đã được xếp vào một nhóm riêng. Trong điều kiện luật phân biệt “cuộc sống” và “tài sản” khi nói về đối tượng của hành vi xâm phạm, thì “cuộc sống” còn phải được hiểu là tập hợp các quan hệ giao tiếp phi tài sản. Về mặt lý thuyết, các thông tin về tài sản của một người có thể bị khai thác làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống, được hiểu là các quan hệ phi tài sản, của người đó; nhưng trên thực tế, nỗi lo này không có cơ sở, như sẽ được phân tích ở phần sau. Nói cách khác, các thông tin mà việc tiếp cận có thể gây nguy hại đến cuộc sống của một người chỉ có thể là các thông tin về các quan hệ phi tài sản. Điều 7 Luật TCTT liệt kê một loạt các quan hệ phi tài sản của tư nhân mà việc TCTT liên quan được cho phép có điều kiện. Vấn đề còn lại là hiểu như thế nào cho đúng về cái gọi là “nguy hại đến cuộc sống” của chủ thể một khi thông tin được tiếp cận. Trên thực tế, cơ quan nắm giữ thông tin có thể cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức chủ quản của người đó, nhưng từ chối cung cấp thông tin đối với người yêu cầu mà được cho là có mục đích sử dụng không rõ ràng. Thật ra, trong điều kiện quyền TCTT mang tính nguyên tắc và chưa có đủ bằng chứng thuyết phục về nguy cơ rành rành đối với cuộc sống của một người, nghĩa là đối với lợi ích chính đáng của người đó, thì việc cung cấp thông tin là nghĩa vụ của cơ quan nắm giữ thông tin. - Trường hợp việc TCTT về tài sản Xem http://baodatviet.vn/chinh-tri-xa-hoi/tin-tuc-thoi-su/cong-khai-tai-san-tai-noi-cu-tru-nhan-dien-rui-ro-3342927/ (truy cập ngày 15/5/2018). Số 15(367) T8/2018 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT của một người có thể gây nguy hại cho tài sản của người đó. Trong xã hội có tổ chức và thượng tôn luật pháp, tất cả mọi thành viên đều phải được hưởng sự suy đoán là những con người lương thiện, văn minh và biết ứng xử đúng mực. Về phương diện quan hệ sở hữu, mỗi thành viên đều phải được coi là người biết vun đắp tư hữu cho mình, đồng thời biết tôn trọng tư hữu của người khác. Vả lại, mỗi người, với tư cách là chủ sở hữu tài sản, đều có quyền tự mình bảo vệ an toàn tài sản của mình, cũng như có quyền yêu cầu cơ quan công lực bảo vệ, mỗi khi tài sản bị xâm hại hoặc có nguy cơ rõ ràng bị xâm hại. Bên cạnh đó, pháp luật cần phải đặt nền tảng cho sự hình thành và phát triển một không gian mở về phương diện quan hệ tài sản, để mỗi người, với tư cách là chủ sở hữu, có điều kiện giao lưu, trao đổi với sự hiểu biết hỗ tương hợp lý và một cách thoải mái nhất có thể. Ở các nước phát triển người ta bắt đầu các cuộc tranh cãi pháp lý với sự thắng thế của quan niệm, theo đó, các thông tin về tài sản của cá nhân là một phần của cuộc sống riêng và chỉ được bộc lộ nếu có sự đồng ý của đương sự. Tuy nhiên, theo thời gian, người ta hiểu ra rằng của cải không phải từ trên trời rơi xuống, mà do xã hội tạo ra từ lao động có tổ chức của con người; vậy thì không có lý do gì xã hội lại không có quyền biết nó đang ở đâu, trong tay ai. Bước đầu, người ta cho phép công bố rộng rãi các thông tin về tài sản của những người nổi tiếng trong thế giới kinh doanh, coi đó như một trong những biện pháp minh bạch hoá đời sống kinh tế. Về sau, người ta thừa nhận thấy sự minh bạch, trong chừng mực không xung đột với các nguyên tắc tôn trọng sự sâu kín của đời tư, là cần thiết đối với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã 7 hội, chứ không chỉ riêng trong lĩnh vực kinh doanh. Thế là pháp luật cho phép công bố, lưu hành công khai thông tin liên quan đến tài sản của tất cả mọi người. Tuy nhiên, nếu việc công khai thông tin cá nhân về tài sản không bị coi là xâm phạm đời tư, thì việc khai thác các thông tin đó, nhằm thoả mãn sự tò mò của công chúng, chủ yếu vì mục đích thương mại, là hành vi không lương thiện: nó giúp một người làm giàu, trong khi người khác chẳng được gì ngoài sự phiền phức, đôi khi, còn bị tổn thương về tinh thần và cả vật chất. Những hành vi đó có thể bị chế tài. Ở Việt Nam, thông tin về tài sản cá nhân là chuyện đời tư hay đời công là vấn đề cho đến nay vẫn chưa được giải quyết ngã ngũ trong pháp luật hiện hành7. Tuy nhiên, điều chắc chắn là nếu coi thông tin về tài sản là một phần của bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, thì các thông tin đó không bị cấm tiếp cận mà thuộc loại tiếp cận có điều kiện, được quy định tại Điều 7 Luật TCTT. Trong khi đó, Luật xác định việc cấm tiếp cận những thông tin có khả năng gây nguy hại đến tài sản