Tập bài giảng Kỹ năng nghiên cứu và lập luận

doc
Số trang Tập bài giảng Kỹ năng nghiên cứu và lập luận 243 Cỡ tệp Tập bài giảng Kỹ năng nghiên cứu và lập luận 1 MB Lượt tải Tập bài giảng Kỹ năng nghiên cứu và lập luận 31 Lượt đọc Tập bài giảng Kỹ năng nghiên cứu và lập luận 125
Đánh giá Tập bài giảng Kỹ năng nghiên cứu và lập luận
5 ( 12 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN ……………………………….. TẬP BÀI GIẢNG KỸ NĂNG NGHIÊN CỨU VÀ LẬP LUẬN TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ TP. Hồ Chí Minh - 2011 1 BIÊN SOẠN TS. LÊ THỊ HỒNG VÂN (chủ biên) ThS. PHẠM THỊ NGỌC THỦY 2 LỜI NÓI ĐẦU Nhằm mục đích đối mới và nâng cao chất lượng đào tạo để thực hiện mục tiêu gắn đào tạo với nhu cầu thực tiễn, từ năm học 2011-2012 trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh đưa vào giảng dạy môn học Kỹ năng nghiên cứu và lập luận để bổ sung những kiến thức thuộc về nhóm “kỹ năng mềm”, đó là kỹ năng nghiên cứu khoa học, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng lập luận, kỹ năng tư duy phản biện và kỹ năng tranh luận. Mục tiêu của môn học nhằm giúp sinh viên rèn luyện các kỹ năng ngôn ngữ, tư duy logic và khả năng lập luận, hùng biện để có thể nghĩ một cách sâu sắc, viết một cách chính xác, nói một cách thuyết phục. Đây là những kỹ năng rất cần thiết để đem lại cho mỗi người sự thành công trong các công việc học tập, nghiên cứu cũng như các hoạt động giao tiếp xã hội và các ngành nghề chuyên môn đặc thù, đặc biệt là đối với nghề Luật - nơi mà các năng lực tư duy, ngôn ngữ và “tài ăn nói” có vai trò tiên quyết đối với sự thành bại của công việc và sự nghiệp. Với mục tiêu ấy, nội dung của Tập bài giảng Kỹ năng nghiên cứu và lập luận được biên soạn gồm các chương: Chương 1: Kỹ năng nghiên cứu khoa học Chương 2: Kỹ năng thuyết trình Chương 3: Kỹ năng lập luận Chương 4: Kỹ năng tranh luận – phản biện Các chương được phân công biên soạn cụ thể như sau: Chương 1, 2, 4: TS. Lê Thị Hồng Vân Chương 3: TS. Lê Thị Hồng Vân và Ths. Phạm Thị Ngọc Thủy. Mỗi chương tuy có nhiệm vụ rèn luyện những kỹ năng khác nhau để hướng đến những mục tiêu cụ thể và tương đối độc lập, nhưng giữa chúng đều có sự kết nối, liên thông trên nền tảng của các kỹ năng tư duy và ngôn ngữ, đó là suy nghĩ – nói – viết. Nội dung của các chương được biên soạn dựa trên sự vận dụng tích hợp kiến thức của nhiều môn khoa học như: Ngôn ngữ học, Tiếng Việt thực hành, Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Logic học, Tư duy phản biện, Tâm lý học, Văn hóa Việt Nam, cùng với các kỹ năng giao tiếp – sư phạm, kỹ năng lập luận, tranh luận, phản biện. Các kiến thức và kỹ năng ấy đã được vận dụng, chuyển hóa thành các nhóm kỹ năng cụ thể trong mỗi chương. Việc nắm vững và thực hành vận dụng tốt các kỹ năng này trong thực tiễn sẽ phục vụ thiết thực trước hết cho các hoạt động học tập, nghiên cứu của sinh viên, giúp thực 3 hiện tốt các bài thảo luận, thuyết trình, tranh luận, viết tiểu luận, luận văn tốt nghiệp, thực hiện các đề tài khoa học cũng như quá trình tự học, tự nghiên cứu lâu dài. Đối với các ngành nghề đặc thù như nghề báo, nghề giáo, nghề ngoại giao, chính khách… thì việc nắm vững và thực hành tốt các kỹ năng này là điều kiện tiên quyết để đem lại sự thành công trong sự nghiệp và cuộc sống, nhất là trong xã hội hiện đại, khi mà sự cạnh tranh đang ngày càng trở nên gay gắt và khốc liệt trong mọi lĩnh vực. Đặc biệt đối với nghề Luật, khi mà công việc chuyên môn phải thực hiện thường ngày là các cuộc đấu trí, đấu khẩu để giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp giữa phải/ trái, đúng / sai liên quan đến số phận, thậm chí quyết định cả vận mạng con người thì việc nắm vững và vận dụng thuần thục các kỹ năng lập luận, tranh luận, phản biện để có được khả năng lập luận sắc sảo và tài hùng biện thuyết phục là những đòi hỏi tối cần thiết để có thể tồn tại và khẳng định chỗ đứng trong nghề. Vì được biên soạn lần đầu, lại phải tổng hợp, bao quát nhiều lĩnh vực chuyên môn với nhiều nhóm kỹ năng khác nhau, do đó Tập bài giảng Kỹ năng nghiên cứu và lập luận chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Rất mong được các nhà chuyên môn và bạn đọc quan tâm đóng góp ý kiến để lần xuất bản sau, Tập bài giảng được bổ sung, chỉnh lý hoàn thiện hơn. Thư từ, ý kiến đóng góp xin được gửi tới: Phòng Đào tạo, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh – Số 2, Nguyễn Tất Thành, Quận 4, TP. Hồ Chí Minh; Điện thoại: 08.39400.723 – 08.37266.333 TÁC GIẢ 4 CHƯƠNG 1 KỸ NĂNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Mục đích yêu cầu: + Về nội dung kiến thức: - Hiểu được tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học và các kiến thức tổng quan về nghiên cứu khoa học. - Nắm được yêu cầu và các bước thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học. - Nắm được các thao tác cụ thể để thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học. + Về kỹ năng: - Rèn luyện phương pháp và kỹ năng tư duy khoa học. - Rèn luyện các kỹ năng thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học. - Giúp sinh viên hình thành thói quen và kỹ năng tự học, tự nghiên cứu để nâng cao chất lượng của việc học ở đại học, đồng thời khơi nguồn niềm đam mê nghiên cứu, giúp họ tạo lập thói quen tự nghiên cứu lâu dài. NỘI DUNG BÀI HỌC Khác với việc học ở phổ thông, việc học ở bậc đại học với đúng nghĩa phải là quá trình tự học, tự nghiên cứu, tìm tòi kiến thức để đáp ứng được các yêu cầu nhận thức bậc cao. Nếu yêu cầu nhận thức ở bậc học phổ thông chỉ cần dừng lại ở cấp độ bậc 1: biết và hiểu, thì ở bậc đại học không chỉ dừng lại ở đó mà còn cần phải tiến đến các nấc thang nhận thức cao hơn, đó là nhận thức bậc 2: phân tích, tổng hợp, lý giải; và bậc 3: đánh giá, phê phán, liên hệ và vận dụng vào thực tiễn. Để đạt được các mức độ nhận thức bậc 2 và 3 đòi hỏi việc học ở đại học phải gắn liền với các hoạt động nghiên cứu khoa học để rèn luyện tư duy khoa học cũng như các kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, đó là những kỹ năng mà bất cứ sinh viên đại học nào cũng cần phải có. Sẽ không có những nhà khoa học, cũng như không có những khám phá, những phát minh khoa học trong tương lai, nếu không có sự khởi đầu bằng việc trang bị những kỹ năng nền tảng cũng như khơi gợi niềm say mê với công việc tìm tòi nghiên cứu từ lúc còn là sinh viên trên giảng đường. Hoạt động nghiên cứu khoa học, vì vậy là một hoạt động có ý nghĩa quan trọng, được thực hiện thường xuyên, liên tục và xuyên suốt, gắn liền với