Tập bài giảng môn học pháp luật đại cương

doc
Số trang Tập bài giảng môn học pháp luật đại cương 150 Cỡ tệp Tập bài giảng môn học pháp luật đại cương 712 KB Lượt tải Tập bài giảng môn học pháp luật đại cương 8 Lượt đọc Tập bài giảng môn học pháp luật đại cương 146
Đánh giá Tập bài giảng môn học pháp luật đại cương
4.2 ( 15 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC --------------------------- TẬP BÀI GIẢNG MÔN HỌC PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG 1 Bài mở đầu KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MÔN HỌC PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG 1. Đối tượng nghiên cứu của Pháp luật đại cương Mỗi ngành khoa học đều có đối tượng nghiên cứu riêng, xác định đối tượng nghiên cứu của một ngành khoa học là việc xem xét phạm vi, các vấn đề, những mối quan hệ mà ngành khoa học đó nghiên cứu. Xác định rõ đối tượng nghiên cứu chính là tiền đề cơ bản cho sự tồn tại và phát triển của mỗi ngành khoa học, đồng thời để phân biệt giữa ngành khoa học này với khoa học khác. Vì vậy, mặc dù một khách thể nghiên cứu có thể là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học nhưng do có sự khác nhau về đối tượng nghiên cứu nên mỗi bộ môn khoa học đều có tính độc lập với những tính chất, mục đích và phương pháp nghiên cứu đặc thù của mình, không trùng lặp với các khoa học khác. Nhà nước và pháp luật là những hiện tượng xã hội rất đa dạng và phức tạp, là một trong những vấn đề cơ bản nhất của đời sống chính trị trong các xã hội có giai cấp. Vì vậy, Nhà nước và Pháp luật được nhiều môn khoa học xã hội nói chung và khoa học pháp lý nói riêng nghiên cứu. Nhà nước và pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau: Nhà nước không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật, ngược lại Pháp luật chỉ hình thành, phát triển và phát huy hiệu lực bằng con đường nhà nước và dựa vào sức mạnh của Nhà nước. Mối liên hệ mật thiết có tính khách quan đó đòi hỏi cần có sự nghiên cứu và giải thích thống nhất các vấn đề về nhà nước và pháp luật. “Pháp luật đại cương” là một môn học trong hệ thống khoa học pháp lý Việt Nam có đối tượng nghiên cứu là những vấn đề chung và cơ bản nhất của nhà nước và pháp luật nói chung và của nhà nước và pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng. Nó nghiên cứu một cách cơ bản và toàn diện về Nhà nước và pháp luật nhằm làm rõ những thuộc tính bản chất của Nhà nước và pháp luật; phát hiện và giải thích những quy luật và những vấn đề có tính quy luật về sự ra đời, tồn tại, phát triển của Nhà nước và Pháp luật; mối quan hệ giữa sự ra đời của Nhà nước và sự hình thành Pháp luật. Theo đó, đối tượng nghiên cứu của môn học Pháp luật đại cương bao gồm: - Những khái niệm, những đặc trưng cơ bản nhất về nhà nước và pháp luật như: nguồn gốc, bản chất, đặc điểm, vai trò của nhà nước và pháp luật trong lĩnh vực quản lý 2 xã hội; hình thái nhà nước và hệ thống pháp luật; cơ chế điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ phát sinh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; - Những mối quan hệ, liên hệ cơ bản, điển hình và có tính phổ biến của Nhà nước và pháp luật (giữa Nhà nước và cá nhân, giữa Nhà nước và pháp luật...); - Những nguyên tắc, phương pháp, hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, thiết lập trật tự pháp luật và pháp chế, xây dựng và thực hiện pháp luật, những phương tiện và giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực và hiệu quả của nhà nước, của pháp luật. 2. Phương pháp nghiên cứu của Pháp luật đại cương Phương pháp luận được hiểu là những cơ sở lý thuyết, lập trường và quan điểm tiếp cận khi nghiên cứu một hiện tượng cụ thể nào đó. Trong môn khoa học này, hiện tượng đó chính là nhà nước và pháp luật. Môn học “Pháp luật đại cương” có cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đây là phương pháp luận khoa học chung cho mọi khoa học, được vận dụng trong tất cả các quá trình, giai đoạn nghiên cứu. Nó xem xét sự vật và hiện tượng trong mối tương quan ới thực tế khách quan và mối quan hệ hiện thực nên giải thích được một cách khoa học bản chất cuả sự vật và hiện tượng. Phương pháp nghiên cứu là những nguyên tắc và cách thức hoạt động khoa học nhằm đạt tới chân lý khách quan dựa trên cơ sở của sự chứng minh khoa học. Phương pháp nghiên cứu của môn học nhà nước và pháp luật đại cương là cách thức nghiên cứu, cách thức tiếp cận cụ thể đối tượng nhà nước và pháp luật. Các phương pháp đó bao gồm: - Phương pháp phân tích và tổng hợp: đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong quá trình nghiên cứu về nhà nước và pháp luật. Phân tích là phương pháp dùng để chia các vấn đề phức tạp ra thành những bộ phận, những yếu tố đơn giản hơn để tiện cho việc nghiên cứu, làm sáng tỏ vấn đề. Tổng hợp là phương pháp liên kết, thống nhất các bộ phận, các yếu tố đã được phân tích, vạch ra mối liên hệ giữa chúng nhằm khái quát hoá vấn đề trong sự nhận thức tổng thể. - Phương pháp trừu tượng khoa học: Đây là phương pháp tư duy trên cơ sở tách cái chung ra khỏi cái riêng, tạm thời gạt bỏ cái riêng để giữ lấy cái chung. Nhiệm vụ của môn học “Nhà nước và pháp luật đại cương” là trừu tượng hoá, tư duy gạt bỏ những hiện tượng bề ngoài, những cái ngẫu nhiên, không mang tính quy luật để xây dựng một hệ thống tri thức tổng quát với những khái niệm, phạm trù, những luận điểm 3 cơ bản về nhà nước và pháp luật. Việc sử dụng phương pháp này trong nghiên cứu nhà nước và pháp luật là một tất yếu và luôn đóng một vai trò rất quan trọng. - Phương pháp so sánh: áp dụng phương pháp này trong nghiên cứu nhà nước và pháp luật, cho phép người nghiên cứu có thể phát hiện ra những vấn đề mang tính quy luật của các hình thức nhà nước và pháp luật đã tồn tại trong lịch sử; những điểm giống nhau, khác nhau của các hiện tượng đó để tìm ra nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt, kế thừa được những mặt tích cực, loại bỏ được những mặt hạn chế. - Phương pháp xã hội học: nghiên cứu những vấn đề của nhà nước và pháp luật dựa trên những tư liệu xã hội cụ thể, thông qua điều tra xã hội học, thăm dò dư luận xã hội. Tóm lại: Khi nghiên cứu nhà nước và pháp luật cần phải sử dụng một phương pháp luận đúng đắn, kết hợp sử dụng đồng bộ các phương pháp nghiên cứu để đạt tới những nguyên lý khoa học và kết luận chính xác. 3. Ý nghĩa của môn học Môn học “Pháp luật đại cương” cung cấp những kiến thức cơ bản về nhà nước và pháp luật cho sinh viên không chuyên ngành luật, giúp họ tiếp cận bước đầu để có những nhận thức chung nhất về nguồn gốc ra đời của Nhà nước và pháp luật, bản chất và đặc trưng của Nhà nước và pháp luật cũng như vai trò, vị trí của Nhà nước và pháp luật trong lịch sử phát triển của nhân loại; vai trò, vị trí của pháp luật đối với chính Nhà nước và trong đời sống xã hội. Môn học này cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản nhất về pháp luật, các quy định của một số ngành luật chủ yếu như Luật Dân sự, luật Hình sự..., nhằm mục đích xây dựng ý thức pháp luật XHCN cho sinh viên, tạo điều kiện về tri thức để sinh viên có thể hiểu, tuân thủ và chấp hành đúng đắn, nghiêm chỉnh luật pháp của nhà nước cũng như nội quy, quy chế của nhà trường trong thời gian học tập; nội quy, quy chế của các cơ quan, tổ chức nơi công tác sau khi tốt nghiệp. 4. Nội dung môn học Nội dung của môn học “Pháp luật đại cương” được xác định trước hết dựa trên cơ sở đối tượng nghiên cứu của nó và sau nữa là căn cứ vào một số yếu tố khách quan chi phối như: mục tiêu đào tạo, quỹ thời gian cho môn học, nội dung các môn học có liên quan… 4 Từ những cơ sở đó, môn học “Pháp luật đại cương” trình bày những vấn đề cốt yếu nhất như: đại cương về nhà nước và pháp luật, những khái niệm pháp lý cơ bản, hệ thống pháp luật Việt Nam và một số quy định của các ngành luật cơ bản. Với những nội dung trên, cơ cấu của môn học “Pháp luật đại cương” được trình bày như sau: - Bài mở đầu: Khái quát chung về môn học “Pháp luật đại cương” - Chương 1: Những vấn đề cơ bản về nhà nước - Chương 2: Bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam - Chương 3: Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam - Chương 4: Những vấn đề cơ bản về pháp luật - Chương 5: Quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật - Chương 6: Quan hệ pháp luật - Chương 7: Vi phạm pháp luật và Trách nhiệm pháp lý - Chương 8: Thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật - Chương 9: Ý thức pháp luật và pháp chế XHCN - Chương 10: Hệ thống pháp luật Việt Nam 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC 1. Nguồn gốc của nhà nước 1.1. Các học thuyết phi Mác-xít về nguồn gốc của Nhà nước - Thuyết thần quyền: cho rằng thượng đế chính là người sắp đặt trật tự xã hội, thượng đế đã sáng tạo ra nhà nước nhằm bảo vệ trật tự chung, nhà nước là một sản phẩm của thượng đế; - Thuyết gia trưởng: cho rằng nhà nước xuất hiện chính là kết quả sự phát triển của gia đình và quyền gia trưởng, thực chất nhà nước chính là mô hình của một gia tộc mở rộng và quyền lực nhà nước chính là từ quyền gia trưởng được nâng cao lên – hình thức tổ chức tự nhiên của xã hội loài người; - Thuyết bạo lực: cho rằng nhà nước xuất hiện trực tiếp từ các cuộc chiến tranh xâm lược chiếm đất, là việc sử dụng bạo lực của thị tộc đối với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến thắng đặt ra một hệ thống cơ quan đặc biệt – nhà nước – để nô dịch kẻ chiến bại; - Thuyết tâm lý: cho rằng nhà nước xuất hiện do nhu cầu về tâm lý của con người nguyên thủy luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sĩ, …; - Thuyết “khế ước xã hội”: cho rằng sự ra đời của nhà nước là sản phẩm của một khế ước xã hội được ký kết trước hết giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước. Chủ quyền nhà nước thuộc về nhân dân, trong trường hợp nhà nước không giữ được vai trò của mình các quyền tự nhiên bị vi phạm thì khế ước sẽ mất hiệu lực và nhân dân có quyền lật đổ nhà nước và ký kết khế ước mới. Các học thuyết trên đây đều có hạn chế nhất định, đặc biệt là chưa giải thích đúng đắn nguồn gốc ra đời của Nhà nước cũng như bản chất, chức năng của Nhà nước trong mối liên hệ lịch sử của nó. Hầu như các quan điểm này đều sử dụng để biện minh cho sự bất bình đẳng, phân hóa giai cấp và thống trị con người trong xã hội, coi nó như một điều tất yếu. Chỉ đến khi học thuyết của Mác ra đời, mới phản ánh đúng nguồn gốc, bản chất và chức năng của Nhà nước. 6 1.2. Quan điểm chủ nghĩa Mác-LêNin về nguồn gốc của nhà nước - Quan điểm về nguồn gốc Nhà nước của chủ nghĩa Mác-LêNin được thể hiện rõ nét trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước” của Ăngghen. Đây là tác phẩm được phát triển từ tư tưởng “Quan niệm duy vật về lịch sử” của Mác, tiếp thu và phát triển những thành tựu nghiên cứu “Xã hội cổ đại” của nhà bác học Mỹ - Lewis H.Morgan. - Chủ nghĩa Mác-LêNin cho rằng: + Nhà nước xuất hiện một cách khách quan, nhưng không phải là hiện tượng xã hội vĩnh cửu và bất biến. Nhà nước luôn vận động, phát triển và tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển của chúng không còn nữa; + Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội loài người đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy. Nhà nước chỉ xuất hiện ở nơi nào và thời gian nào khi đã xuất hiện sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng. 1.3. Quá trình hình thành của Nhà nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-LêNin a. Chế độ Cộng sản nguyên thuỷ, tổ chức thị tộc bộ lạc và quyền lực xã hội: - Cơ sở kinh tế: Chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Mọi người đều bình đẳng trong lao động và hưởng thụ, không ai có tài sản riêng, không có người giàu kẻ nghèo, không có sự chiến đoạt tài sản của người khác; - Cơ sở xã hội: Trên cơ sở thị tộc, thị tộc là một tổ chức lao động và sản xuất, một đơn vị kinh tế - xã hội. Thị tộc được tổ chức theo huyết thống. Xã hội chưa phân chia giai cấp và không có đấu tranh giai cấp; - Quyền lực xã hội: Quyền lực chưa tách ra khỏi xã hội mà vẫn gắn liền với xã hội, hòa nhập với xã hội. Quyền lực đó do toàn xã hội tổ chức ra và phục vụ lợi ích của cả cộng đồng; - Tổ chức quản lý: Hội đồng thị tộc là tổ chức quyền lực cao nhất của thị tộc, bao gồm tất cả những người lớn tuổi không phân biệt nam hay nữ trong thị tộc. Quyết định của Hội đồng thị tộc là sự thể hiện ý chí chung của cả thị tộc và có tính bắt buộc đối với mọi thành viên. Hội đồng thị tộc bầu ra người đứng đầu như tù trưởng, thủ lĩnh quân sự,… để thực hiện quyền lực và quản lý