của chủ thể, tại Điều 6. Điều đó có nghĩa là có những thông tin về tài sản còn mật hơn cả bí mật cá nhân, bí mật đời tư. Đó là loại thông tin gì? Chắc chắn đó không phải là thông tin về các tài sản thuộc diện phải đăng ký như nhà, đất, ô tô, xe máy, tàu biển,... Việc đăng ký tài sản trong luật hiện hành có tác dụng công bố tình trạng pháp lý của tài sản cho toàn xã hội, bao gồm lai lịch chủ sở hữu. Còn hai loại thông tin mà cơ quan nhà nước có thể nắm giữ. Đó là thông tin về tổng giá trị tài sản thuộc quyền sở hữu của một người và thông tin về các tài sản không phải đăng ký. Xem: http://plo.vn/thoi-su/chinh-tri/cong-khai-tai-san-quan-chuc-cho-toan-dan-la-vi-hien-498459.html (truy cập ngày 14/5/2018). Số 15(367) T8/2018 7 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT Liên quan đến các tài sản không phải đăng ký, rất khó để hình dung trong hoàn cảnh nào các thông tin tài sản cần được giữ bí mật. Có chăng, đó là trường hợp tài sản được cất giấu ở một nơi nào đó không phải là không gian riêng tư, kiểu như kho báu trong chuyện cổ; bởi nếu tài sản được cất giấu ở nơi riêng tư, thì đã có quy định về bảo vệ bí mật đời sống riêng tư. Trong một tình huống khác, chủ thể chủ động cung cấp thông tin về mật mã tài khoản cá nhân cho cơ quan nhà nước. Việc cơ quan nhà nước có hay không có quyền chia sẻ thông tin này với người khác tuỳ thuộc vào thoả thuận giữa chủ tài khoản và cơ quan nắm giữ thông tin; luật không can thiệp vào quan hệ này. Liên quan đến thông tin về tổng giá trị tài sản của một người, có thể nói ngay rằng không ở một nước văn minh nào mà thông tin loại này được coi là thông tin mật. Thậm chí, những người giàu nhất còn được xếp hạng theo mức độ giàu có và bằng xếp hạng được công bố trên các phương tiện truyền thông. Trong khung cảnh luật thực định, khi đọc điều quy định cấm này, người ta có xu hướng nghĩ rằng người làm luật muốn đề cập chủ yếu đến vấn đề TCTT liên quan đến tài sản quan chức. Như vậy, có thể nói rằng, quy định cấm tiếp cận đối với thông tin trong trường hợp việc tiếp cận có thể gây nguy hại cho tài sản của người khác tỏ ra là sự hạn chế thiếu thuyết phục đối với quyền TCTT của chủ thể, cần được gỡ bỏ. 3.2 Thông tin được tiếp cận có điều kiện Điều 7 Luật TCTT quy định các thông tin được tiếp cận có điều kiện gồm: thông tin về bí mật kinh doanh, thông tin liên quan đến bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình. 8 8 Khoản 23 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi năm 2009) định nghĩa về bí mật kinh doanh như sau: “Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh”. Các khái niệm bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được xây dựng trong khuôn khổ pháp luật dân sự. Tuy nhiên, BLDS năm 2015 không làm rõ các khái niệm này. Điều 38 BLDS năm 2015 chỉ nêu các khái niệm, sau đó có các quy định liên hệ đến thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi. Điều chắc chắn là một khi đã được gọi là bí mật, là riêng tư, thì các thông tin ấy, về bản chất, không phải là những thông tin có xu hướng được bộc lộ cho công chúng8. Bản thân việc cơ quan nhà nước nắm giữ thông tin cũng phải xuất phát từ yêu cầu của công vụ, của lợi ích chung hoặc khi cần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Chẳng hạn khi xét tuyển dụng một người vào một cơ quan công quyền thuộc lĩnh vực an ninh quốc gia, người tuyển dụng có quyền yêu cầu ứng viên khai rõ về gia thế, về lịch sử của bản thân,… từ đó, cơ quan công quyền có điều kiện nắm giữ thông tin cá nhân mang tính bí mật. Có thể thừa nhận các quan hệ giao tiếp trong khuôn khổ đời sống gia đình, không gian sống riêng tư (nhà riêng, phòng riêng), các mối quan hệ xã hội riêng tư (bè bạn, tình cảm), hồ sơ sức khoẻ cá nhân,… là các yếu tố thuộc đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình. Trái lại, việc kết hôn, ly hôn, quá trình học tập của một người không thể coi là chuyện riêng tư, bởi bản thân những việc ấy diễn ra công khai tại nơi công cộng; kết quả giao dịch cũng được công bố rộng rãi (tổ chức hôn lễ, công bố bản án ly hôn, niêm yết kết quả học tập, thi cử,…). Về các phân tích liên quan đến nội dung của quyền riêng tư theo học thuyết: xem Thái Thị Tuyết Dung, Quyền riêng tư trong thời đại công nghệ thông tin, https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2012/07/02/quyen-ring-tu-trong-thoi-dai-cngnghe-thng-tin/ (truy cập ngày 15/5/2018). Số 15(367) T8/2018
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.