nhiệm vụ học tập của mỗi sinh viên trong quá trình thực hiện các môn học. Các bài tập thực hành nghiên 5 cứu khoa học ở đại học thường được thực hiện dưới các dạng như: viết bài tham luận về một vấn đề để trình bày trong một buổi thảo luận nhóm, lớp; viết tóm tắt nội dung một bài báo khoa học hay một cuốn sách; viết một bài tiểu luận cho bài tập tháng. Ở cấp độ cao hơn, đó là việc tập làm một đề tài nghiên cứu theo nhóm, viết bài tập niên luận, khoá luận tốt nghiệp... Tuy nhiên, phần đông sinh viên còn chưa có được những kiến thức cơ bản về nghiên cứu khoa học. Vì vậy nội dung chương này sẽ trang bị các kiến thức tổng quan về nghiên cứu khoa học cũng như qui trình và các kỹ năng để thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học. 1. Tổng quan về nghiên cứu khoa học 1.1. Khái niệm về nghiên cứu khoa học 1.1.1. Khái niệm khoa học Từ điển Tiếng Việt định nghĩa khoa học là “hệ thống tri thức tích lũy trong quá trình lịch sử và được thực tiễn chứng minh, phản ánh những quy luật khách quan của thế giới bên ngoài cũng như của hoạt động tinh thần của con người, giúp con người có khả năng cải tạo thế giới hiện thực”.1 Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, khoa học là: “hệ thống tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy, được tích luỹ trong quá trình nhận thức trên cơ sở thực tiễn, được thể hiện bằng những khái niệm, phán đoán, học thuyết. Nhiệm vụ của khoa học là phát hiện ra bản chất, tính quy luật của các hiện tượng, sự vật, quá trình, từ đó mà dự báo về sự vận động, phát triển của chúng, định hướng cho hoạt động của con người. Khoa học giúp cho con người ngày càng có khả năng chinh phục tự nhiên và xã hội. Khoa học vừa là một hình thái ý thức xã hội vừa là một dạng hoạt động, một công cụ nhận thức”.2 Như vậy, trong khái niệm khoa học bao gồm hai phương diện: hoạt động khoa học và tri thức khoa học. Hoạt động khoa học là quá trình áp dụng các ý tưởng, nguyên lý và phương pháp khoa học để nghiên cứu, tìm tòi để khám phá ra những tri thức mới về tự nhiên và xã hội, để mô tả, giải thích hay dự báo về các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Sản phẩm của các hoạt động nghiên cứu khoa học là các tri thức khoa học. Tri thức khoa học là những hiểu biết về bản chất và qui luật của tự nhiên, xã hội mà con người có được thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học, được khái quát dưới dạng lý thuyết, 1 2 Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên, Nxb Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, 2002. http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn 6 đó là các khái niệm, phán đoán, học thuyết. Như vậy, trong kho tàng tri thức của nhân loại gồm hai hệ thống tri thức: tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học. - Tri thức kinh nghiệm là những hiểu biết được tích lũy bằng con đường nhận thức cảm tính, trực tiếp qua các hoạt động thực tiễn hàng ngày nên thường rời rạc, tản mạn, chỉ nhận diện đối tượng ở những biểu hiện bề ngoài, không có khả năng tiếp cận sâu vào bản chất, cũng như chưa khái quát được các thuộc tính, các qui luật cũng như các mối quan hệ bên trong của đối tượng. - Tri thức khoa học mặc dù có cơ sở từ các tri thức kinh nghiệm, dựa trên các kết quả quan sát, thu thập các thông tin từ các sự kiện, hiện tượng xảy ra ngẫu nhiên trong thực tế, nhưng bằng tư duy khoa học và bằng các phương pháp khoa học, các thông tin ấy được tổ chức thành hệ thống, được lý giải từ bản chất, được khái quát và đúc kết thành các qui luật dưới dạng các công thức, khái niệm, định lý, định luật, phạm trù, học thuyết khoa học…. từ đó hình thành nên các bộ môn khoa học tự nhiên và xã hội. 1.1.2. Khái niệm tư duy khoa học Mọi hoạt động của con người đều được điều khiển bởi tư duy. Để đáp ứng những hoạt động thực tiễn với những đặc trưng khác nhau, tư duy của con người cũng tồn tại với 3 kiểu dạng với những đặc điểm ưu trội khác nhau: + Tư duy hành động trực quan (còn gọi là tư duy cảm tính hay tư duy thực tiễn hàng ngày): là dạng thức tư duy gắn liền với các đối tượng cụ thể, trực tiếp, giúp ta nhận thức được từng mặt, từng khía cạnh riêng rẽ gắn liền với những hình ảnh bề ngoài về đối tượng mà không thấy được bản chất và các qui luật phát triển của nó. Dạng thức tư duy này điều khiển các hoạt động thực tiễn hàng ngày của con người. + Tư duy hình tượng - cảm tính (còn gọi là tư duy nghệ thuật - tư duy hình tượng): là dạng thức tư duy trong đó sự nhận thức về đối tượng không tách rời giữa những biểu hiện cụ thể - cảm tính, ngẫu nhiên, cá biệt, của đối tượng với tính chỉnh thể, toàn vẹn, tính phổ biến, cái khái quát về đối tượng, trên cơ sở của sự thống nhất, hòa quyện giữa lý trí và tình cảm. Đây là dạng thức tư duy điều khiển lĩnh vực hoạt động nghệ thuật của con người. + Tư duy khái niệm - lôgic (còn gọi là tư duy logic/ tư duy khoa học): là dạng thức tư duy có khả năng phản ánh gián tiếp thực tại khách quan trên cơ sở của sự trừu tượng hóa, khái quát hóa về đối tượng thông qua các khái niệm, công thức, phạm trù, phán đoán, suy luận, lý thuyết, giả thuyết…, nhờ đó có thể khám phá được những mối liên 7 hệ bên trong có tính bản chất cũng như những qui luật tồn tại và phát triển tất yếu của hiện thực khách quan. Ba dạng thức tư duy này đều có ở mỗi người với những mức độ biểu hiện ưu trội khác nhau, chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ biện chứng, bổ sung cho nhau để đem lại cho con người có khả năng nhận thức, khám phá toàn diện về thực tại khách quan, trong đó tư duy khoa học là cơ sở để thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học, nhằm giúp con người tiếp cận sâu vào bản chất của thế giới để khái quát các qui luật phổ quát và tất yếu của các đối tượng. 