các công việc chung của thị tộc. 7 b. Sự tan rã của tổ chức thị tộc bộ lạc và sự xuất hiện Nhà nước: - Sự chuyển biến kinh tế và xã hội: + Thay đổi từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Các công cụ lao động bằng đồng, sắt thay thế cho công cụ bằng đá và được cải tiến. Con người phát triển hơn cả về thể lực và trí lực, kinh nghiệm lao động đã được tích lũy; + Ba lần phân công lao động là những bước tiến lớn của xã hội, gia tăng sự tích tụ tài sản và góp phần hình thành và phát triển chế độ tư hữu; + Sự xuất hiện gia đình và trở thành lực lượng đe dọa sự tồn tại của thị tộc. Chế độ tư hữu được củng cố và phát triển; + Sự phân biệt kẻ giàu người nghèo và mâu thuẫn giai cấp ngày càng gia tăng; + Sự tan rã của tổ chức thị tộc – bộ lạc: Những yếu tố mới xuất hiện đã làm đảo lộn đời sống thị tộc, chế độ thị tộc đã tỏ ra bất lực; + Nền kinh tế mới làm phá vỡ cuộc sống định cư của thị tộc. Sự phân công lao động và nguyên tắc phân phối bình quân sản phẩm của xã hội công xã nguyên thủy không còn phù hợp; + Chế độ tư hữu, sự chênh lệch giữa giàu nghèo, sự mâu thuẫn giai cấp đã phá vỡ chế độ sở hữu chung và bình đẳng của xã hội công xã nguyên thủy; + Xã hội cần có một tổ chức đủ sức giải quyết các nhu cầu chung của cộng đồng, xã hội cần phát triển trong một trật tự nhất định. - Xã hội cần có một tổ chức mới phù hợp với cơ sở kinh tế và xã hội mới; - Sự xuất hiện nhà nước, nhà nước “không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội” mà là “một lực lượng nảy sinh từ xã hội”, một lực lượng “tựa hồ đứng trên xã hội”, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong một “trật tự”. c. Một số Nhà nước điển hình đầu tiên trong lịch sử Sự xuất hiện Nhà nước ở các vùng và của các dân tộc khác nhau cũng có những đặc điểm riêng do những điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau. Theo Ănghen có ba hình thức xuất hiện Nhà nước điển hình đó là: - Nhà nước Aten: Là hình thức thuần túy nhất là nhà nước dân chủ chủ nô nhà nước nảy sinh chủ yếu và trực tiếp từ sự đối lập giai cấp và phát triển ngay trong nội bộ xã hội thị tộc. Từ cuộc cách mạng Xô-lông (594TCN) và Klix-phe (509TCN) dẫn 8 đến sự tan rã toàn bộ chế độ thị tộc, hình thành Nhà nước vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên; - Nhà nước Rôma: Hình thành vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên, từ cuộc đấu tranh bởi những người thường dân (Ple-bêi) chống lại giới quý tộc thị tộc La Mã (Pá-tri-sép); - Nhà nước Giéc-manh: Hình thành khoảng giữa thế kỷ V sau công nguyên, từ việc người Giéc-manh xâm chiếm vùng lãnh thổ rộng lớn của đế chế La Mã cổ đại. Do Nhà nước hình thành không do sự đấu tranh giai cấp, xã hội Giéc-manh vẫn tồn tại chế độ thị tộc, sự phân hóa giai cấp chỉ mới bắt đầu và còn mờ nhạt. - Sự xuất hiện Nhà nước ở các quốc gia phương Đông: Nhu cầu trị thủy và chống giặc ngoại xâm đã trở thành yếu tố thúc đẩy và mang tính đặc thù trong sự ra đời nhà nước của các quốc gia phương Đông; + Nhà nước Trung Quốc, Ấn Độ, Ai Cập cổ đại, … được hình thành từ rất sớm, hơn 3000 năm trước công nguyên; + Ở Việt Nam, từ sự hình thành phôi thai của Nhà nước cuối thời Hùng Vương – Văn Lang đến Nhà nước sơ khai thời An Dương Vương – Âu Lạc năm 208 trước công nguyên. 2. Bản chất và đặc trưng cơ bản của nhà nước 2.1. Bản chất của nhà nước - “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được” (Lênin toàn tập, Tập 33, NXB Tiến bộ 1976 trang 9); - Bản chất của Nhà nước được thể hiện qua: Tính giai cấp và tính xã hội. a. Tính giai cấp: là mặt cơ bản thể hiện tính chất của Nhà nước: - Nhà nước là một bộ máy cưỡng chế đặc biệt do giai cấp thống trị tổ chức ra và sử dụng để thực hiện sự thống trị đối với xã hội trên 3 lĩnh vực: kinh tế, chính trị và tư tưởng; + Về kinh tế: * Giai cấp cầm quyền xác lập quyền lực kinh tế bằng cách qui định quyền sở hữu đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội và quyền thu thuế; * Giai cấp thống trị có ưu thế về kinh tế so với các giai cấp khác trong xã hội; * Các giai cấp tầng lớp khác phụ thuộc vào giai cấp thống trị về kinh tế. 9 + Về chính trị: Giai cấp cầm quyền xây dựng bộ máy nhà nước và những công cụ bạo lực vật chất như: quân đội, cảnh sát, tòa án, pháp luật (quyền lực chính trị). Nắm được quyền lực chính trị, giai cấp cầm quyền tổ chức, điều hành xã hội theo một trật tự phù hợp với lợi ích của giai cấp mình và buộc các giai cấp khác phục tùng ý chí của giai cấp thống trị; + Về tư tưởng: Giai cấp thống trị xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp mình và tuyên truyền tư tưởng ấy trong đời sống xã hội nhằm tạo ra sự nhận thức thống nhất trong xã hội, tạo ra sự phục tùng có tính chất tự nguyện của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội đối với giai cấp thống trị. b. Tính xã hội của Nhà nước: Bên cạnh việc thực hiện các chức năng bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền. Nhà nước còn phải giải quyết những công việc vì lợi ích chung của xã hội: - Tổ chức sản xuất; - Xây dựng hệ thống thủy lợi; - Chống ô nhiễm, dịch bệnh; - Bảo vệ trật tự công cộng. Kết luận: Nhà nước là hình thức (phương thức) tổ chức xã hội có giai cấp, là tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt, có chức năng quản lý xã hội để phục vụ lợi ích trước hết cho giai cấp thống trị và thực hiện những hoạt động chung nảy sinh từ yêu cầu của xã hội 2.2. Đặc trưng cơ bản của Nhà nước a. Nhà nước thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt: Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, quyền lực chưa tách khỏi xã hội mà gắn liền với xã hội, hoà nhập với xã hội chưa có giai cấp nên chưa có nhà nước. Quyền lực đó do toàn xã hội tổ chức ra, chưa mang tính giai cấp, phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng. Khi xuất hiện Nhà nước, quyền lực công cộng đặc biệt được thiết lập. Chủ thể của quyền lực này là giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị. Để thực hiện quyền lực này và để quản lý xã hội, nhà nước có một lớp người đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lý. Họ tham gia vào cơ quan nhà nước và hình thành bộ máy cưỡng chế để duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, bắt các giai cấp khác phải phục vụ theo ý 10 chí của giai cấp thống trị. Như vậy, quyền lực công cộng đặc biệt này đã tách khỏi xã hội, mang tính giai cấp sâu sắc và chỉ phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị; b. Nhà nước có lãnh thổ và phân chia dân cư theo lãnh thổ: Lãnh thổ, dân cư là các yếu tố hình thành quốc gia. Quyền lực của Nhà nước được thực hiện trên toàn bộ lãnh thổ, nhà nước thực hiện việc phân chia dân cư theo lãnh thổ thành các đơn vị hành chính, không phụ thuộc vào chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hoặc giới tính, … Việc phân chia này đảm bảo cho hoạt động quản lý của nhà nước tập trung, thống nhất. Người dân có mối quan hệ với Nhà nước bằng chế định quốc tịch, chế định này xác lập sự phụ thuộc của công dân vào một nước nhất định và ngược lại nhà nước phải có những nghĩa vụ nhất định đối với công dân của mình. c. Nhà nước có chủ quyền quốc gia: Chủ quyền quốc gia là quyền tối cao của nhà nước về đối nội và độc lập về đối ngoại. Tất cả mọi cá nhân, tổ chức sống trên lãnh thổ của nước sở tại đều phải tuân thủ pháp luật của nhà nước. Nhà nước là người đại diện chính thức, đại diện về mặt pháp lý cho toàn xã hội về đối nội và đối ngoại. Chủ quyền quốc gia thể hiện quyền độc lập tự quyết của Nhà nước về những chính sách đối nội và đối ngoại, không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài, chủ quyền quốc gia là thuộc tính gắn với Nhà nước. d. Nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật: Với tư cách là đại diện chính thức cho toàn xã hội, là người thực thi quyền lực công cộng, duy trì trật tự xã hội, nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật và áp dụng pháp luật để quản lý xã hội. Pháp luật do nhà nước ban hành có tính bắt buộc chung và được nhà nước đảm bảo thực hiện với các biện pháp tổ chức, cưỡng chế, thuyết phục. e. Nhà nước có quyền quy định và thực hiện việc thu các loại thuế: Nhà nước đặt ra các loại thuế vì nhu cầu nuôi dưỡng bộ máy nhà nước – lớp người đặc biệt tách ra khỏi lao động, sản xuất để thực hiện chức năng quản lý. Chỉ có nhà nước mới được độc quyền quy định các loại thuế và thu thuế vì nhà nước là tổ chức duy nhất có tư cách đại biểu chính thức của toàn xã hội để thực hiện sự quản lý xã hội. 2.3. Vai trò của Nhà nước: 11 Vai trò của nhà nước được thể hiện rõ nét trong các mối quan hệ sau: a. Nhà nước và xã hội: - Xã hội giữ vai trò quyết định, là tiền đề, cơ sở cho sự hình thành, tồn tại và phát triển của nhà nước; - Nhà nước tác động trở lại đối với xã hội theo các chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực. b. Nhà nước với cơ sở kinh tế - Cơ sở kinh tế quyết định sự tồn tại và phát triển của nhà nước; - Nhà nước có sự tác động trở lại đối với nền kinh tế. c. Nhà nước trong hệ thống chính trị. - Nhà nước là trung tâm của hệ thống chính trị; - Các thiết chế chính trị khác có vai trò nhất định đối với nhà nước. d. Nhà nước với pháp luật. - Nhà nước ban hành pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật; - Nhà nước hoạt dộng trong khuôn khổ của pháp luật. 2.4. Bản chất của Nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam: Bản chất của Nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, được quy định tại Điều 2 – Hiến pháp 1992 “Nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền Xã Hội Chủ Nghĩa của nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Bản chất của Nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam được biểu hiện ở những đặc trưng cơ bản sau: a. Nhân dân là chủ thể cao nhất của quyền lực nhà nước: Nhà nước của nhân dân, do nhân dân mà nòng cốt là liên minh công nông và tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ thể cao nhất có quyền định đoạt quyền lực là nhân dân. Với tư cách là chủ thể cao nhất của quyền lực nhà nước, nhân dân thực hiện quyền lực dưới những hình thức khác nhau, trong đó hình thức cơ bản nhất là nhân dân thông qua bầu cử để lập ra các cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của mình; b. Nhà nước là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết các dân tộc anh em cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam: 12 Nhà nước ta là nhà nước nhiều dân tộc, là tổ chức quyền lực chính trị đại diện cho ý chí và bảo vệ lợi ích của tất cả các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc. Tất cả các dân tộc đều có quyền bầu người đại diện cho mình trong các cơ quan quyền lực nhà nước. c. Nhà nước thể hiện tính xã hội rộng lớn: Với quan điểm coi lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến việc giải quyết các vấn đề của toàn xã hội như: Việc làm, thất nghiệp, xoá đói giảm nghèo, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, … Nhà nước coi việc giải quyết các vấn đề xã hội là một trong những phương hướng hoạt động cơ bản của Nhà nước. d. Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức kinh tế, … đều phải đặt trong khuôn khổ của pháp luật. Nhà nước đã và đang xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và ngày càng hoàn thiện nhằm điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội. Quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. e. Nhà nước thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị với các nước trên thế giới: Nhà nước ta thực hiện một cách nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trên thế giới”. 3. Kiểu và Hình thức Nhà nước 3.1. Các kiểu nhà nước trong lịch sử Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội nào.  Khái niệm: Kiểu nhà nước là tổng thể các đặc điểm cơ bản của nhà nước, thể hiện bản chất giai cấp, vai trò xã hội, những điều kiện tồn tại và phát triển của nhà nước trong một hình thái kinh tế – xã hội có giai cấp nhất định. Tương ứng với mỗi hình thái kinh tế – xã hội là một kiểu nhà nước. 13 Tương ứng với ba chế độ xã hội có đối kháng giai cấp trong lịch sử là hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong kiến và hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa là ba kiểu nhà nước: nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản. Tùy theo tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi quốc gia mà mỗi kiểu nhà nước được tổ chức theo những hình thức nhất định. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất “giai cấp vô sản”, nhưng lại là một kiểu nhà nước đặc biệt. * Nhà nước chiếm hữu nô lệ: Đây là nhà nước của giai cấp chủ nô thời cổ đại mà tiêu biểu là các hình thức lịch sử nhà nước chủ nô ở Hy Lạp và La Mã cổ đại như chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà, chính thể quý tộc và chính thể dân chủ. Các hình thức này chỉ khác nhau về cách thức và cơ chế hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước, còn bản chất của chúng đều là nhà nước của giai cấp chủ nô, nhằm thực hiện sự chuyên chính đối với nô lệ. * Nhà nước phong kiến: Đây là nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến. Nhà nước phong kiến cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau. Nói chung, ở phương Tây, hình thức quân chủ phân quyền là hình thức nhà nước phổ biến. Quyền lực nhà nước được chia thành quyền lực độc lập, địa phương phân tán. Mỗi chúa phong kiến là một ông vua trên lãnh thổ của mình. Mối liên hệ thực sự giữa các chúa phong kiến châu Âu chủ yếu được thiết lập bằng các hình thức liên minh của các nhà nước cát cứ, trong đó Thiên Chúa giáo trở thành mối quan hệ tinh thần thiêng liêng. Giữa các tiểu vương quốc phong kiến ở phương Đông (tiêu biểu là Trung Quốc và Ấn Độ), hình thức quân chủ tập quyền là hình thức nhà nước phổ biến dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất. Trong nhà nước này, quyền lực của vua được tăng cường rất mạnh, hoàng đế có uy quyền tuyệt đối, ý chí của vua là pháp luật. Dù tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào, nhà nước phong kiến cũng chỉ là chính quyền của giai cấp địa chủ, quý tộc, là cơ quan bảo vệ những đặc quyền phong kiến, là công cụ của giai cấp địa chủ phong kiến dùng để áp bức, thống trị nông nô. * Nhà nước tư sản: Nhà nước tư sản cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng nói chung, chỉ có hai hình thức cơ bản nhất là hình thức cộng hoà và hình thức quân chủ lập hiến. Hình thức cộng hoà lại được tổ chức dưới những hình thức khác nhau như cộng hoà Đại nghị, cộng hoà Tổng thống trong đó hình thức cộng hoà Đại nghị là hình thức điển hình và phổ biến nhất. Trong thực tế, nhằm thích ứng 14 với điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia, các hình thức cụ thể của nhà nước tư sản hiện đại lại có sự khác nhau khá lớn, về chế độ bầu cử, chế độ tổ chức một viện hay hai viện, về nhiệm kỳ tổng thống, về sự phân chia quyền lực giữa tổng thống và nội các. Hình thức của nhà nước tư sản rất phong phú nhưng không làm thay đổi bản chất của nó - đó là công cụ của giai cấp tư sản dùng để áp bức thống trị giai cấp vô sản và quần chúng lao động để bảo vệ lợi ích và quyền thống trị của giai cấp tư sản. Đúng như V.I.Lênin đã đã chỉ ra: “Những hình thức của nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một: chung quy lại thì tất cả những nhà nước ấy, vô luận thế nào, cũng tất nhiên phải là nền chuyên chính tư sản”. Tuy nhiên có thể thấy trước khi có nền dân chủ vô sản thì nền dân chủ đạt được trong chủ nghĩa tư bản là nấc thang khá quan trọng trong sự tiến hóa của nền dân chủ trong lịch sử. Sự ra đời chế độ dân chủ tư sản là một bước tiến về chất trong sự phát triển của nhà nước. ở đó, nó đã kết tinh được những giá trị dân chủ được sáng tạo ra trong thời kỳ trước khi giai cấp công nhân cầm quyền, đồng thời thể hiện được những nhân tố mang tính nhân loại, mang tính nhân dân chứa đựng trong một số chuẩn mực dân chủ đang được thực hiện ở các nước tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển hợp quy luật của các giá trị đó là những nhân tố nội tại dẫn tới phủ định chủ nghĩa tư bản. Nền dân chủ vô sản với tư cách là nền dân chủ cao về chất so với dân chủ tư sản cũng chỉ ra đời một khi biết kế thừa, phát triển toàn bộ những giá trị dân chủ mà loài người đã sáng tạo ra trong lịch sử, đặc biệt là những giá trị dân chủ đạt được trong chủ nghĩa tư bản. * Nhà nước XHCN (hay Nhà nước vô sản): Nhà nước XHCN là một kiểu nhà nước đặc biệt trong lịch sử. Tính chất đặc biệt của nó trước hết là ở chỗ nó chỉ tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, nó là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử của xã hội loài người. C.Mác khẳng định: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”. Sự tồn tại của nhà nước vô sản trong thời kỳ quá độ này là tất yếu vì trong thời kỳ quá độ xã hội còn tồn tại các giai cấp bóc lột và các lực lượng xã hội, chúng chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội khiến giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải trấn áp chúng bằng bạo lực. Hơn nữa, trong thời kỳ quá độ còn có các giai 15 cấp và tầng lớp trung gian khác. Do địa vị kinh tế - xã hội của mình, họ dễ dao động giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, họ không thể tự mình tiến lên chủ nghĩa xã hội. Giai cấp vô sản phải tìm mọi cách thu hút lực lượng đông đảo về phía mình. ở đây, chuyên chính vô sản đóng vai trò là thiết chế cần thiết để bảo đảm sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với nhân dân. Tính chất đặc biệt của nhà nước XHCN còn thể hiện ở chỗ chức năng cơ bản nhất, chủ yếu nhất của nó không phải là chức năng bạo lực mà là chức năng tổ chức xây dựng kinh tế – xã hội. Khi đề cập tới vấn đề này, V.I.Lênin cho rằng chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột, và cũng không phải chủ yếu là bạo lực mà mặt cơ bản của nó là tổ chức, xây dựng toàn diện xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Cũng vì những tính chất đặc biệt như vậy của nhà nước XHCN mà những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định rằng nhà nước XHCN là một kiểu nhà nước đặc biệt trong lịch sử; đó là "nhà nước không còn nguyên nghĩa", là nhà nước "nửa nhà nước". Sau khi những cơ sở kinh tế, xã hội của sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước mất đi thì nhà nước sẽ không còn. Sự mất đi của nhà nước XHCN không phải bằng con đường "thủ tiêu", "xóa bỏ" mà bằng con đường "tự tiêu vong". Sự tiêu vong của nhà nước XHCN là một quá trình rất lâu dài. Tính chất đặc biệt của nhà nước XHCN còn thể hiện ở cơ sở quyền lực của nhà nước - đó là nền tảng liên minh công nông làm nòng cốt cho sự liên minh với mọi tầng lớp những người lao động khác trong xã hội. Để thực hiện sứ mệnh của mình, giai cấp công nhân cần có sự hỗ trợ, cộng tác, liên minh, vững chắc và ngày càng củng cố với những người lao động khác. Do vậy, chuyên chính vô sản là một loại liên minh đặc biệt giữa giai cấp công nhân với quần chúng lao động không vô sản. Nhà nước XHCN hay NN vô sản do vậy phải là chính quyền của nhân dân, là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Cũng do đó, chế độ dân chủ vô sản là chế độ dân chủ theo nghĩa đầy đủ nhất của từ này. Đó là nền dân chủ bao quát toàn diện mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó lấy dân chủ trên lĩnh vực kinh tế làm cơ sở. Chủ nghĩa xã hội không thể tồn tại và phát triển được nếu thiếu dân chủ, thiếu sự thực hiện một cách đầy đủ và mở rộng không ngừng dân chủ. “Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn, v.v.” là một trong những nhiệm vụ cấu thành của cách mạng xã hội chủ nghĩa, là một vấn đề có tính quy luật của sự phát triển và hoàn thiện nhà 16 nước vô sản. Giai cấp công nhân không chỉ có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc đấu tranh để giải phóng dân tộc mình, mà còn có vai trò lịch sử toàn thế giới. Do vậy, chuyên chính vô sản còn phải làm nghĩa vụ quốc tế của mình, bằng việc giúp đỡ từ mọi phương diện có thể được cho cuộc đấu tranh của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhà nước XHCN là tổ chức, thông qua đó, Đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhà nước đó không giữ được bản chất giai cấp công nhân của mình. Do vậy, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước là nguyên tắc sống còn của chuyên chính vô sản. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước không chỉ là yếu tố bảo đảm bản chất giai cấp vô sản của nhà nước, mà còn là điều kiện để giữ tính nhân dân của nhà nước đó. Đây cũng là một tính chất đặc biệt của nhà nước XHCN. Nhà nước XHCN có thể tồn tại dưới các hình thức khác nhau. Công xã Pari năm 1871 đã sản sinh ra nhà nước vô sản kiểu Công xã. Hình thức thứ hai của chuyên chính vô sản là Xôviết. Ở một số nước, nhà nước vô sản còn tồn tại dưới hình thức nhà nước dân chủ nhân dân (Trung Quốc). Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội mang lại cho nhà nước vô sản nhiều hình thức mới. Tính đa dạng của nhà nước đó tùy thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của thời điểm xác lập nhà nước ấy, tùy thuộc vào tương quan lực lượng giữa các giai cấp và khối liên minh giai cấp tạo thành cơ sở xã hội của nhà nước, tùy thuộc vào nhiệm vụ kinh tế - chính trị - xã hội mà nhà nước đó phải thực hiện, tùy thuộc vào truyền thống chính trị của dân tộc. Hình thức cụ thể của nhà nước trong thời kỳ quá độ có thể rất khác nhau, nhưng bản chất của chúng chỉ là một: chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. 3.2. Hình thức Nhà nước Hình thức nhà nước là cách tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước và phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước. Hình thức nhà nước gồm 3 yếu tố: 3.2.1. Hình thức chính thể: Hình thức chính thể là cách tổ chức và trình tự để lập ra các cơ quan tối cao của nhà nước (ở trung ương) và xác lập mối quan hệ cơ bản giữa các cơ quan đó. Có hai loại hình thức chính thể cơ bản: a. Chính thể quân chủ: 17 Quyền lực tối cao của nhà nước tập trung toàn bộ hay một phần trong tay người đứng đầu nhà nước và được chuyển giao theo nguyên tắc thừa kế thế tập. Chính thể quân chủ có 2 dạng: - Quân chủ tuyệt đối: người đứng đầu nhà nước có quyền lực vô hạn; - Quân chủ hạn chế: người đứng đầu nhà nước chỉ nắm một phần quyền lực tối cao và bên cạnh đó còn có cơ quan quyền lực khác (ngày nay còn được gọi là chế độ quân chủ lập hiến); b. Chính thể cộng hòa: Quyền lực tối cao của nhà nước thuộc về một cơ quan được bầu ra trong một thời gian xác định; Chính thể cộng hoà có 2 dạng: - Cộng hoà quý tộc: quyền bầu cử để thành lập ra cơ quan đại diện (quyền lực) nhà nước chỉ được dành cho tầng lớp quý tộc; - Cộng hoà dân chủ: quyền bầu cử được quy định về mặt hình thức pháp lý đối với toàn thể nhân dân. Hiện nay, các nhà nước hiện đại chỉ tồn tại hình thức chính thể Cộng hoà dân chủ với các biến dạng chủ yếu là: Cộng hoà Tổng thống, Cộng hoà đại nghị ; Cộng hoà hỗn hợp , Cộng hoà xã hội chủ nghĩa 3.2.2. Hình thức cấu trúc nhà nước: Hình thức cấu trúc nhà nước là sự phân chia nhà nước thành các đơn vị hành chính lãnh thổ và xác lập mối quan hệ cơ bản giữa các cơ quan nhà nước trung ương với địa phương. Có hai loại hình thức cấu trúc nhà nước phổ biến: - Nhà nước đơn nhất: có chủ quyền duy nhất, công dân có một quốc tịch, có một hệ thống cơ quan nhà nước và một hệ thống pháp luật thống nhất; ví dụ: Vương quốc Thụy Điển, Cộng hòa Cuba…; - Nhà nước liên bang (do nhiều nhà nước thành viên hợp thành): vừa có chủ quyền của nhà nước liên bang, vừa có chủ quyền của các nhà nước thành viên, công dân có hai quốc tịch, có hai hệ thống cơ quan nhà nước và hai hệ thống pháp luật; ví dụ: Cộng hòa liên bang Nga, Liên bang Braxin… 3.2.3. Chế độ chính trị: là tổng thể các phương pháp mà các cơ quan nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước. Có hai phương pháp cơ bản: - Phương pháp dân chủ: dân chủ thật sự và dân chủ giả hiệu, dân chủ rộng rãi và dân chủ hạn chế, dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp…; 18 - Phương pháp phản dân chủ: thể hiện tính độc tài, đáng chú ý là khi những phương pháp này phát triển đến cao độ sẽ trở thành những phương pháp tàn bạo, quân phiệt và phát xít. 4. Chức năng của Nhà nước 4.1. Khái niệm: Chức năng của nhà nước là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ cơ bản của nó. Chức năng của nhà nước xuất phát từ bản chất nhà nước. 4.2. Phân loại: Căn cứ vào phạm vi hoạt động của nhà nước, người ta phân chia thành hai chức năng sau: - Chức năng đối nội: là những phương diện hoạt động của nhà nước trong phạm vi nội bộ đất nước như đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, quản lý kinh tế, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa, trấn áp các phần tử chống đối chế độ, bảo vệ và phát triển kinh tế, …; - Chức năng đối ngoại: là những hoạt động của nhà nước trong quan hệ với các quốc gia, dân tộc khác như thiết lập quan hệ ngoại giao, phòng thủ đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, … Các chức năng đối nội và đối ngoại có quan hệ mật thiết với nhau, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau. Việc thực hiện tốt chức năng đối nội tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tốt các chức năng đối ngoại và ngược lại. 4.3. Hình thức và phương pháp thực hiện chức năng: Để thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại, Nhà nước sử dụng nhiều hình thức, phương pháp hoạt động khác nhau: - Hình thức: Có 3 hình thức hoạt động chính: + Xây dựng pháp luật; + Tổ chức thực hiện pháp luật; + Bảo vệ pháp luật. - Phương pháp: Có 2 phương pháp hoạt động chính: + Giáo dục, thuyết phục; + Cưỡng chế. 19 Tuỳ vào điều kiện, hoàn cảnh, đặc thù của mỗi quốc gia mà nhà nước đó quyết định sử dụng phương pháp nào nhiều hơn. Trong Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa thì lấy phương pháp giáo dục, thuyết phục làm phương pháp chính. 