1.1.3. Khái niệm nghiên cứu khoa học - Khái niệm nghiên cứu (research): là “xem xét, tìm hiểu kĩ lưỡng để nắm vững vấn đề, giải quyết vấn đề hay để rút ra những hiểu biết mới”.1 - Tác giả Vũ Cao Đàm trong Giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu khoa học định nghĩa: “Nghiên cứu khoa học là sự phát hiện bản chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học về thế giới; hoặc là sáng tạo phương pháp mới và phương tiện kĩ thuật mới để làm biến đối sự vật phục vụ cho mục tiêu hoạt động của con người” 2 Từ các định nghĩa trên, có thể xác định đối tượng, nội dung và mục đích của nghiên cứu khoa học: - Đối tượng của nghiên cứu khoa học là thế giới khách quan (tự nhiên và xã hội) và phương pháp nhận thức thế giới khách quan ấy. - Nội dung của nghiên cứu khoa học là hoạt động của tư duy khoa học kết hợp với việc vận dụng các phương pháp, phương tiện khoa học để thu thập thông tin, xử lý thông tin trên cơ sở của các phán đoán, phân tích, tổng hợp, khái quát, suy luận để khám phá, phát hiện và chứng minh sự tồn tại của một chân lý khoa học. - Mục đích của nghiên cứu khoa học nhằm phát hiện ra những tri thức mới, sáng tạo những giá trị mới, đề xuất những giải pháp mới để vượt lên những tri thức cũ, bổ sung hoặc thay thế những giá trị không còn phù hợp, làm thay đổi nhận thức của con người theo hướng tiến bộ hơn, giúp con người ngày càng tiệm cận hơn với chân lý về đối tượng. Từ các kết quả nghiên cứu của khoa học để vận dụng vào việc cải tạo thực tiễn, đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao hơn của cuộc sống con người. 1.2. Phân loại khoa học và nghiên cứu khoa học 1.2.1. Phân loại khoa học 1 2 Từ điển Tiếng Việt, sđd. Vũ cao Đàm, Giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb. GD, 2009 tr. 35 8 Hiện nay, có nhiều cách phân loại khoa học dựa trên những tiêu chí khác nhau, trong đó cách phân loại phổ biến nhất là chia các lĩnh vực khoa học thành ba nhóm cơ bản như sau: + Khoa học xã hội và nhân văn: nghiên cứu về bản chất, các quy luật, sự vận động và phát triển của xã hội và tư duy như triết học, chính trị học, kinh tế học, văn học, văn hóa học, mỹ học, tâm lý học, đạo đức học, luật học, giáo dục học, xã hội học, khảo cổ học, sử học,… + Khoa học tự nhiên: nghiên cứu về bản chất, các quy luật về sự vận động và phát triển của thế giới tự nhiên như toán học, vật lý học, hoá học, thiên văn học, sinh vật học, sinh lý học... + Khoa học kĩ thuật và công nghệ: nghiên cứu để ứng dụng các thành tựu của khoa học tự nhiên vào trong lĩnh vực kĩ thuật - công nghệ nhằm phát minh ra các quy trình công nghệ mới, chế tạo ra các loại máy móc, thiết bị mới, sản xuất ra các loại sản phẩm vật chất… Tuy nhiên, cần phải lưu ý là các cách phân loại trên chỉ có tính chất tương đối, bởi vì các ngành khoa học thường không tồn tại biệt lập, riêng rẽ mà luôn có mối liên hệ với nhau, tiếp thu và vận dụng thành quả nghiên cứu của nhau. 1.2.2. Phân loại nghiên cứu khoa học Dựa theo những tiêu chí khác nhau, người ta cũng có nhiều cách phân loại nghiên cứu khoa học khác nhau. Sau đây là các tiêu chí phân loại chủ yếu: 1.2.2.1. Phân loại theo chức năng nghiên cứu Dựa trên tiêu chí về chức năng nghiên cứu, nghiên cứu khoa học được chia thành 4 loại: - Nghiên cứu mô tả: là những nghiên cứu nhằm đưa ra một hệ thống tri thức về nhận dạng một sự vật, đánh giá một sự vật, hiện tượng. - Nghiên cứu giải thích: là những nghiên cứu nhằm giải thích nguồn gốc, cấu trúc, quy luật chi phối quá trình vận động của sự vật. - Nghiên cứu giải pháp: là những nghiên cứu nhằm tìm kiếm, sáng tạo các giải pháp để khắc phục, nâng cao, phát triển sự vật, sự việc. - Nghiên cứu dự báo: là những nghiên cứu nhằm nhận dạng trạng thái của sự vật trong tương lai. 1.2.2.2. Phân loại theo phương thức thu thập thông tin Theo tiêu chí này, nghiên cứu khoa học được chia thành 3 loại: 9 - Nghiên cứu thư viện: là loại nghiên cứu được thực hiện từ nguồn thông tin, tư liệu chủ yếu thu thập được từ các loại sách, báo trong đó công bố các công trình nghiên cứu, bài viết có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. - Nghiên cứu điền dã: là loại nghiên cứu được thực hiện chủ yếu dựa vào sự quan sát, thu thập thông tin qua thực tế, tại hiện trường, thông qua các phương tiện đo đạc, ghi âm, ghi hình, hoặc trò chuyện, phỏng vấn trực tiếp… - Nghiên cứu labô (nghiên cứu thực nghiệm): là loại nghiên cứu được thực hiện chủ yếu trong phòng thí nghiệm với các máy móc và phương tiện thực nghiệm để mô phỏng các đối tượng và các quan hệ tương tác giữa chúng, từ đó rút ra các kết luận. 1.2.2.3. Phân loại theo mục tiêu ứng dụng Theo tiêu chí này thì nghiên cứu khoa học được phân ra 4 loại: - Nghiên cứu cơ bản: loại hình nghiên cứu này có mục tiêu là tìm tòi, sáng tạo ra những tri thức mới, những giá trị mới, đi sâu khám phá bản chất và quy luật vận động và phát triển của thế giới nên sản phẩm của loại nghiên cứu này không có khả năng ứng dụng trực tiếp vào một lĩnh vực của đời sống mà có vai trò làm nền tảng tri thức cho các quá trình nghiên cứu và ứng dụng tiếp theo. - Nghiên cứu ứng dụng: loại hình nghiên cứu này dựa trên những thành tựu của nghiên cứu cơ bản để vận dụng vào trong các lĩnh vực của khoa học nhằm phát hiện ra những nguyên lý, những qui luật mới, tìm ra những giải pháp hữu ích, những quy trình công nghệ và những sáng chế mới để thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. - Nghiên cứu triển khai: loại hình nghiên cứu này có mục tiêu là tìm khả năng áp dụng đại trà các kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tế sản xuất và đời sống xã hội nhằm đem lại những thành quả trực tiếp làm thay đổi các hiện trạng của đời sống xã hội. - Nghiên cứu dự báo: là loại nghiên cứu mà mục đích không phải là đưa đến những kết quả trực tiếp, hữu dụng tại thời điểm nghiên cứu mà chỉ là dự báo xu thế phát triển của đối tượng trong tương lai. Tuy nhiên, sự phân loại theo các tiêu chí trên đây chỉ hoàn toàn là tương đối dựa trên tính ưu trội của mỗi tiêu chí, còn trong thực tế thường luôn có sự kết hợp, vận dụng các dạng thức nghiên cứu khác nhau ngay trong một công trình nghiên cứu nhằm đạt được những hiệu quả tối ưu. 1.3. Yêu cầu của nghiên cứu khoa học 1.3.1. Yêu cầu đối với người nghiên cứu 10 - Có kiến thức đối với lĩnh vực cần nghiên cứu. - Có tư duy khoa học, có tinh thần khách quan, khoa học khi xem xét, đánh giá đối tượng, tránh thiên kiến chủ quan. - Có tư duy phản biện, tức có khả năng xem xét vấn đề từ nhiều phía, nhiều chiều. - Có tư duy sáng tạo: nghiên cứu khoa học nhằm mục đích để tìm ra cái mới, bởi vậy một trong những yêu cầu quan trọng đối với người nghiên cứu khoa học là phải có khả năng sáng tạo, tìm tòi, phát hiện cái mới, không chấp nhận, không bằng lòng, an phận với những gì đã có, đã biết. - Có niềm đam mê nghiên cứu tìm tòi, khám phá cái mới; có đức tính kiên trì, chịu khó, dám dấn thân, dám chấp nhận rủi ro, bởi nghiên cứu khoa học là công việc đầy cam go, thử thách chứ không phải là con đường “rải thảm đỏ”. - Có bản lĩnh khoa học và chính kiến cá nhân để bảo vệ quan điểm và lập trường khoa học của mình một khi đã có những cơ sở khách quan và niềm tin vào các cơ sở ấy. - Có đạo đức khoa học, đó là phẩm chất trung thực và lòng tự trọng để không đạo