4.4. Chức năng của Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa: Cũng giống như các kiểu nhà nước nói chung, căn cứ vào phạm vi hoạt động của nhà nước, có thể chia chức năng của Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa thành chức năng đối nội và đối ngoại. Tuy nhiên, nội dung và tính chất của các chức năng này có những đặc thù nhất định, thể hiện như sau: a. Các chức năng đối nội: - Bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; - Thực hiện và phát huy quyền tự do, dân chủ của nhân dân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; - Tổ chức và quản lý kinh tế; - Tổ chức và quan lý văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ; - Xây dựng và thực hiện các chính sách xã hội; - Bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. b. Các chức năng đối ngoại: - Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đảm bảo khả năng quốc phòng, đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược; - Cũng cố và tăng cường tình hữu nghị, hợp tác truyền thống với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng; đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác, hữu nghị với tất cả các nước trong khu vực và trên thế giới theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và cùng có lợi; - Ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng, phong trào tiến bộ trên thế giới; chống chủ nghĩa đế quốc, chống chiến tranh, chống chạy đua vũ trang, chống vũ khí tiêu diệt hàng loạt, chống phân biệt chủng tộc, … tích cực góp phần đấu tranh vì một thế giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác, bình đẳng và phát triển. 20 Chương 2 BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 1. Khái niệm và nguyên tắc tổ chức hoạt động của Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 1.1. Khái niệm bộ máy nhà nước CHXHCNVN. Bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung thống nhất tạo thành một cơ cấu đồng bộ để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Qua định nghĩa trên, nhận thấy: Bộ máy nhà nước được tạo nên bởi hệ thống các tế bào – đó là cơ quan nhà nước, các cơ quan này bao gồm một nhóm công chức nhà nước, được thành lập và có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Đặc điểm nổi bật để phân biệt cơ quan nhà nước với các tổ chức khác là “tính quyền lực” của cơ quan nhà nước. Biểu hiện: chỉ duy nhất cơ quan nhà nước mới có quyền nhân danh nhà nước thực thi các quyền lực nhà nước trong phạm vi thẩm quyền của mình. Ví dụ 1: Cơ quan nhà nước có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc áp dụng pháp luật có giá trị bắt buộc thu hành đối với các chủ thể khác trong xã hội; Ví dụ 2: Cơ quan nhà nước có quyền kiểm tra, giám sát việc thực hiện văn bản do mình ban hành; quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong những trường hợp các chủ thể không tự giác chấp hành quy định pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và gây thiệt hại cho các chủ thể khác. - Đặc điểm của bộ máy nhà nước XHCHCN: + Bộ máy nhà nước được cấu tạo bởi các cơ quan nhà nước và các cơ quan này được tổ chức theo nguyên tắc chung thống nhất có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. + Bộ máy Nhà nước CHXHCNVN có đội ngũ cán bộ là những công chức mới đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định có tinh thần yêu nước, yêu CNXH, tận tụy phục vụ nhân dân, có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực…. 21 + Bộ máy nhà nước hợp thành từ nhiều cơ quan và tổ chức nhà nước từ TW xuống địa phương, có cơ cấu tổ chức phức tạp phong phú và đa dạng. Các cơ quan nhà nước được thành lập theo quy định của pháp luật. Đó là những tổ chức có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có biên chế xác định với đội ngũ cán bộ được xếp ngạch, bậc căn cứ vào nhiệm vụ cụ thể được phân công và năng lực, trình độ thực tế của mỗi người. + Bộ máy nhà nước XHCN được tổ chức xuất phát từ bản chất của nhà nước XHCN và phải phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể và các yếu tố như truyền thống dân tộc, điều kiện tự nhiên và xã hội..của mỗi nước trong từng thời kỳ cụ thể. Khi nhu cầu khách quan của xã hội và những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, thay đổi thì bộ máy nhà nước cũng sẽ có cải cách hoặc đổi mới tương ứng. 1.2. Nguyên tắc tổ chức của bộ máy nhà nước CHXHCNVN. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, khách quan và khoa học, phù hợp với bản chất của nhà nước, làm cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Những nguyên tắc đó được quy định trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. a. Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. - Cơ sở pháp lý: Điều 2, 6, 7, 11 và 53 của Hiến pháp 1992. - Biểu hiện: + Nhân dân có quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc hội và HĐND các cấp theo quy định của pháp luật; + Quyền tham gia quản lý nhà nước, tham gia thảo luận các vấn đề chung của nhà nước ở trung ương và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước trưng cầu dân ý; + Quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, công chức, viên chức nhà nước; + Quyền khiếu nại, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan và nhân viên nhà nước. b. Nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, trên cơ sở có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. - Cơ sở pháp lý: Điều 2 Hiến pháp 1992 22 - Cơ sở thực tiễn: Xuất phát từ vị trí, vai trò của Quốc hội và HĐND là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, hệ thống các cơ quan nhà nước khác được thành lập từ trung ương tới địa phương là để cùng phối hợp với cơ quan quyền lực nhà nước thực thi quyền lực nhà nước và phải chịu trách nhiệm trước Quốc Hội và HĐND các cấp. - Biểu hiện: + Quốc hội và HĐND: là cơ quan quyền lực, thực hiện quyền lập pháp; + Chính phủ và UBND các cấp: là cơ quan hành pháp; + Toà án: là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình các cơ quan có sự kiểm soát lẫn nhau đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước bảo đảm không ngừng củng cố và phát huy quyền làm chủ mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh (Điều 3 HP 1992) c. Nguyên tắc giữ vững sự lãnh đạo của Đảng. - Cơ sở pháp lý: Điều 4 Hiến pháp 1992 “Đảng cộng sản Việt Nam, đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội”. - Biểu hiện: + Đảng đề ra đường lối chiến lược về đối nội, đối ngoại đề nhà nước thể chế hóa thành pháp luật; + Đảng lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ của nhà nước, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho nhà nước, giới thiệu Đảng viên vào các vị trí then chốt trong bộ máy nhà nước; + Đảng lãnh đạo công tác chính trị, tư tưởng, giáo dục chính trị cho đảng viên và quần chúng ngoài Đảng; + Đảng kiểm soát sự hoạt động của Bộ máy nhà nước. Đảng lãnh đạo bằng phương pháp vận động, tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục. Lãnh đạo nhưng không làm thay nhà nước. d. Nguyên tắc tắc tập trung, dân chủ - Cơ sở pháp lý: Điều 6 Hiến pháp 1992 - Biểu hiện: 23 Quốc hội và HĐND các cấp và các cơ quan nhà nước khác đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tắc tập trung dân chủ. Quốc hội chủ đạo thống nhất sự hoạt động của cả bộ máy nhà nước, các cơ quan trong mỗi phân hệ chịu sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của các cơ quan đứng đầu phân hệ ấy. Cơ quan nhà nước cấp trên quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách kinh tế, pháp luật quan trọng; kiểm tra việc chấp hành của cơ quan cấp dưới; cấp dưới phải phục tùng cấp trên và tự giải quyết các công việc thuộc thẩm quyền của mình; không trông chờ, ỷ lại. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp và thông qua các cơ quan quyền lực nhà nước các cấp. e. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa - Cơ sở pháp lý: Điều 12 Hiến pháp 1992 đã khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”, “các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm hiến pháp và pháp luật. Mọi hoạt động xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật”. - Biểu hiện: Mọi hành vi xâm phạm quyền lợi hợp pháp của nhà nước và công dân đều vị xử lý theo quy định của pháp luật. Trong hoạt động của bộ máy nhà nước, mọi cơ quan nhà nước, công chức nhà nước đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật đầy đủ, nghiêm mnh và thống nhất, chỉ được làm điều pháp luật cho phép, không làm điều pháp luật cấm, làm điều pháp luật yêu cầu phải làm. g. Nguyên tắc bảo đảm sự hợp tác và bình đẳng giữa các dân tộc - Cơ sở pháp lý: Điều 5 Hiến pháp 1992 “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc”. - Biểu hiện: 24 + Xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật đảm bảo các dân tộc có quyền sử dụng tiếng nói, chữ viết và phát huy truyền thống tốt đẹp, phong tục, tập quán của mình. + Thực hiện các chính sách nâng cao chất lượng cuộc sống đồng bào dân tộc ít người. + Tổ chức bộ máy nhà nước, xây dựng các cơ quan chuyên giải quyết các vấn đề liên quan tới chính sách dân tộc (Hội đồng dân tộc, Ủy ban dân tộc) chăm lo các vấn đề về dân tộc và miền núi. 2. Các cơ quan trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN). 2.1. Các cơ quan quyền lực nhà nước. Cơ quan quyền lực nhà nước là cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra, nhân danh nhân dân để thực hiện và thực thi một cách thống nhất quyền lực, phải chịu trách nhiệm và phải báo cáo nhân dân về mọi hoạt động của mình. Tất cả cơ quan khác của bộ máy nhà nước đều do cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp thành lập ra và đều phải chịu sự giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước. Cơ quan quyền lực nhà nước bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. a. Quốc hội Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, có quyền quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của cơ quan nhà nước. Thẩm quyền của Quốc hội được quy định tại Điều 84 Hiến pháp 1992. Thành phần của Quốc hội gồm có: Chủ tịch Quốc hội, các Phó chủ tịch Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban khác của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội, do Quốc hội bầu và chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội. Trong thời gian giữa hai kỳ họp của Quốc hội, cơ quan thường trực của Quốc hội được thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội như phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên của Chính phủ, quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nhà nước bị xâm lược... Tuy nhiên, tất cả 25 những quyết định trên của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đều phải báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Nhiệm kỳ của mỗi khoá Quốc hội là 5 năm, Quốc hội hoạt động thông qua các kỳ họp, mỗi năm họp 2 kỳ do Uỷ ban thường vụ Quốc hội chuẩn bị, triệu tập và chủ trì. Kỳ họp của Quốc hội được tổ chức công khai, trừ trường hợp cần thiết Quốc hội có thể họp kín. Cơ quan chuyên môn của Quốc hội được chia thành 7 Uỷ ban là: Uỷ ban Pháp luật; Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách; Uỷ ban Quốc phòng và An ninh; Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên, Nhi đồng; Uỷ ban về Các vấn đề xã hội; Uỷ ban Khoa học Công nghệ và Môi trường; Uỷ ban Đối ngoại. b. Hội đồng nhân dân Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra, phải chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên (Điều 119 Hiến pháp 1992). Tổ chức của Hội đồng nhân dân được phân theo ba cấp: cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương); cấp huyện (huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh); cấp xã (xã, phường, thị trấn). Nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân các cấp là 5 năm tương ứng với nhiệm kỳ của Quốc hội. Địa vị pháp lý, thẩm quyền, cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân được quy định trong Hiến pháp 1992 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân và Uỷ ban nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003. 2.2. Chủ tịch nước Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nhà nước về đối nội, đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số đại biểu Quốc hội, phải báo cáo công tác trước Quốc hội, nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Chủ tịch nước được trao nhiều quyền hạn rộng lớn trong cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp, là người giữ quyền thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước được quy định tại Điều 103 Hiến pháp 1992. 2.3. Hệ thống cơ quan quản lý hành chính nhà nước 26 Ở Việt Nam, bộ máy quản lý hành chính nhà nước là bộ máy lớn nhất, có cơ cấu phức tạp nhất và có đội ngũ cán bộ, công chức đông đảo nhất. Bộ máy quản lý là nơi trực tiếp tổ chức việc thực thi pháp luật, trực tiếp thực hiện các chức năng quản lý, điều hành mọi công việc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống cơ quan quản lý hành chính ở nước ta gồm: Chính phủ và các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Uỷ ban nhân dân các cấp và các sở, cơ quan ngang sở, cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; các phòng, cơ quan ngang phòng và cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện; các cán bộ chuyên môn ở cấp xã. - Các cơ quan quản lý chung như: Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp. - Các cơ quan quản lý riêng (quản lý theo ngành dọc) như: các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; các sở, cơ quan ngang sở, cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; các phòng, cơ quan ngang phòng và cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện; các cán bộ chuyên môn ở cấp xã. * Chính phủ Điều 109 Hiến pháp 1992 quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ là cơ quan quản lý hành chính nhà nước cao nhất, có thẩm quyền chung. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy nhà nước từ trung ương xuống cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành hiến pháp và pháp luật ; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Thẩm quyền của Chính phủ được quy định tại Điều 112 Hiến pháp 1992 và được cụ thể hoá trong Chương II Luật Tổ chức Chính Phủ được Quốc hội thông qua ngày 25/12/2001. Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác. Ngoài Thủ tướng Chính phủ, các thành viên khác không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội. 27 Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội, khi Quốc hội hết nhiệm kỳ thì Chính phủ tiếp tục làm việc cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập Chính phủ mới. * Các bộ và cơ quan ngang bộ Các bộ, cơ quan ngang bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ là các cơ quan quản lý nhà nước cấp trung ương, là cơ quan chuyên môn thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các ngành (như nông nghiệp, công nghiệp…) hoặc các lĩnh vực (như lao động, kế hoạch, tài chính…). * Uỷ ban nhân dân các cấp Điều 123 Hiến pháp 1992 quy định: Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Uỷ ban nhân dân các cấp là cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương, là cơ quan có thẩm quyền chung, thực hiện sự quản lý thống nhất mọi mặt đời sống xã hội ở địa phương. Tổ chức của Uỷ ban nhân dân được phân theo 3 cấp: - Cấp tỉnh: có tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương; - Cấp huyện: có huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; - Cấp xã: có xã, phường và thị trấn. Uỷ ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp và Hội đồng nhân dân cùng cấp. Uỷ ban nhân dân các cấp thành lập các sở, phòng, ban chuyên môn ở địa phương. Các cơ quan này có nhiệm vụ thực hiện chức năng quản lý chuyên môn trong phạm vi lãnh thổ địa phương và trực thuộc Uỷ ban nhân dân cùng cấp và cơ quan quản lý chuyên ngành cấp trên. Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Uỷ ban nhân dân các cấp được quy định trong Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003. Nhiệm kỳ của Uỷ ban nhân dân theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp. * Các sở, phòng, ban chứ năng của Uỷ ban nhân dân : là các cơ quan thực hiện chức năng quản lý chuyên môn trong phạm vi địa phương. Các cơ quan này được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc hai chiều phụ thuộc. 28 Nhưng khác với Uỷ ban nhân dân, các sở, phòng, ban chỉ trực thuộc Uỷ ban nhân dân cùng cấp và cơ quan quản lý chuyên ngành cấp trên. 2.4. Hệ thống cơ quan xét xử Điều 127 Hiến pháp 1992 quy định: “ Toà án nhân dân tối cao, các toà án nhân dân địa phương, các toà án quân sự và các toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.” Hệ thống cơ quan xét xử ở Việt Nam là hệ thống toà án, đây là hệ thống cơ quan có tính chất đặc thù, chúng trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước, chịu trách nhiệm báo cáo trước cơ quan quyền lực nhà nước, nhưng trong hoạt động lại độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Điều 1 Luật tổ chức Toà án nhân dân do Quốc hội thông qua ngày 2/4/2002 quy định: “Toà án xét xử các vụ án Hình sự, Dân sự, Hôn nhân & gia đình, Lao động, Kinh tế, Hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật”. Hệ thống toà án ở Việt Nam gồm có: - Tòa án nhân dân các cấp, gồm có: + Toà án nhân dân tối cao; + Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; + Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. - Toà án quân sự gồm có: + Toà án quân sự trung ương; + Toà án quân sự quân khu; + Toà án quân sự khu vực. + Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể thành lập những toà án đặc biệt. Chánh án toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì báo cáo trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ của Chánh án theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Trong hoạt động xét xử, toà án phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản là: Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định; xét xử tập thể và quyết định theo đa số; bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo; bảo đảm cho công dân thuộc các dân tộc được dùng tiếng nói và chữ 29 viết của dân tộc mình; bảo đảm quyền giám sát của cơ quan quyền lực đối với hoạt động xét xử. Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, thẩm quyền, chức năng của toà án nhân dân các cấp được quy định cụ thể trong Luật Tổ chức Toà án nhân dân. 2.5. Hệ thống cơ quan kiểm sát Điều 137 Hiến pháp 1992 quy định: Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan nhà nước "thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”, “góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Hệ thống tổ chức của viện kiểm sát ở Việt Nam gồm có: + Viện kiểm sát nhân dân gồm có: - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; - Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. + Viện kiểm sát quân sự, bồm có: - Viện kiểm sát quân sự trung ương; - Viện kiểm sát quân sự quân khu; - Viện kiểm sát quân sự khu vực. Hệ thống viện kiểm sát ở nước ta được tổ chức thống nhất theo ngành dọc và thực hiện chế độ thủ trưởng. Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì báo cáo trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao có nhiệm vụ lãnh đạo thống nhất toàn bộ hệ thống viện kiểm sát từ trung ương đến cơ sở; có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với tất cả các thành viên của viện kiểm sát cấp dưới. Thẩm quyền, cơ cấu tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân các cấp được quy định trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 2/4/2002. 3. Vấn đề xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước CHXHCNVN Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, đã thể hiện bản chất của một kiểu nhà nước mới, một chế độ dân chủ rộng rãi, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, phục vụ lợi ích dân tộc, nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau hơn nửa thế kỷ, bộ máy nhà nước ta đã được 30 củng cố, phát triển, hoàn thành nhiệm vụ của mình trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và xây dựng một chế độ xã hội mới. Tuy nhiên, kể từ khi chuyển đổi phát triển theo nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước ta đã bộc lộ nhiều khuyết điểm và yếu kém trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động như tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, hệ thống pháp luật còn chưa đồng bộ và thiếu hoàn chỉnh; trình độ, năng lực cán bộ còn hạn chế… Vì vậy, yêu cầu cấp thiết được đặt ra là cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước, để bộ máy đó thực sự trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả, bài trừ những khuyết điểm, yếu kém, luôn giữ vững và phát huy bản chất của một nhà nước của dân, do dân và vì dân. Việc xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau: + Tiếp tục phát huy cao độ bản chất dân chủ, tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước trước nhân dân. + Kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, tinh giản, gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả, nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước trước nhân dân. Xây dựng một xã hội dân chủ trong đó cán bộ và công chức nhà nước phải thực sự là công bộc của nhân dân. Xác định các hình thức tổ chức và có biện pháp để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Bảo đảm quyền con người và các quyền công dân. Hoàn thiện cơ chế đề dân góp ý kiến, phản biện xã hội và giám sát cơ quan, công chức nhà nước. Hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở. + Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; tăng cường dân chủ trong Đảng; khắc phục tình trạng Đảng buông lỏng sự quản lý, làm thay chức năng của chính quyền. Ba yêu cầu đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, dựa trên nền tảng chung là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, thực hiện đại đoàn kết dân tộc mà nòng cốt là liên minh công nông và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. 31 Trong giai đoạn hiện nay, muốn phát huy hiệu quả vai trò quản lý của nhà nước, nhiệm vụ trong công tác xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước bao gồm những nội dung sau: - Cải cách thể chế và phương pháp hoạt động của nhà nước: + Kiện toà tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động của Quốc hội: đảm bảo Quốc hội là cơ quan đại diện thực sự cho quyền lực của nhân dân; là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; đổi mới quy trình ban hành luật; năng cao chức năng giám sát của Quốc Hội; hoàn thiện cơ chế bầu ĐBQH để cử tri lựa chọn; nâng cao chất lượng đại biểu QH, tăng đại biểu chuyên trách; + Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh; từng bước hiện đại hoá: kiện toàn hệ thống cơ quan hành chính theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, hiệu quả; cải cách thủ tục hành chính; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý hành chính; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành hệ thống hành chính các cấp; + Cải cách tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp: đổi mới hệ thống tổ chức TAND, cải cách hoạt động xét xử của tòa án; mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án với vụ án hành chính; bảo đảm quyền thực hành công tố của Viện kiểm sát; tăng cường trách nhiệm công tố trong nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp; tăng cường sự kiểm tra, giám sát của dân trong hoạt động của cơ quan tư pháp. + Nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương sát thực tế, hiệu quả, đảm bảo quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp. - Không ngừng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo tinh thần pháp luật của nhà nước pháp quyền. Đổi mới công tác xây dựng pháp luật, quy trình xây dựng pháp luật, pháp lệnh, nâng cao chất lượng của hệ thống pháp luật. Hệ thống văn bản pháp luật ban hành cần quy định cụ thể, tăng tính khả thi để nhanh đi vào cuộc sống. Đồng thời tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN; đẩy mạnh và hoàn thiện cơ chế kiểm tra giám sát việc thực hiện pháp luật, nhất là kiểm tra, giám sát tính hợp pháp, hợp hiến trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền, cơ chế phán quyết trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp; tích cực phòng chống tha nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm. 32 Chương III XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 1. Khái niệm và đặc điểm cơ bản của Nhà nước pháp quyền 1.