văn, không lợi dụng thành quả lao động của người khác. 1.3.2. Yêu cầu đối với sản phẩm khoa học Một sản phẩm nghiên cứu khoa học chỉ có giá trị khi nó đáp ứng được các yêu cầu cơ bản sau đây: - Tính sáng tạo: giá trị của một sản phẩm nghiên cứu khoa học được đánh giá trước hết phục thuộc vào những tri thức mới, những sáng tạo, phát minh mới mà nó đem lại. Mục đích của nghiên cứu khoa học là khám phá, phát hiện bản chất, quy luật của thế giới tự nhiên và xã hội mà trước đó con người chưa biết hoặc biết chưa toàn diện và thấu đáo, là sự bổ sung thêm những tri thức mới để làm giàu có thêm kho tàng tri thức của nhân loại, cho nên, ở những mức độ khác nhau, dù ít dù nhiều, một công trình nghiên cứu khoa học chỉ có giá trị thực sự khi nó đem lại những thông tin mới, góp phần thúc đẩy nhận thức của con người tiến thêm một bước, làm thay đổi nhận thức và hành động của con người. - Tính khách quan, chính xác: thông tin trong khoa học phải có tính khách quan, tính chính xác, tức là phải phản ánh đúng bản chất và qui luật khách quan của đối tượng thì mới có giá trị và độ tin cậy. Tiêu chí để đánh giá, kiểm chứng tính chính xác và độ tin cậy của các kết quả nghiên cứu tùy thuộc vào tính chất đặc thù của mỗi ngành khoa học cũng như mỗi đối tượng nghiên cứu cụ thể (khoa học xã hội, khoa học tự 11 nhiên, khoa học công nghệ là không giống nhau), tuy nhiên nó đều được phản ánh trước hết thông qua việc vận dụng các phương pháp, qui trình, thao tác nghiên cứu đảm bảo tính khách quan và phù hợp. Vì vậy, để chứng minh tính khách quan, khoa học và chính xác của kết quả nghiên cứu, khi báo cáo, công bố kết quả nghiên cứu đòi hỏi người nghiên cứu cũng phải trình bày cả quá trình tiến hành công việc của mình (phương pháp, qui trình, thao tác nghiên cứu) để đưa đến kết quả ấy, bởi nếu những yếu tố này không đảm bảo tính khách quan, khoa học thì kết quả nghiên cứu sẽ không có độ tin cậy. - Tính lý luận và thực tiễn: sản phẩm nghiên cứu khoa học phải có ý nghĩa lý luận và thực tiễn (hoặc chí ít cũng là một trong hai phương diện ấy). Điều này có nghĩa là, một sản phẩm của nghiên cứu khoa học phải đem lại, hoặc là những nhận thức mới về mặt lý luận để thúc đẩy các nhận thức lý luận tiến thêm một bước, hoặc là phải giải quyết được một (hay một số) vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đặt ra, hoặc là cả hai phương diện lý luận và thực tiễn để làm thay đổi nhận thức và hành động của xã hội theo hướng tích cực hơn. 2. Các bước thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học Do mỗi ngành khoa học có đối tượng nghiên cứu khác nhau, và do đó các phương pháp nghiên cứu cũng như các bước tiến hành cụ thể cũng không giống nhau. Trong phạm vi nội dung chương trình môn học này chỉ hướng đến mục tiêu cụ thể là cung cấp các kiến thức và kỹ năng nghiên cứu khoa học cho đối tượng là sinh viên ngành Luật nên chúng tôi chỉ giới hạn trình bày qui trình cũng như các thao tác cụ thể cho việc thực hiện một đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học xã hội. 2.1. Cách tìm kiếm, lựa chọn đề tài và đặt tên đề tài nghiên cứu 2.1.1. Khái niệm đề tài khoa học và cách tìm kiếm, lựa chọn đề tài - Đề tài khoa học là một vấn đề có ý nghĩa khoa học mà cho đến thời điểm được lựa chọn để nghiên cứu thì đó vẫn là một câu hỏi đang bỏ ngỏ chưa được giải quyết, tức chưa có công trình nào làm sáng tỏ. Đó là vấn đề khoa học mà người nghiên cứu quan tâm và tìm cách giải đáp trong phạm vi công trình nghiên cứu của mình, và khi giải đáp được vấn đề đó thì khoa học sẽ tiến thêm một bước. + Cách tìm đề tài nghiên cứu: - Đối với các nhà khoa học: một đề tài nghiên cứu chỉ có thể nảy sinh trong quá trình tiếp cận nhiều tài liệu khoa học liên quan, là kết quả của sự tìm tòi, suy ngẫm, phân tích, liên hệ, khái quát, … thì mới tìm đến được cái điểm mà khoa học còn dừng 12 lại; đề tài cũng có thể nảy sinh từ các cuộc hội thảo khoa học, khi phát hiện được những vấn đề có ý nghĩa quan trọng còn bỏ ngỏ, những vấn đề chưa được giải quyết thấu đáo, những tranh luận chưa đi đến thống nhất; với kinh nghiệm và sự nhạy cảm khoa học, các nhà khoa học cũng có thể tìm thấy những gợi ý cho một đề tài nghiên cứu từ một tình huống có vấn đề trong hoạt động thực tiễn, khi gặp những vướng mắc chưa được tháo gỡ, hay từ việc phát hiện những bất ổn trong các quan niệm và cách giải quyết đã có v.v… - Trong trường đại học, việc làm các bài tập dưới dạng tiểu luận, đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên, khóa luận hay luận văn cao học chỉ là công việc tập nghiên cứu khoa học dưới sự hướng dẫn của giảng viên, cho nên việc tìm kiếm đề tài thuận lợi hơn nhiều. Đó thường là các đề tài gắn với nội dung kiến thức của các môn học qua sự gợi ý, định hướng của giảng viên. Tóm lại, tìm đề tài nghiên cứu tức là tìm ra cái điểm nằm trên ranh giới giữa cái đã biết và cái chưa biết của khoa học. + Cách lựa chọn đề tài nghiên cứu: việc lựa chọn được một đề tài nghiên cứu phù hợp là yếu tố có ý nghĩa tiên quyết đối với sự thành công của một công trình nghiên cứu. Bởi vậy, việc lựa chọn đề tài nghiên cứu có ý nghĩa rất quan trọng, trong đó có rất nhiều tiêu chí cần phải đáp ứng đó là: - Tính mới và tính kế thừa: khái niệm về tính mới của đề tài cần được hiểu rằng, đó không nhất thiết phải là một vấn đề hoàn toàn mới mẻ, một lĩnh vực chưa ai từng khai phá, mà ngay ở những vấn đề đã được nhiều người “cày xới” vẫn có thể còn những phương diện có ý nghĩa nhưng lại chưa được quan tâm hoặc chưa được giải quyết một cách rốt ráo. Thông thường, các đề tài nghiên cứu hay được lựa chọn là những vấn đề nằm ở ranh giới giữa cái đã biết (đã được giải quyết) và cái chưa biết (chưa được giải quyết); nghĩa là, một mặt nó phải vừa không trùng lặp hoàn toàn với các công trình nghiên cứu trước đó, nhưng đồng thời lại cũng không phải bắt đầu từ mảnh đất trống, từ con số không, mà trên cơ sở kế thừa những thành quả của người đi trước, nó phải tiếp cận vấn đề từ một phương diện mới để từ đó thể hiện rằng công trình của mình là một bước tiến mới so với các công trình trước đó. Đó cũng là giá trị khoa học của đề tài. Trong trường hợp đối với đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên ở dạng tiểu luận, khóa luận thì việc đòi hỏi cái mới chỉ rất khiêm tốn, chủ yếu chỉ ở các mức độ: 13 mô tả, nhận diện, hệ thống hóa, tổng hợp, sắp xếp, phân tích các kết quả đã có, đề xuất kiến nghị, giải pháp… Ví dụ: - Mô tả, nhận diện đặc điểm, thực trạng: * Quyền được chết – Lý luận và thực tiễn * Công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Tư pháp * Hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND cấp xã (qua thực tiễn ở một địa phương ) * Pháp luật lao động Việt Nam về lao động nữ - Thực trạng áp dụng tại các doanh nghiệp - Hệ thống hóa, tổng hợp, sắp xếp lại, phân tích những kết quả nghiên cứu đã có trước đó về cùng một vấn đề, trên cơ sở đó để khẳng định lại một cách có hệ thống các kết quả nghiên cứu đã có: * Hình thức Nhà nước ở các quốc gia phương Đông cổ đại * Hình thức pháp luật phong kiến Việt Nam - Đề xuất kiến nghị, giải pháp: * Ngôn ngữ pháp lý trong văn bản Nhà nước – thực trạng và kiến nghị * Chế độ pháp lý về cho thuê hàng hoá thương mại – thực trạng và hướng hoàn thiện * Những biện pháp chống phá giá hàng nhập khẩu vào Việt Nam – thực trạng và kiến nghị * Quản lý chất thải nguy hại tại Việt Nam – thực trạng và hướng hoàn thiện * “Quy hoạch treo” – thực trạng và hướng giải quyết 1 Bởi mục đích quan trọng nhất đối với hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên chưa phải là khám phá ra cái mới, mà chỉ là tập dượt các thao tác tư duy khoa học, nắm được các bước thực hiện một công trình khoa học cũng như qui củ của một luận văn khoa học. - Tính thời sự và tính thực tiễn: một đề tài nghiên cứu thực sự có ý nghĩa (tính cấp thiết) phải là một vấn đề mà hiện thời xã hội đang quan tâm, có ý nghĩa thiết thực đối với việc giải quyết một vấn đề để đáp ứng được một nhu cầu, đòi hỏi của xã hội (ở 1 Các đề tài có đánh dấu * được lấy từ danh mục đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên của các khoa tại trường Đại học Luật TP. HCM. 14 phạm vi một địa phương, ở tầm quốc gia hoặc thậm chí có thể là một vấn đề có tính quốc tế). - Tính phù hợp và tính khả thi: để một đề tài có tính khả thi thì việc lựa chọn đề tài nghiên cứu phải phù hợp với điều kiện tư liệu hiện có, phù hợp với số trang được hạn định, với thời gian thực hiện, điều kiện tài chính, phương tiện nghiên cứu, địa bàn khảo sát, phương thức và đối tượng điều tra, phỏng vấn, phù hợp với mục đích nghiên cứu (luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp đại học; đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ hay cấp cơ sở; bài đăng báo, tạp chí hay tham luận hội thảo v.v...), và đặc biệt là phải phù hợp, vừa sức với năng lực và trình độ của người thực hiện đề tài. Ví dụ: Đây là một đề tài nghiên cứu mà phạm vi bao quát quá rộng, không phù hợp với năng lực và điều kiện nghiên cứu của sinh viên: * Kinh tế Việt Nam và kinh tế Trung Quốc: những điểm tương đồng và khác biệt * Xây dựng chiến lược thương hiệu quốc gia cho Việt Nam và kế hoạch truyền thông cho thương hiệu quốc gia giai đoạn 2011 – 2020 - Tính hấp dẫn và hữu ích đối với bản thân: việc lựa chọn đề tài còn phụ thuộc vào sở thích và sở trường cũng như cần liên quan đến phạm vi công việc mà người nghiên cứu đang thực hiện. Đối với sinh viên, nên chọn các đề tài liên quan đến nội dung các môn học để có thể vận dụng các kiến thức đã học cũng như để mở rộng và đào sâu thêm kiến thức đã học. Tóm lại, việc tìm kiếm và lựa chọn đề tài nghiên cứu là việc phát hiện ra một vấn đề có ý nghĩa mà khoa học chưa giải quyết nhưng mình thấy có thể (có điều kiện và khả năng) giải quyết được. Trong thực tế, có không ít trường hợp, trong quá trình triển khai nghiên cứu, đề tài phải điều chỉnh lại vì vượt quá khả năng của người nghiên cứu. Thậm chí, có công trình khoa học chỉ có thể tìm cho nó một cái tên chính xác khi công trình đã hoàn thành. 2.1.2. Cách đặt tên đề tài nghiên cứu - Việc đặt tên đề tài một cách chuẩn xác là rất quan trọng, vì ngay ở tên đề tài đã cần phải chỉ rõ đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu trả lời cho câu hỏi nghiên cứu cái gì, còn phạm vi nghiên cứu chỉ rõ giới hạn về mặt không gian, thời gian và quy mô của vấn đề nghiên cứu. Ví dụ: + Đề tài xác định rõ thời gian, không gian, phạm vi vấn đề nghiên cứu: 15 * So sánh luật Hồng Đức thời Lê thế kỷ XV với pháp Luật phong kiến Trung Quốc thời Minh * Pháp luật nhà Lê thế kỷ XV trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp * Văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay nhìn từ mối quan hệ với văn hóa truyền thống * Pháp luật thời Lê Sơ (thế kỷ XV) với việc bảo vệ quyền của người phụ nữ - Những điểm tiến bộ cần kế thừa + Đề tài xác định rõ không gian, phạm vi vấn đề nghiên cứu mà không xác định thời gian: * Quyền tự do tôn giáo ở Mỹ và một số giá trị tham khảo đối với Việt Nam * Quyền con người và quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam * Các vấn đề pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa qua thực tiễn xét xử của Tòa án và Trọng tài thương mại tại Việt Nam + Đề tài chỉ xác định phạm vi vấn đề nghiên cứu mà không xác định giới hạn thời gian, không gian: * Đại lý thương mại – lý luận và thực tiễn * Môi giới thương mại – lý luận và thực tiễn - Tên đề tài phải ngắn gọn, súc tích, ít chữ nhất nhưng chứa đựng nhiều thông tin nhất. Ngôn ngữ dùng trong tên đề tài phải rõ ràng, chuẩn xác để chỉ có thể được hiểu theo một nghĩa duy nhất, tuyệt đối không được tạo khả năng để có thể hiểu thành nhiều nghĩa. Ví dụ: * Thủ tục hành chính và vấn đề bảo đảm quyền công dân * Văn hóa pháp Luật Việt Nam hiện nay nhìn từ mối quan hệ với văn hóa truyền thống * Pháp luật về thị trường quyền sử dụng đất – thực trạng và hướng hoàn thiện. - Không nên đặt tên các đề tài dài dòng quá: Ví dụ: * Những giá trị pháp lý truyền thống cần kế thừa phát triển, những hạn chế cần nhận diện, phê phán, loại bỏ về tổ chức chính quyền của Nhà nước phong kiến Việt Nam * Phân tích và đề nghị các chiến lược để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển được trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế 16 * Phân tích vai trò của kế toán quản trị trong việc giúp các doanh nghiệp thực hiện tốt các thay đổi mang tính chiến lược - Không nên đặt tên đề tài nghiên cứu bằng những cụm từ có tính xác định không cao về thông tin, như: Vài suy nghĩ về …; Thử bàn về …; Về vấn đề …; Góp phần vào v.v… Cách đặt tên đề tài với tính mục đích không thật xác định như trên đây chỉ thích hợp cho một bài báo chứ không thích hợp cho một công trình khoa học đòi hỏi sự nghiên cứu thật sự nghiêm túc và công phu như luận văn, luận án cũng như các công trình khoa học khác 1. 2.2. Thu thập và xử lý tài liệu 2.2.1. Thu thập tài liệu nghiên cứu 2.2.1.1. Mục đích thu thập tài liệu Thu thập và nghiên cứu, xử lý tài liệu là một công việc quan trọng và cần thiết cho bất kỳ hoạt động nghiên cứu khoa học nào. Mục đích của việc thu thập và nghiên cứu tài liệu nhằm: - Có được các luận cứ lý thuyết và thực tiễn để chứng minh cho tính đúng đắn của các luận điểm khoa học mà đề tài cần khẳng định. - Trang bị nền tảng kiến thức rộng, sâu về lĩnh vực đang nghiên cứu, giúp người nghiên cứu có một cái nhìn bao quát, toàn diện về vấn đề nghiên cứu với những thành tựu và hạn chế để xác định rõ hơn mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của mình, tránh sự trùng lặp với các công trình đã có. - Giúp người nghiên cứu nắm được phương pháp tiếp cận mà các công trình nghiên cứu trước đó đã thực hiện để tiếp thu và rút kinh nghiệm. 1 GS. Nguyễn Văn Tuấn (nghiên cứu viên cao cấp Viện Nghiên cứu Y khoa Garvan – Úc), đưa ra một số nguyên tắc khi đặt tựa đề cho bài báo khoa học như sau: 1) Nên cố gắng đặt tựa đề với một thông điệp mới. Làm được như thế rất dễ gây sự chú ý của người đọc. Ví dụ: “A novel relationship between osteocalcin and diabetes mellitus”, ở đây chữ novel có tác dụng gợi ra một cái mới và làm cho người đọc thấy thích thú. 2) Không nên viết tựa đề theo kiểu phát biểu (statement). Khoa học không có gì là bất biến và “sự thật” hôm nay có thể sai trong tương lai. Do đó những tựa đề như “Smoking causes cancer” nó chẳng những cho thấy sự ấu trĩ hay ngây thơ trong khoa học của tác giả mà còn làm cho người đọc cảm thấy rất khó chịu. 3) Không bao giờ sử dụng viết tắt trong tựa đề bài báo. Mỗi công trình nghiên cứu thường tập trung vào một vấn đề chuyên sâu nào đó, và nếu chúng ta sử dụng viết tắt thì chỉ những người trong ngành mới hiểu, còn người ngoài ngành không hiểu và đó là một thiệt thòi cho nghiên cứu của mình. 4) Không nên viết tựa đề theo kiểu nghịch lí. Những tựa đề nghịch lí là “Yếu A ảnh hưởng xấu đến X, nhưng tác động tốt đến Y”. Những tựa đề kiểu này có thể làm cho người đọc khó chịu, và có khi làm lẫn lộn vấn đề của nghiên cứu. 5) Tựa đề không nên quá dài hay nhiều chữ. Tựa đề có nhiều chữ làm khó đọc và làm cho người đọc… dễ quên. Thông thường, tác giả nên cố gắng đặt tựa đề dưới 20 chữ. Có nhiều bài báo mà tựa đề có khi chỉ một chữ! (Nguyễn Văn Tuấn, Kỹ năng mềm cho nhà khoa học, Bản tin ĐHQG Hà Nội, số 216, 2009. 17 - Tiếp thu các kết quả nghiên cứu của người đi trước làm tiền đề giúp người nghiên cứu xây dựng các luận cứ để chứng minh các luận điểm khoa học. Có thể nói, tư liệu đối với người nghiên cứu có thể ví như nước đối với cá. Không có tư liệu thì người nghiên cứu dù tài giỏi đến mấy cũng đành bó tay. Bởi vậy, ngay ở khâu thu thập tài liệu, nếu người nghiên cứu xét thấy không có điều kiện sưu tầm đầy đủ các tài liệu hay không có điều kiện thực hiện các hoạt động điều tra, khảo sát thực tế để phục vụ cho đề tài thì cần phải cân nhắc lại việc có nên tiếp tục đề tài nghiên cứu hay không. 2.2.1.2. Nguồn thu thập tài liệu Trong bối cảnh của sự bùng nổ thông tin hiện nay, có rất nhiều kênh để người nghiên cứu có thể thu thập tài liệu cũng như nhiều phương tiện kỹ thuật hỗ trợ như máy ghi âm, ghi hình, photocopy, bởi vậy việc thu thập thông tin có nhiều thuận lợi. Thông thường, có thể thu thập tài liệu nghiên cứu từ các nguồn sau: - Các tài liệu khoa học chuyên ngành: sách kinh điển, sách giáo khoa, giáo trình, sách chuyên khảo, tạp chí khoa học chuyên ngành, tập san, luận văn, luận án, các công trình khoa học, báo cáo chuyên đề khoa học, kỷ yếu hội thảo trong nước và nước ngoài… - Các số liệu, thông tin thống kê được thu thập từ các Niên giám thống kê, Chi cục thống kê… - Các tài liệu lưu trữ, văn kiện, hồ sơ, văn bản luật pháp,… thu thập từ các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội,… - Các thông tin được đăng tải trên các phương tiện truyền thông đại chúng như: truyền hình, truyền thanh, báo chí, Internet,… - Đối với các đề tài nghiên cứu mang tính thực tiễn cao thường không thể thiếu các luận cứ thực tế, vì vậy cần phải khảo sát thực tế các đối tượng nghiên cứu bằng cách khảo sát đối tượng ngay tại nơi diễn ra những sự việc; thực hiện các trắc nghiệm trên đối tượng khảo sát để thu thập thông tin phản hồi; phỏng vấn người am hiểu hoặc liên quan đến đề tài; phát phiếu điều tra để thu thập thông tin; tổ chức hội thảo khoa học để tham khảo ý kiến các nhà khoa học và chuyên môn… Để tránh việc thu thập tài liệu bị phân tán, tản mạn thì người nghiên cứu cần có định hướng cho việc tìm kiếm tài liệu theo nguyên tắc ưu tiên từ hẹp đến rộng, từ các tài liệu liên quan trực tiếp đến gián tiếp, từ các nguồn thông tin có độ tin cậy cao hơn đến thấp hơn… Cụ thể là, hãy bắt đầu từ việc thu thập các thông tin được công bố 18 trong các loại sách như: giáo trình, sách chuyên khảo, tạp chí, tập san chuyên ngành trong và ngoài nước, các báo cáo khoa học, luận văn, luận án và các loại sách tham khảo khác, rồi sau đó mới đến các nguồn thông tin, tư liệu thu thập từ báo chí, internet, các băng đĩa ghi âm ghi hình, bản thảo viết tay,… 2.2.2. Phân loại và xử lý tài liệu 2.2.2.1. Phân loại tài liệu Mối đề tài nghiên cứu đòi hỏi các nguồn tư liệu khác nhau, nhiều loại tư liệu khác nhau. Sau khi thu thập đủ tài liệu nghiên cứu thì phải phân loại tài liệu để giúp cho người nghiên cứu chọn lọc, đánh giá, xử lý và sử dụng tài liệu cho phù hợp với các yêu cầu nghiên cứu. Có thể phân ra 2 dạng tài liệu: tài liệu sơ cấp và tài liệu thứ cấp. + Tài liệu sơ cấp: là loại tài liệu “thô” được người nghiên cứu tự thu thập qua điều tra, phỏng vấn, ghi chép trực tiếp mà chưa qua xử lý, chưa được phân tích chú giải, khái quát. + Tài liệu thứ cấp: là các thông tin, tri thức đã được phân tích, giải thích, bình luận, diễn giải qua những nghiên cứu của người khác, đó là các thông tin trong các sách chuyên khảo, báo chí, bài viết trên các tập san chuyên đề, tạp chí khoa học, biên bản hội nghị, báo cáo khoa học, internet, sách tham khảo, luận văn, luận án, thông tin thống kê, hình ảnh, băng đĩa ghi âm ghi hình, các tài liệu - văn thư, bản thảo viết tay,… - Để việc tìm kiếm, thu thập tý liệu thực hiện nhanh, ngýời nghiên cứu cần lập thý mục sõ bộ liệt kê các loại sách, báo, tý liệu cần thiết rồi mới tiến hành tìm kiếm. - Đặc thù của việc nghiên cứu trong khoa học pháp lý thường thiên về định tính, thêm nữa, các số liệu, các thông tin trong thực tiễn đời sống pháp luật thường gắn với những tình huống cụ thể, đa dạng, thậm chí là cá biệt, vì vậy, việc thu thập thông tin cũng như việc thống kê, phân loại và xử lý thông tin đòi hỏi sự công phu và tỉ mỉ hơn nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác. 2.2.2.2. Xử lý tài liệu nghiên cứu - Sau khi đã phân loại các nguồn tài liệu đã thu thập được, người nghiên cứu phải tiến hành đọc, phân tích, tổng hợp thông tin, hệ thống hóa và sắp xếp chúng theo từng vấn đề hoặc nhóm vấn đề, ghi chép cẩn thận vào sổ tay (hoặc lưu trong các tệp tin trong máy tính) gọi là phiếu dữ liệu để làm luận cứ chứng minh cho các luận điểm khoa học. 19 - Nội dung phiếu dữ liệu bao gồm việc tóm tắt các luận điểm trong tài liệu đã đọc kèm theo việc trích dẫn nguyên văn những ý kiến tiêu biểu, xác đáng và những nhận xét, đánh giá của mình về luận điểm đó. - Các thông tin trong phiếu dữ liệu phải được ghi rõ nguồn gốc dữ liệu bao gồm: tên tác giả, dịch giả, tên sách hoặc bài báo, tên báo, tạp chí đã đăng, số báo, ngày tháng xuất bản, nơi xuất bản, số trang để sau này đưa vào chú thích cũng như lập danh mục tài liệu tham khảo được dễ dàng …; với các số liệu điều tra, phỏng vần từ thực tế cũng cần phải ghi nguồn cụ thể (đối tượng khảo sát, địa điểm, thời gian điều tra, khảo sát…). + Một số điểm hạn chế của sinh viên trong việc thu thập và xử lý thông tin: - Do chưa có kinh nghiệm nghiên cứu nên nếu không có sự định hướng, chỉ đường của giáo viên hướng dẫn thì sinh viên thường bị “ngộp” giữa một “rừng” tài liệu, bị mất phương hướng giữa các “mê lộ” thông tin mà không biết cách chọn lọc, thu thập những gì cần thiết cho mình. - Với đại đa số sinh viên, các kỹ năng xử lý, phân loại, hệ thống hóa cũng như các kỹ năng phân tích, tổng hợp, đánh giá tài liệu và còn nhiều hạn chế. Bởi vậy, thường gặp trong các công trình nghiên cứu của sinh viên là sự liệt kê các tư liệu còn ở dạng “thô” mà chưa có sự phân tích, đánh giá, luận giải thấu đáo bằng quan điểm riêng của mình. 2.3. Xây dựng đề cương nghiên cứu Việc lập đề cương cho một công trình nghiên cứu là một công việc vô cùng quan trọng, phải gồm hai giai đoạn: đề cương sơ lược và đề cương chi tiết. 2.3.1. Đề cương sơ lược Đề cương sơ lược là bộ khung, là bản thiết kế sơ lược, dựa trên trực giác khoa học và kinh nghiệm để phác thảo ra các chương với các luận điểm được dự kiến. Đây chỉ là đề cương có tính chất định hướng cho kế hoạch nghiên cứu cũng như làm cơ sở để thu thập các nguồn tư liệu, vì vậy đề cương dự kiến này có thể bị thay đổi, điều chỉnh sau khi công việc thu thập và xử lý tư liệu đã cơ bản hoàn thành. Tuy nhiên, với các nhà khoa học tài năng và giàu kinh nghiệm thì đề cương dự kiến này thường là gần đúng với đề cương chính thức. 2.3.2. Đề cương chi tiết - Đề cương chi tiết là đề cương chính thức, được lập sau khi công việc thu thập và xử lý thông tin đã cơ bản hoàn thành, còn gọi là đề cương để chứng minh. Đề cương này đã thể hiện đầy đủ nội dung của công trình nghiên cứu với các luận điểm lớn, nhỏ, 20 được sắp xếp theo một hệ thống logic chặt chẽ, có lớp lang, tầng bậc, bao gồm các luận điểm bậc 1, bậc 2, bậc 3… cùng với các luận cứ đi kèm. - Từ đề cương phác thảo dự kiến đến đề cương chính thức, người nghiên cứu phải trải qua quá trình lao động khoa học thật sự công phu và nghiêm túc với sự thay đổi, điều chỉnh, bổ sung nhiều lần trên cơ sở của việc nghiên cứu, xử lý tài liệu, với các thao tác phân tích, tổng hợp hệ thống hóa thì mới hoàn thiện được. Bởi vậy, đề cương chi tiết phản ánh độ rộng, độ sâu của kiến thức cũng như năng lực tư duy khoa học của người nghiên cứu. - Một đề cương chi tiết được xây dựng một cách khoa học, hợp lý sẽ quyết định về cơ bản sự thành công của công trình nghiên cứu. Vì vậy, có người cho rằng khi đã hoàn thiện đề cương chi tiết thì xem như công trình nghiên cứu đã hoàn thành được về căn bản. - Thông thường, đề cương của một công trình nghiên cứu (khóa luận tốt nghiệp, luận văn, luận án) có cấu trúc phổ biến gồm 3 chương (cũng có khi là 2 hoặc 4, 5 chương), trong đó thường được kết cấu theo hai kiểu: a. Kiểu kết cấu theo chiều ngang: - Chương 1: Các vấn đề lý luận chung có tính chất nền tảng, làm cơ sở lý luận cho các vấn đề nghiên cứu như: khái niệm, vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu… - Chương 2: Phân tích tình hình, nhận diện thực trạng của đối tượng nghiên cứu… - Chương 3: Lý giải nguyên nhân, đề xuất các kiến nghị, giải pháp để giải quyết vấn đề, chỉ ra phương hướng, mục tiêu hay dự báo tình hình phát triển của vấn đề trong tương lai. Đây là kiểu kết cấu truyền thống rất quen thuộc đối với các công trình nghiên cứu. Tuy không mới mẻ, độc đáo nhưng đây là kiểu kết cấu dễ trình bày, đồng thời dễ tạo nên sự kết nối chặt chẽ và logic giữa các chương. b. Kiểu kết cấu bổ dọc: - Là kiểu kết cấu trong đó mỗi chương giải quyết một vấn đề tương đối trọn vẹn, với sự sắp xếp các luận điểm theo trình tự logic: 1) Cơ sở lý luận; 2) Thực trạng; 3) Nguyên nhân và giải pháp. - So với kiểu kết cấu theo chiều ngang thì phương thức kết cấu bổ dọc có ưu điểm là mỗi vấn đề được giải quyết gọn ghẽ, dứt điểm trong một chương, nhưng nếu người viết “non tay” thì sẽ khó tạo sự liên kết logic giữa các chương. Vì vậy, lựa chọn kiểu 21 kết cấu này đòi hỏi người nghiên cứu phải có bề dày kinh nghiệm cùng với việc nắm vững và vận dụng kết hợp nhuần nhuyễn, linh hoạt mối quan hệ giữa lý luận với thực tiễn trong từng vấn đề. - Dù là kiểu kết cấu nào thì trong đề cương chi tiết, ở mỗi chương đều phải phản ánh sự tổ chức hệ thống luận điểm theo trình tự quan hệ logic với các lớp lang, tầng bậc từ luận điểm bậc 1 đến luận điểm bậc 2, bậc 3 để sao cho chúng không bị trùng lặp, chồng chéo, dẫm đạp lên nhau. 2.4. Viết thành văn bản Trên cơ sở đề cương chi tiết đã hoàn thiện, tư liệu chuẩn bị đã đầy đủ, công việc tiếp theo là viết thành văn bản, tức là “bồi da đắp thịt” cho đề cương để nó thành một “cơ thể” hoàn chỉnh, sống động. Đây là phần thể hiện các kỹ năng ngôn ngữ và tư duy của người viết, đó là các kỹ năng diễn đạt và lập luận logic, như: kỹ năng dùng từ, viết câu, liên kết luận điểm, chuyển ý, chuyển đoạn… để văn bản thành một chỉnh thể thống nhất, logic và mạch lạc. 2.5. Lập danh mục tài liệu tham khảo - Danh mục tài liệu tham khảo là một phần không thể thiếu được của một công trình nghiên cứu khoa học, dù ở qui mô lớn hay nhỏ. Đó là một danh sách tập hợp, liệt kê tất cả các tài liệu có liên quan đến đề tài mà người nghiên cứu đã đọc tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, bao gồm cả nguồn tài liệu trong nước và nước ngoài (nếu có). Nhìn vào danh mục tài liệu tham khảo có đầy đủ, phong phú, có xác đáng hay không người ta có thể đánh giá được tính khoa học cũng như