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền. a. Vài nét về lịch sử tư tưởng, học thuyết nhà nước pháp quyền. Hệ thống những tư tưởng về sự thống trị của pháp luật trong đời sống nhà nước, xã hội và ý tưởng về nhà nước quản lý bằng pháp lyuật đã hình thành rất sớm, từ thời cổ đại. Ngay từ thời kỳ này, những tư tưởng chính trị pháp lý của phương Tây và phương Đông đã chứa đựng nhân tố nhà nước pháp quyền. Ở phương Đông, tư tưởng chính trị của trường phái pháp gia mà tiêu biểu là Hàn Phi Tử khẳng định pháp trị là phương pháp duy nhất đúng để cai trị, các quy định của pháp luật phải công bằng và phải thay đổi theo thời gian cho phù hợp với thực tại. Tư tưởng pháp quyền của phương Tây được thể hiện rõ ràng và sâu sắc hơn. Chẳng hạn Xô Lông (Thế kỷ VI tr.CN) đã nêu tư tưởng về nhà nước pháp quyền khi ông chủ trương cải cách nhà nước thông qua việc đề cao vai trò của pháp luật. Còn Aritxtot (384 – 342 tr.CN) người được đánh giá là nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại đã khẳng định vị trí tối thượng của pháp luật, coi nhà nước là những nhà cầm quyền cai trị trên cơ sở pháp luật, theo đó bất kỳ nhà nước nào cũng có ba bộ phận: cơ quan làm luật, cơ quan thực hành pháp luật và cơ quan xét xử. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời cổ đại được các nhà tư tưởng tư sản tiếp thu và phát triển trong điều kiện mới. Nội dung chủ yếu nhằm chống chế độ chuyên quyền phong kiến, tình trạng không pháp luật, pháp luật hà khắc, dã man. Nêu lên những quan điểm pháp quyền mới: pháp luật giữ vai trò thống trị, bảo vệ quyền con người, nguyên tắc phân chia quyền lực… Thế kỷ XVII, ý tưởng về nhà nước pháp quyền được khẳng định rõ, tiêu biểu là học giả Locke cho rằng quyền lực nhà nước gồm 3 loại: lập pháp, hành pháp, liên minh và liên kết trong đó lập pháp là tố cao vì nó có quyền làm ra các đạo luật có giá trị bắt buộc với mọi chủ thể trong xã hội. Nhà tư tưởng Pháp Montesquieu và Rousseau đều nêu tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong tác phẩm của mình. Theo ông, để ngăn chặn sự lạm quyền phải phân 33 chia quyền lực nhà nước ra làm 3: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Ba loại quyền lực trên phải được chia tách nhau, trao cho chủ thể khác nhau thì mới đảm bảo được quyền tự do của công dân. Trong đó, Rousseau chú trọng tới quyền lập pháp, theo ông, quyền lập pháp là quyền có tính quyết định và nó thuộc về nhân dân. Còn những người được ủy thác nắm quyền hành pháp không phải là ông chủ của nhân dân mà là công chức và nhân dân có quyền cất nhắc hay bãi miễn họ. Họ không có quyền đặt điều kiện với dân, chỉ phục tùng mà không có quyền phản kháng. Khi chính phủ lạm quyền hoặc thoái hóa thì phải giải tán chính phủ. Đến thế kỷ XVIII, nhà triết học Đức I.Kant đã sử dụng thuật ngữ “nhà nước pháp quyền”. Theo đó, nhà nước là tập hợp của nhiều người cùng phục tùng pháp luật, bản thân nhà nước cũng phải phục tùng pháp luật. Cho đến nay, vấn đề nhà nước pháp quyền tiếp tục được nghiên cứu, trong đó có Việt Nam. Vậy nhà nước pháp quyền là gì? Và nó khác với nhà nước chuyên quyền, độc đoán hay những nhà nước không phải là nhà nước pháp quyền ở những điểm gì? b. Khái niệm nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền là nhà nước được tổ chức, hoạt động trên cơ sở chủ quyền của nhân dân, sự phân chia quyền lực nhà nước, hệ thống pháp luật dân chủ, minh bạch, tiến bộ và là công cụ bảo đảm tự do cá nhân, công bằng xã hội, sự thống trị của pháp luật trong đời sống nhà nước, đời sống xã hội. Qua khái niệm, nhận thấy, nhà nước pháp quyền khác nhà nước chuyên quyền ở những nội dung sau: Thứ nhất, nhà nước pháp quyền được hình thành hợp pháp, quyền lực và hoạt động của nó bị giới hạn bởi pháp luật; nhà nước là công cụ để bảo vệ tự do cá nhân, đem lại lợi ích cho công dân. Thứ hai, nhà nước này có hệ thống pháp luật tiên tiến, bảo đảm bảo vệ quyền con người và quyền tự do dân chủ của công dân. Loại trừ chuyên quyền, đặc quyền của chính phủ. Thứ ba, pháp luật được áp dụng công bằng, trên phạm vi cả nước, mọi chủ thể trong xã hội đều có nghĩa vụ tuân thủ và thực hiện. Tổ chức và hoạt động của nhà nước theo quy định pháp luật. 34 Thứ tư, toàn án độc lập, phán quyết của tòa án phải tuân theo pháp luật và bảo vệ quyền của công dân. 1.2. Đặc điểm cơ bản của Nhà nước pháp quyền. Thứ nhất, nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trên cơ sở chủ quyền nhân dân. Toàn bộ quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân tự mình hoặc thông qua người đại diện để tham gia vào tổ chức và hoạt động của nhà nước, giám sát hoạt động của nhà nước; nhân dân có quyền quyết định tối cao và cuối cùng mọi vấn đề liên quan tới vận mệnh quốc gia, chủ quyền đất nước. Nhà nước phải phục vụ lợi ích hợp pháp của dân, mọi chủ trương, chính sách phải xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của nhân dân. Quyền của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp – đạo luật gốc, luật cơ bản của nhà nước. Thứ hai, trong nhà nước pháp quyền, quyền con người và quyền công dân được tôn trọng và bảo vệ. Xét trên phương diện lý thuyết, nhà nước pháp quyền luôn đảm bảo cho mọi cá nhân có quyền bình đẳng, tự do trước pháp luật, có cơ hội phát triển toàn diện. Quyền công dân được thể hiện trên nhiều lĩnh vưc khác nhau như: kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị. Xét trên phương diện thực tiễn, để quyền công dân được thực hành trên thực tế thì nhà nước đảm bảo cho công dân có đủ điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để thực hiện các quyền của mình trong thực tế. Đồng thời, nhà nước bảo về các quyền tự do cá nhân khỏi sự xâm hại của các chủ thể khác, kể cả cơ quan nhà nước. Thứ ba, nhà nước pháp quyền là nhà nước đảm bảo dân chủ. Biểu hiện của nền dân chủ là: quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, do nhân dân ủy quyền cho nhà nước thực hiện; xã hội được quản lý bằng pháp luật, nhân dân được tham gia vào tiến trình phát triển của xã hội; nhà nước có khả năng thiết lập và củng cố, bảo vệ nền dân chủ; thông qua pháp luật nhà nước thừa nhận quyền dân chủ của công dân, thừa nhận quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của các tổ chức, đoàn thể quần chúng; quy định và giới hạn quyền lực của cơ quan nhà nước. Thứ tư, trong nhà nước pháp quyền, pháp luật giữ vị trí tối thượng trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội. Mối quan hệ giữa nhà nước với pháp luật diễn ra theo chiều hướng tương tác, hỗ trợ nhau. 35 Pháp luật do nhà nước ban hành, nhưng khi đã được ban hành thì pháp luật lại có giá trị bắt buộc đối với nhà nước, là cơ sở pháp lý cho toàn bộ quá trình tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước. Việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước dựa trên cơ sở pháp luật, tiến hành trên cơ sở pháp luật, nhằm thực hiện pháp luật. Pháp luật là công cụ để nhà nước hiện ý chí nhà nước và thực hiện mục đích đó. Mọi cán bộ, công chức nhà nước đều tuyệt đối tuân thủ pháp luật, thực thi pháp luật theo đúng những nguyên tắc, trình tự đã quy định, không được áp dụng luật một cách tùy tiện và nếu có hành vi vi phạm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, phải bồi thường nếu gây thiệt hại. Pháp luật giữ vị trí thống trị trong đời sống xã hội. Tất cả các chủ thể trong xã hội đều phải tuân thủ pháp luật, nếu vi phạm phải chịu trách nhiệm pháp lý. Nếu cùng vấn đề, mối quan hệ mà quy định của pháp luật trong nước mâu thuẫn với pháp luật quốc tế, pháp luật liên quan quốc gia thì ưu tiên áp dụng luật quốc tế, pháp luật liên quốc gia; đồng thời phải sửa đổi luật quốc gia cho phù hợp luật quốc tế. Pháp luật thể hiện tính dân chủ, biểu hiện ở việc không chỉ công dân phải chịu trách nhiệm trước nhà nước mà nhà nước cũng phải chịu trách nhiệm trước công dân khi xâm hại đến quyền và lợi ích của công dân. Tính dân chủ biểu hiện cả trong quá trình xây dựng pháp luật để pháp luật thực sự thể hiện ý chí của nhân dân, các quy định của pháp luật phải cụ thể, rõ ràng, công khai. Thứ năm, nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trên cơ sở có sự phân chia quyền lực nhà nước, dùng quyền lực để kiểm tra, giám sát thực hiện quyền lực. Mục tiêu của nó là nhằm khắc phục tình trạng lạm quyền trong tay một cá nhân, một cơ quan, qua đó tránh sự lạm quyền, độc đoán trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước. Trong nhà nước pháp quyền, hoạt động của nhà nước được quy định trong hiến pháp, phân định thành 3 chức năng: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thực tiễn, quyền lập pháp được trao cho nghị viện hoặc quốc hội, quyền hành pháp trao cho chính phủ và quyền tư pháp trao cho tòa án. Quyền lập pháp là quyền thể hiện ý chí chung của nhân dân thông qua các đạo luật. Quốc hội hoặc nghị viện hoặc một phần của nghị viện được hình thành bằng con đường phổ thông đầu phiếu, là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, có chức năng 36 lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của quốc gia, giám sát tối cao hoạt động của nhà nước Quyền hành pháp là quyền thực hiện ý chí chung của quốc gia, tổ chức thực hiện trong thực tế các đạo luật do cơ quan lập pháp ban hành. Quyền tư pháp là quyền xét xử những chủ thể vi phạm hiến pháp, vi phạm luật, giải quyết các tranh chấp xảy ra trong xã hội nhằm bảo vệ pháp luật, công lí và tự do của công dân. Tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền có thể phát sinh ở những hình thái kinh tế xã hội khác nhau phụ thuộc vào lợi ích xã hội, giai cấp, truyền thống dân tộc, trình độ văn hóa và các yếu tố khác. Nhà nước pháp quyền tư sản đang được tuyên bố xây dựng ở hầu hết các quốc gia theo chế độ này. Còn nhà nước pháp quyền XHCN đang được tuyên bố xây dựng ở Việt Nam. 2. Những quan điểm cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2.1. Xây dựng nhà nước pháp quyền là yêu cầu tất yếu khách quan - Những yêu cầu khách quan đó là: + Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; + Thực hiện dân chủ hóa sâu sắc và toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội; + Bảo đảm và bảo vệ các quyền công dân; + Chủ động tham gia vào quá trình hội nhập và phát triển quốc tế; + Thực hiện công bằng xã hội, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế như ngày nay, cơ chế điều hành xã hội hành chính, tập trung, bao cấp trước đây không còn phù hợp. Phải cải cách mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hôi, nhà nước và pháp luật. Xây dựng nhà nước pháp quyền đáp ứng được yêu cầu đó. Góp phần củng cố, phát huy bản chất nhân dân của nhà nước, thiết lập quan hệ đúng đắn giữa nhà nước và nhân dân, giải quyết tăng trưởng kinh tế và công bằng trong xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Xây dựng nhà nước pháp quyền là điều mới mẻ với Việt Nam, trong quá trình xây dựng cần tiếp thu có chọn lọc lý luận và thực tiễn nước ngoài, phát huy nội lực, đảm bảo định hướng XHCN và giữ gìn bản sắc dân tộc. 2.2. Những quan điểm cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền. 37 - Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân: quan điểm này được ghi nhận trong hiến pháp 1992 “nhà nước CHXHCNVN là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân”. Nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân được thể hiện trong tổ chức và hoạt động, trong chính sách lập pháp của nhà nước. Mục tiêu cao nhất của nhà nước là phục vụ lợi ích nhân dân. - Quyền lực nhà nước thống nhất có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo, sự phân công rành mạch, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nướ và cơ chế phối hợp thực hiện là điều cốt yếu đảm bảo sự thống nhất quyền lực nhà nước. - Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng: trong điều kiện hiện nay, nói tới Đảng là nói tới đổi mới và chỉnh đốn tổ chức này. Phân biệt rạch ròi sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước. Kiên quyết phòng ngừa vệ làm thay các công việc của nhà nước từ phía tổ chức Đảng. - Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước: đây là nguyên tắc nền tàng của nhà nước và hệ thống chính trị của ta. Biểu hiện của nguyên tắc này tập trung ở sự kết hợp giữa lãnh đạo điều hành tập trung thống nhất từ trung ương đến địa phương với phát huy tinh thần chủ động, sáng taọ của địa phương, khắc phục khuynh hướng phân tán cục bộ và tập trung quan liêu. Có sự phân cấp mạnh mẽ giữa các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước, xác định rõ ràng cơ chế trách nhiệm theo quy định của pháp luật. - Tăng cường pháp chế XHCN, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức. Pháp chế là nguyên tắc hiến định, trong điều kiện hiện nay tăng cường pháp chế càng trở lên cấp thiết. Đồng thời, pháp luật chỉ thực sự hiệu quả, hiệu lực khi có sự kết hợp với đạo đức. Lấy đạo đức để quản lý xã hội cũng là điều tất yếu. Xét cho cùng pháp luật và nhà nước cũng là vì phục vụ con người. 38 Chương 4 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT 1. Nguồn gốc của pháp luật 1.1. Các quan điểm khác nhau về nguồn gốc của pháp luật - Quan điểm phi Mác xít: + thuyết thần học: Pháp luật cũng như nhà nước là do Chúa trời, Thượng đế, Đấng tối cao đặt ra + thuyết pháp luật tự nhiên: Pháp luật là tổng thể những quyền của con người tự nhiên sinh ra mà có; + thuyết pháp luật linh cảm: pháp luật là những linh cảm của con người về những cách xử sự hợp lý … Những quan điểm này, cũng như những thuyết phi mác – xít khác về nguồn gốc nhà nước, pháp luật, tuy có thuyết dưới góc độ lịch sử có những mặt tích cực nhất định, đặc biệt là thuyết pháp luật tự nhiên, nhưng nhìn chung đều mang màu sắc duy tâm, không khoa học, có thuyết rất phản tiến bộ. - Theo học thuyết Mác – Lênin: + Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng lịch sử cơ bản nhất của đời sống chính trị xã hội, là hai người bạn đồng hành có số phận lịch sử như nhau: cùng xuất hiện, cùng tồn tại và phát triển, cùng tiêu vong khi nhân loại đã tiến tới chủ nghĩa cộng sản. + Những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước cũng chính là những nguyên nhân làm xuất hiện pháp luật: Một là, sự phát triển của nền kinh tế trong xã hội nguyên thủy từ chỗ vô cùng thấp kém, lạc hậu và chế độ sở hữu chung thô sơ đến chỗ dần dần có của cải dư thừa và xuất hiện chế độ chiếm hữu tư nhân (tư hữu) về tư liệu sản xuất và của cải làm ra; Hai là, sự phân hóa xã hội thành những tầng lớp, giai cấp có lợi ích đối kháng nhau và mâu thuẫn giai cấp, đấu tranh giai cấp phát triển đến mức không thể điều hòa được. 1.2. Quá trình hình thành của pháp luật theo quan điểm của chủ nghĩa MácLêNin a. Xã hội nguyên thủy trước khi xuất hiện pháp luật 39 - Đời sống kinh tế, xã hội của bất kì một xã hội nào cũng đều cần đến trật tự, ổn định để tồn tại và phát triển. Trật tự này được thực hiện nhờ vào hệ thống các quy tắc xã hội. Trong xã hội nguyên thủy, mặc dù chưa có nhà nước, pháp luật song đã có các quy phạm xã hội, được thể hiện trong các tập quán, tín điều tôn giáo, các quan niệm, quy phạm đạo đức. - Đặc điểm cơ bản nhất của quy phạm xã hội nguyên thủy là sự thể hiện lợi ích chung của các thành viên cộng đồng, được thực hiện nhờ vào sức mạnh của thói quen, sự tự nguyện và sức mạnh của dư luận xã hội, hệ thống đảm bảo đặc thù của cộng đồng. Đồng thời, sự vi phạm các quy phạm xã hội nguyên thủy còn bị xử lý bằng các biện pháp cưỡng chế nhưng do cộng đồng truy cứu và áp dụng theo những thủ tục, trình tự nhất định. b. Pháp luật xuất hiện như một tất yếu khách quan - Vào giai đoạn cuối của xã hội nguyên thủy, do sự phát triển của lực lượng sản xuất đã lần lượt đưa đến ba lần phân công lao động xã hội lớn, chế độ tư hữu được hình thành và cùng với nó là sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối lập nhau về quyền lợi. Các tập quán, quy tắc xã hội nguyên thủy vẫn còn tồn tại song rất nhiều trong số đó đã trở nên bất lực, không đủ sức điều chỉnh các quan hệ xã hội trong những điều kiện mới giữa các giai cấp đối kháng nhau về quyền lợi. - Trong tình hình đó, xuất hiện nhu cầu bức xúc là phải hình thành một hệ thống quy tắc xử sự mới thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Pháp luật ra đời chính là để đáp ứng nhu cầu đó. - Tuy vậy, pháp luật ra đời còn để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội của con người, củng cố, xác lập trật tự xã hội, thiếu trậ tự đó, không một cộng đồng, một xã hội nào có thể tồn tại được. 1.3. Nguồn của pháp luật Do hoàn cảnh lịch sử, nhiều quốc gia phải mất hàng trăm năm mới có những bộ luật thành văn chính thức. Công cụ quản lý xã hội của nhà nước, điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu dựa vào tập quán, đạo đức, tôn giáo, điều hành bằng mệnh lệnh trực tiếp của nhà nước. Nhìn chung, tuy cùng những nguyên nhân xuất hiện, song quá trình hình thành pháp luật diễn ra chậm chạp, phức tạp và lâu dài hơn so với sự hình thành nhà nước. Hệ thống pháp luật có thể được hình thành từ các nguồn sau: 40 + Tập quán pháp (pháp luật tập quán): đó là việc nhà nước thừa nhận các tập quán đã từng tồn tại trước có giá trị pháp lý, mang tính bắt buộc chung, được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước. Về nguyên tắc, đó là những tập quán không trái với lợi ích của nhà nước. Trong lịch sử cho thấy, giai cấp thống trị đều tìm cách vận dụng các tập quán để phục vụ lợi ích của giai cấp mình, dần dần thay đổi nội dung của các tập quán và bằng con đường nhà nước nâng chúng thành các quy phạm pháp luật. + Tiền lệ pháp: là những quyết định của các cơ quan hành chính, của cơ quan tư pháp về những vụ việc cụ thể được nhà nước thừa nhận có giá trị pháp lý bắt buộc để giải quyết những vụ việc tương tự xảy ra sau đó. + Văn bản pháp luật: do nhà nước xây dựng và ban hành. Hoạt động lập pháp của các nhà nước được thực hiện trong suốt cả quá trình lâu dài, những công trình lập pháp đầu tiên – những bộ luật cổ của các nhà nước là biểu hiện sinh động của nền văn minh pháp lý nhân loại như các bộ luật Manu, Hămmurabi, bộ luật La Mã… 2. Bản chất của pháp luật 2.1. Định nghĩa pháp luật Pháp luật là một hiện tượng xã hội khách quan, đặc biệt quan trọng nhưng cũng vô cùng phức tạp chính vì vậy mà từ xưa đến nay đã có không ít những cách quan niệm, nhận thức khác nhau về pháp luật. Trên bình diện phổ quát, căn bản nhất và vận dụng vào điều kiện xã hội đương đại, có thể nêu định nghĩa pháp luật như sau: Pháp luật là hệ thống các quy tắc sử xự có tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã hội và sự phát triển bền vững của xã hội. 2.2. Bản chất của pháp luật Bản chất của pháp luật là vấn đề thuộc về những dấu hiệu bên trong của pháp luật. Bản chất của pháp luật mang tính giai cấp và tính xã hội sâu sắc a. Tính giai cấp của pháp luật Tính giai cấp của pháp luật được thể hiện ở sự phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị xã hội trong hệ thống các văn bản pháp luật, các hoạt động áp dụng pháp luật của nhà nước. 41 Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, định hướng cho các quan hệ xã hội phát triển theo những mục đích, đường lối phát triển theo những mục đích, đường lối phát triển phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị và những điều kiện khách quan của đất nước. Pháp luật của bất kỳ nhà nước nào cũng mang tính giai cấp sâu sắc, nhưng mức độ, cách thức thể hiện và thực hiện trong thực tế không hoàn toàn giống nhau trong các kiểu pháp luật và ngay cả trong một nhà nước, vào những thời điểm khác nhau: + Pháp luật chủ nô: công khai xác định quyền lực tuyệt đối, vô hạn của chủ nô và tình trạng vô quyền của người nô lệ như là những công cụ biết nói trong xã hội đương thời. + Pháp luật phong kiến: vẫn được coi là pháp luật “quả đấm” với hệ thống nững quy định, chế tài trừng phạt giã man, vô nhân đạo, bảo vệ công khai lợi ích của qiai ấp địa chủ phong kiến. + Pháp luật tư sản: Mặc dù là một bước tiến bộ, phát triển vượt bậc so các kiểu pháp luật trước đó cả về nội dung và hình thức, song pháp luật tư sản vẫn là công cụ bảo vệ lợi ích giai cấp tư sản trước hết và chủ yếu. + Pháp luật xã hội chủ nghĩa: Pháp luật xã hội chủ nghĩa thế hiện ý chí của giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao động. Đây là nét khác biệt căn bản của pháp luật xã hội chủ nghĩa so với các kiểu pháp luật khác. Các kiểu pháp luật trước đó đều có chung bản chất là thể hiện ý chí của thiểu số giai cấp bóc lột, là công cụ để bảo vệ lợi ích của giai cấp đó. Trái lại, pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là số đông, chiếm tuyệt đại đa số trong dân cư. Vì vậy, pháp luật xã hội chủ nghĩa dễ được đông đảo quần chúng tôn trọng và thực hiện một cách đầy đủ và tự giác. b. Tính xã hội của pháp luật - Pháp luật vừa là sự thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị xã hội, vừa là công cụ ghi nhận, bảo vệ lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác vì mục đích ổn định và phát triển xã hội theo đường lối của giai cấp thống trị. - Tính xã hội là một thuộc tính khách quan, tất yếu và phổ biến của mọi nhà nước và pháp luật. Mức độ thể hiện và thực hiện tính xã hội trong các kiểu pháp luật, trong một hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia vào các giai đoạn lịch sử khác nhau cũng có sự khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào hàng loạt những yếu tố khách quan và 42 chủ quan như: điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, truyền thống đạo đức, tập quán, xu thế phát triển của quốc gia và quốc tế… - Xu hướng dân chủ hóa, những đòi hỏi về tự do, công bằng, hài hòa lợi ích luôn là động lực thúc đẩy tiến bộ xã hội và luôn đặt ra cho nhà lập pháp phải quan tâm. Một hệ thống pháp luật tốt, hiệu quả phụ thuộc phần lớn vào việc giải quyết hài hòa một cách tối ưu nhất lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, xã hội. Các nhà nước luôn luôn phải chịu những áp lực xã hội trong việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới hay hủy bỏ các văn bản, các quy định pháp luật cho phù hợp. Nhất là trong xã hội hiện đại, ngày càng nảy sinh và gia tăng các vấn đề xã hội phức tạp luôn đặt lên vai các nhà nước phải xem xét và giải quyết. - Pháp luật là hiện tượng văn hóa, không chỉ của một quốc gia, dân tộc mà của nhiều nền văn hóa thế giới. Những quan hệ trong lĩnh vực tổ chức nhà nước, dân sự, hôn nhân, gia đình, thương mại… luôn hiện hữu những nét tương đồng của nhiều nền văn hóa. Do vậy, để có cái nhìn bao quát, toàn diện hơn về pháp luật, cần thiết phải đề cập đến các đặc điểm khác nữa của pháp luật như tính dân tộc, tính mở, tính nhân loại bên cạnh tính giai cấp, tính xã hội và giá trị xã hội của pháp luật. Một hệ thống pháp luật tốt, được người dân chấp nhận phải thể hiện các yếu tố, tinh thần dân tộc, truyền thống văn hóa, đạo đức, tập quán. Đồng thời pháp luật quốc gia phải là hệ thống pháp luật mở, tiếp thu với tinh thần chọn lọc những thành tựu của nền văn hóa pháp lý nhân loại nhất là trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế. Sự xích lại gần nhau của các nền văn hóa, trong đó có văn hóa pháp luật đã và đang là xu thế tất yếu của thế giới hiện đại. Phải thay đổi để tồn tại trong một môi trường quốc tế hợp tác bình đẳng, cùng có lợi là con đường đi tất yếu của mọi quốc gia, dân tộc. 3. Các thuộc tính cơ bản của pháp luật a. Thuộc tính và thuộc tính pháp luật Các sự vật, hiện tượng xã hội được phân biệt với nhau nhờ vào các thuộc tính cơ bản của chúng. Thuộc tính là những dấu hiệu đặc trưng riêng có của sự vật, hiện tượng. Thuộc tính của pháp luật là những dấu hiệu đặc trưng riêng có của pháp luật, là tiêu chí để phân biệt pháp luật với các hiện tượng xã hội khác, các loại quy phạm xã hội khác như đạo đức, tập quán, tôn giáo, quy phạm của các tổ chức chính trị - xã 43 hội… các thuộc tính cơ bản của pháp luật là sự biểu hiện sức mạnh, ưu thế của pháp luật trong hệ thống các loại công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội. b. Những thuộc tính cơ bản của pháp luật – Tính quy phạm phổ biến, bắt buộc chung Pháp luật trước hết được thể hiện dưới dạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Quy phạm pháp luật là quy tắc hành vi, có giá trị như những khuôn mẫu xử sự, hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá hành vi của các cá nhân, các quá trình xã hội. Các loại công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác cũng có tính quy phạm như đạo đức, tập quán, luật lệ tôn giáo… nhưng tính quy phạm của pháp luật có đặc trưng riêng đó là tính phổ biến, bắt buộc chung. Nếu tập quán, về nguyên tắc chỉ có giá trị áp dụng bắt buộc trong từng địa phương, các quy phạm của các tổ chức xã hội cũng chỉ giới hạn hiệu lực đối với các thành viên của các tổ chức này. Tính phổ biến, bắt buộc chung của pháp luật được áp dụng đối với mọi cá nhân, mọi tổ chức thuộc phạm vi điều chỉnh của các văn bản pháp luật tương ứng. Cá quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trong không gian và thời gian. Việc áp dụng những quy phạm này chỉ bị đình chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc thời hạn đã hết. Thuộc tính quy phạm phổ biến, bắt buộc chung của pháp luật xuất phát từ quyền lực nhà nước, nhà nước là người đại diện chính thức cho toàn xã hội. Mọi cá nhân, tổ chức sống trên lãnh thổ của nhà nước đều phải tuân thủ pháp luật, kể cả người nước ngoài và người không có quốc tịch. – Tính xác định chặt chẽ về hình thức Điều này thể hiện, các quy phạm pháp luật được thể hiện trong các văn bản pháp luật với những tên gọi, cách thức ban hành và giá trị pháp lý khác nhau nhất định như Hiến pháp, Luật, các Nghị định, Thông tư… Ngôn ngữ của pháp luật trong các quy phạm pháp luật cũng có đặc điểm riêng, ngắn gọn, rõ rang, trực tiếp… để đảm bảo tính phổ thong, dễ hiểu, dễ vận dụng, tránh việc hiểu đa nghĩa. Pháp luật được thể hiện ở dạng thành văn, trong khi đó các quy phạm xã hội khác có thể dưới dạng thành văn hay bất thành văn. So với nhiều loại quy phạm xã hội khác, pháp luật có tính chính xác cao, được thể hiện ở các quy định pháp luật về các quyền, nghĩa vụ pháp lý và các chế tài pháp 44 luật đối với sự vi phạm. Tính xác định rõ ràng, chặt chẽ của pháp luật nhằm đảm bảo nguyên tắc bất cứ ai được đặt vào những điều kiện ấy cũng không thể làm khác được. - Pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp của nhà nước Pháp luật xuất phát từ nhà nước, do nhà nước trực tiếp xây dựng, ban hành hoặc thừa nhận nên pháp luật được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các công cụ, biện pháp của nhà nước. Các biện pháp này rất da dạng bao gồm các biện pháp cưỡng chế, thuyết phục giáo dục, tài trợ, tổ chức kỹ thuật… 4. Chức năng của pháp luật Chức năng của pháp luật là những phương diện tác động chủ yếu của pháp luật lên các quan hệ xã hội và hành vi của các cá nhân. Pháp luật có các chức năng chủ yếu sau: chức năng điều chỉnh, chức năng bảo vệ, chức năng giáo dục. - Chức năng điều chỉnh: Đây chính là chức năng xác lập, ổn định, trật tự hóa các quan hệ xã hội theo đường lối của nhà nước, phù hợp với sự vận động, phát triển của đời sống xã hội. Chức năng điều chỉnh của pháp luật được thể hiện rõ nét nhất trong việc quy định quy chế pháp lý của các chủ thể pháp luật, từ cá nhân, các thành viên nhà nước đến các tổ chức nhà nước, xã hội. Chức năng điều chỉnh của pháp luật được thực hiện thông qua các hình thức quy định những điều được phép, các quyền, nghĩa vụ pháp lý, những điều bị ngăn cấm và cả những hành vi được khuyến khích thực hiện. -Chức năng bảo vệ: Pháp luật có chức năng bảo vệ các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh bẳng cách áp dụng các quy phạm bảo vệ theo các trình tự, thủ tục pháp lý nhất định đối với các hành vi vi phạm pháp luật. Tất nhiên, trong xã hội còn nhiều loại công cụ khác cũng tham gia bảo vệ các quan hệ xã hội như đạo đức, tập quán… với chức năng này, pháp luật có vai trò không thể thiếu được trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các cá nhân, trật tự các quan hệ xã hội. - Chức năng giáo dục: Chức năng giáo dục của pháp luật được thực hiện thông qua sự tác động của pháp luật vào ý thức và từ ý thức đến hành vi của con người, hướng cho hành vi của họ phù hợp với yêu cầu của các quy định pháp luật. Chức năng giáo dục của pháp luật ở nước ta hiện nay được thực hiện bằng nhiều hình thức, phương pháp khác nhau như: 45 phổ biến pháp luật, tư vấn, và trợ giúp pháp luật, thông qua hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền … 5. Hình thức pháp luật 5.1. Khái niệm hình thức pháp luật Để có hiệu quả truyền tải đến toàn xã hội ý chí nhà nước – nội dung của pháp luật cần phải có những hình thức thích hợp. Hình thức pháp luật là một phạm trù rộng lớn được thể hiện trên nhiều phương diện, cấp độ khác nhau. Trong tương quan với phạm trù nội dung, hình thức pháp luật được hiểu là một khái niệm dùng để chỉ ranh giới tồn tại của pháp luật trong hệ thống các quy phạm xã hội, là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của pháp luật, đồng thời đó cũng là phương thức tồn tại thực tế của pháp luật. 5.2. Các dạng hình thức của pháp luật - Hình thức bên trong của pháp luật: là cấu trúc (kết cấu) của các yếu tố tạo thành nội dung pháp luật. Hình thức bên trong bao gồm các nguyên tắc chung của pháp luật, hệ thống pháp luật, ngành luật, chế định pháp luật và quy phạm pháp luật. - Hình thức bên ngoài là: sự biểu hiện ra bên ngoài của pháp luật, là những cái chứa đựng nội dung các quy tắc pháp luật – quy tắc hành vi theo ý chí nhà nước. Hình thức bên ngoài của pháp luật còn gọi là nguồn pháp luật, gồm 3 loại nguồn phổ biến nhất: tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật. + Tập quán pháp: là hình thức nhà nước thừa nhận một số tập quán đã lưu truyền trong xã hội, phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị và nâng chúng lên thành pháp luật. Đây là hình thức phổ biến của pháp luật chủ nô, phong kiến. + Tiền lệ pháp: là hình thức nhà nước thừa nhận các quyết định của cơ quan xét xử (bản án) đã có hiệu lực pháp luật khi giải quyết các vụ việc cụ thể để áp dụng đối với các vụ việc tương tự xảy ra sau này. Đây là hình thức phổ biến của pháp luật chủ nô, phong kiến, tư sản (điển hình là hệ thống pháp luật Anh - Mỹ). + Văn bản quy phạm pháp luật: là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, trong đó chứa đựng các quy tắc xử sự chung, được áp dụng nhiều lần trong đời sống xã hội và được nhà nước đảm bảo thực hiện. Đây là hình thức pháp luật tiến bộ nhất trong lịch sử. Nguồn (hình thức) pháp luật chủ yếu của nhà nước ta hiện nay là văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo những thủ tục, 46 trình tự pháp lý nhất định và tồn tại trong trật tự thứ bậc về hiệu lực pháp lý. Ở nước ta, về nguyên tắc, hai nguồn pháp luật: tập quán pháp và tiền lệ pháp không được sử dụng. Tuy vậy, những năm gần đây, chúng ta đã có những cách nhìn mới, khách quan hơn về hai loại nguồn pháp luật này. Pháp luật nước ta ngày càng ghi nhận nhiều hơn các tập quán, phong tục tốt đẹp, thể hiện đạo lý của dân tộc, có tác dụng tích cực trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. 6. Kiểu pháp luật trong lịch sử Theo học thuyết Mác – Lênin, xã hội loài người đã và đang trải qua bốn kiểu nhà nước là: nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản và xã hội chủ nghĩa. Tương ứng với bốn kiểu nhà nước này là bốn kiểu pháp luật đã và đang tồn tại: kiểu pháp luật chủ nô, phong kiến, tư sản, xã hội chủ nghĩa. Kiểu pháp luật là: tổng thể những dấu hiêu, đặc điểm cơ bản của pháp luật, thể hiệ bản chất giai cấp, vai trò xã hội và những điều kiện tồn tại và phát triển của pháp luật tương ứng trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Ba kiểu pháp luật chủ nô, phong kiến, tư sản bảo vệ chế độ tư hữu và bóc lột. Còn kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa là pháp luật kiểu mới dựa trên nền tảng chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu và nhằm từng bước hạn chế, đi đến xóa bỏ chế độ bóc lột, xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, tự do, bác ái. a. Pháp luật chủ nô: Tương ứng với nhà nước chủ nô có pháp luật chủ nô. Cũng như nhà nước chủ nô, pháp luật chủ nô được xây dựng trên nền tảng kinh tế - xã hội là chế độ chiếm hữu tư nhân tuyệt đối của giai cấp chủ nô đối với mọi tư liệu sản xuất và của cải làm ra, sự bóc lột và đàn áp dã man của chủ nô đối với nô lệ lực lượng lao động chủ yếu trong xã hội. Pháp luật thời kì này có những đặc điểm chủ yếu: + Công khai bảo vệ và củng cố quyền tư hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và nô lệ, hợp pháp hóa chế độ bóc lột tàn nhẫn và trắng trợn đối với nô lệ và tình trạn vô quyền của nô lệ. Nô lệ chỉ được coi như “dụng cụ biết nói”. + Bảo vệ ách thống trị về chính trị và tư tưởng của giai cấp chủ nô. + Quy định và củng cố tình trạng bất bình đẳng trong xã hội giữa chủ nô và các tầng lớp, giai cấp khác, giữa đàn ông và phụ nữ… b. Pháp luật phong kiến: 47 Đây là kiểu pháp luật thứ hai trong lịch sử nhân loại và hình thành cùng với sự ra đời của nhà nước phong kiến, mang ý chí của giai cấp địa chủ phong kiến, được đề lên bởi điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp phong kiến. Bản chất của pháp luật phong kiến thể hiện rõ ở những đặc điểm sau: + Bảo vệ chế độ tư hữu của giai cấp phong kiến đối với đất đai và chế độ bóc lột địa tô, bảo vệ ách thống trị về chính trị và tư tưởng của giai cấp phong kiến. + Bảo vệ chế độ đẳng cấp và đặc quyền của giai cấp phong kiến. + Hợp pháp hóa bạo lực và sự chuyên quyền tùy tiện của giai cấp phong kiến. Là “pháp luật quả đấm – thừa nhận bạo lực là phương tiện bảo vệ lợi ích và giải quyết mọi tranh chấp trong xã hội. + Quy định những hình phạt tàn bạo đối với những hành vi xâm phạm đến trật tự xã hội phong kiến. + Là luật pháp tản mạn, không có tính thống nhất cao, tập quán pháp và tiền lệ pháp vẫn đóng vai trò chủ yếu, văn bản pháp luật muộn và thường là những bộ luật có nột dung tổng hợp mà chế tài đều mang tính chất hình sự. c. Pháp luật tư sản Tuy không thoát ra khỏi những hạn chế của một kiểu pháp luật bóc lột, nhưng pháp luật tư sản, cả về nội dung lẫn hình thức, đã đánh dấu một bước phát triển tiến bộ vượt bậc của lịch sử nhân loại, ghi nhận kết quả một cuộc cách mạng lớn về các lĩnh vực tư tưởng tinh thần, về giá trị dân chủ, nhân văn, nhân đạo, quyền con người, về khả năng bảo đảm trật tự, ổn định xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển với tốc độ nhanh hơn. Bản chất của pháp luật tư sản thể hiện rõ rệt ở những đặc điểm sau đây: + Pháp luật tư sản bảo vệ chế độ tư hữu tư sản và chế độ bóc lột lao động làm thuê (bóc lột giá trị thặng dư), ghi nhận và bảo vệ sự thống trị về chính trị và tư tưởng của giai cấp tư sản, tuy nhiên bằng hình thức và phương pháp được ngụy trang rất tinh vi. + Lần đầu tiên khái niệm “công dân” được ghi nhận trong pháp luật và tuyên bố, quy định các quyền tự do dân chủ rộng rãi của công dân trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, tự do cá nhân. Tuy nhiên, dân chủ tư sản vẫn không đầy đủ và mang tính hình thức. 48 + Về hình thức, văn bản pháp luật tư sản rất phát triển cả về nội dung và kỹ thuật lập pháp, phạm vi điều chỉnh rộng và điều chỉnh tương đối đầy đủ, chi tiết các quan hệ xã hội. d. Pháp luật xã hội chủ nghĩa Đây là kiểu pháp luật cuối cùng trong lịch sử và hình thành dần cùng với sự ra đời và phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa, là pháp luật kiểu mới, nội dung của nó hoàn toàn phủ nhận hế độ bóc lột, hạn chế và dần đi đến xóa bỏ chế độ tư hữu, xác lập và ngày càng phát triển quan hệ bình đẳng, tự do, dân chủ, bác ái thật sự, những quan hệ hoàn toàn mới giữa con người với con ngươi. Tuy nhiên, từ thực tiễn lịch sử có thể nói rằng chưa có một pháp luật xã hội chủ nghĩa đích thực mà mới có những pháp luật xã hội chủ nghĩa đang dần dần được xây dựng. Một pháp luật như vậy thể hiện rõ trong pháp luật Việt Nam. 7. Các hệ thống pháp luật trên thế giới 7.1. Hệ thống pháp luật trong pháp luật tư sản: Cho tới nay, người ta biết đến hai hệ thống pháp luật tư sản điển hình tương ứng với hai nhóm nhà nước tư bản sử dụng chúng là hệ thống pháp luật Pháp – Đức và hệ thống pháp luật Anh – Mỹ. - Hệ thống pháp luật Pháp – Đức (hay hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, hệ thống pháp luật Continental, hệ thống dân luật Pháp – Đức, hệ thống civil law Pháp – Đức) tồn tại ở các nước Pháp, Đức, Italia và một số nước Mỹ latinh như Brazin, Vênêduyêla. Nó có một số đặc điểm: được xây dựng trên cơ sở luật dân sự La Mã; có tính hệ thống cao với sự hiện diện của văn bản có giá trị pháp lý cao như luật, bộ luật; pháp luật được chia thành công pháp và tư pháp (công pháp là pháp luật bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội như các quy phạm pháp luật hiên sphasp, một số quy phạm pháp luật hành chính, kinh tế, hình sự, dân sự, tài chính…, tư pháp là pháp luật bảo vệ lợi ích riêng của các cá nhân trong xã hội, như các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình, một số quy phạm pháp luật hàn chính, kinh tế, dân sự, hình sự, lao động, thương mại…). - Hệ thống pháp luật Anh – Mỹ (còn được gọi là hệ thống pháp luật Ănglô – xắc xông, hệ thống thống luật An...
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.