sự công phu, nghiêm túc của người thực hiện đề tài. - Danh mục tài liệu tham khảo phải được lập ngay từ khi bắt đầu thu thập tư liệu nghiên cứu và được bổ sung trong suốt quá trình nghiên cứu. Vì vậy, chỉ khi công trình nghiên cứu đã viết xong thì mới nên hoàn thiện danh mục tài liệu tham khảo với việc sắp xếp và đánh số thứ tự cố định để hoàn thiện phần chú thích cho các trích dẫn trong luận văn. 2.6. Sửa chữa, hoàn thiện - Thông thường, trong quá trình viết, khi xong mỗi đoạn, mỗi phần, người viết bao giờ cũng phải đọc đi đọc lại để phát hiện và sửa chữa các sai sót cả về nội dung và hình thức. Tuy nhiên, sau khi hoàn tất công trình nghiên cứu, việc rà soát lại lần cuối để sửa chữa các sai sót là một khâu tất yếu không thể thiếu, bởi khoa học đòi hỏi tính chính xác và sự chuẩn mực cao. 22 3. Cách trình bày nội dung một luận văn khoa học 3.1. Phần mở đầu 3.1.1. Lý do chọn đề tài Lý do chọn đề tài hay còn gọi là ý nghĩa của đề tài, hoặc tính cấp thiết của đề tài. Một đề tài nghiên cứu phải có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, vì vậy trong phần mở đầu của công trình nghiên cứu, người nghiên cứu phải thuyết minh được ý nghĩa quan trọng (ít hoặc nhiều) của vấn đề mà mình lựa chọn nghiên cứu. - Ý nghĩa lý luận (ý nghĩa khoa học) của vấn đề nghiên cứu: đề tài góp phần soi sáng hay lý giải một vấn đề có tính lý luận nào? - Ý nghĩa thực tiễn của vấn đề nghiên cứu: đề tài nhằm giải quyết vấn đề nào của thực tiễn đời sống? Có đóng góp gì cho thực tiễn đời sống? Trình bày lý do chọn đề tài chính là việc người nghiên cứu phải trả lời câu hỏi: Vì sao tôi chọn đề tài này? 3.1.2. Lịch sử vấn đề - Ngay khi quyết định có lựa chọn một đề tài nào đó hay không, người nghiên cứu đã phải thu thập các thông tin về các công trình khoa học đã công bố có liên quan đến vấn đề nghiên cứu mà mình định lựa chọn. Nếu đã có công trình nào đó giải quyết được vấn đề ấy rồi mà mình cũng không có quan điểm nào khác hơn thì phải từ bỏ đề tài ấy (vì vấn đề đã được giải quyết). - Để thuyết minh rằng, đề tài này là một vấn đề chưa được khoa học giải quyết, luận văn phải trình bày lịch sử vấn đề nghiên cứu để trả lời các câu hỏi: Những ai đã nghiên cứu vấn đề này? Nghiên cứu đến đâu? Còn vấn đề nào cần nghiên cứu tiếp? Để trả lời các câu hỏi trên, người nghiên cứu cần: - Duyệt lại một cách có hệ thống tất cả những công trình khoa học lớn, nhỏ trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài. - Đánh giá thành tựu và hạn chế của các công trình nghiên cứu có liên quan trên cơ sở của sự phân tích, phê phán, đánh giá chứ không đơn thuần chỉ là liệt kê ra tên của các tài liệu đó (đây là lỗi mà các công trình nghiên cứu của sinh viên rất hay mắc phải). - Xác định vấn đề mà những người đi trước còn dừng lại, và đó cũng là chỗ mà đề tài sẽ giải quyết tiếp để lấp một chỗ trống mà khoa học còn bỏ ngỏ. Chỗ mà khoa học còn bỏ ngỏ cần được hiểu là: a) Cho đến nay chưa có công trình nào đề cập đến theo đúng như yêu cầu mà đề tài đặt ra. 23 b) Tuy có đề cập đến nhưng là ở khía cạnh khác. c) Dù đã giải quyết nhưng chưa thỏa đáng, hoặc chưa rốt ráo đến nơi đến chốn. - Có những đề tài có lịch sử vấn đề rất phong phú, vì vấn đề nghiên cứu đã có rất nhiều người bàn đến. Tuy nhiên (dù rất ít khi), cũng có đề tài mà lịch sử vấn đề còn là một khoảng trống, vì cho đến thời điểm đó chưa có ai nghiên cứu. Đó là một đề tài không có lịch sử vấn đề. - Phần tổng thuật lịch sử vấn đề thường được trình bày theo các trình tự logic: a) Theo trình tự thời gian: từ công trình sớm nhất đến công trình gần đây nhất (có thể phân theo giai đoạn, thời kì). b) Theo trình tự các công trình trong nước, ngoài nước (hoặc ngược lại). c) Theo trình tự tính chất quan trọng của vấn đề. - Khi điểm lại các công trình, không nên cào bằng mà cần phải dừng lại phân tích, đánh giá kĩ hơn đối với những công trình quan trọng, có dấu ấn, còn những bài viết, những công trình nào không quan trọng thì chỉ cần điểm lướt qua. 3.1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Trình bày đối tượng, phạm vi nghiên cứu cũng tức là nêu giới hạn nghiên cứu mà đề tài sẽ thực hiện. Thông thường ngay ở tên đề tài ở những mức độ khác nhau đều đã thể hiện điều này, nhưng khi trình bày phần mở đầu cũng cần xác định lại một cách cụ thể hơn, đặc biệt là với những đề tài mà tên gọi chưa minh định thật rõ đối tượng và phạm vi nghiên cứu thì phần này cần được giới thuyết thật cụ thể mới tránh được sự bắt bẻ. + Đối với các đề tài đã xác định rõ thời gian, không gian, phạm vi vấn đề nghiên cứu ngay từ tên đề tài thì chỉ cần nêu lại và cụ thể hóa hơn. Ví dụ: * Đề tài: So sánh luật Hồng Đức thời Lê thế kỷ XV với pháp luật phong kiến Trung Quốc thời Minh - Giới hạn đối tượng nghiên cứu: so sánh luật Hồng Đức với pháp luật phong kiến Trung Quốc. - Thời gian khảo sát: thời Lê ở Việt Nam và thời Minh ở Trung quốc. - Phạm vi khảo sát: các điều luật. * Đề tài: Pháp luật nhà Lê thế kỷ XV trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp - Giới hạn đối tượng nghiên cứu: pháp luật nhà Lê. - Giới hạn thời gian khảo sát: thế kỉ XV. 24 - Phạm vi khảo sát: lĩnh vực phát triển kinh tế nông nghiệp. * Đề tài: Văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay nhìn từ mối quan hệ với văn hóa truyền thống - Giới hạn đối tượng nghiên cứu: a) Khảo sát thực trạng văn hóa ứng xử với pháp luật ở Việt Nam hiện nay; b) Lý giải nguyên nhân từ nền tảng văn hóa truyền thống. - Thời gian khảo sát: giai đoạn hiện nay. - Phạm vi khảo sát: những bài báo được đăng tải trên các tờ báo có uy tín viết về những hiện tượng tiêu cực trong ứng xử với pháp luật ở Việt Nam hiện nay. * Đề tài: Pháp luật thời Lê Sơ (thế kỷ XV) với việc bảo vệ quyền của người phụ nữ những điểm tiến bộ cần kế thừa - Giới hạn đối tượng nghiên cứu: pháp luật với việc bảo vệ quyền của người phụ nữ. - Thời gian khảo sát: thời Lê Sơ (TK XV). - Phạm vi khảo sát: những điểm tiến bộ cần kế thừa. + Đối với những đề tài chỉ xác định phạm vi vấn đề nghiên cứu mà không xác định giới hạn thời gian, không gian (ví dụ như: Đại lý thương mại – lý luận và thực tiễn; hoặc Môi giới thương mại – lý luận và thực tiễn) thì trong phần giới hạn đối tượng và phạm vi nghiên cứu cần xác định thật cụ thể để tránh bị bắt bẻ. 3.1.4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu Việc chỉ rõ nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu cũng là một yêu cầu không thể thiếu khi thực hiện một đề tài nghiên cứu. Nêu nhiệm vụ nghiên cứu tức là chỉ rõ những nhiệm vụ cụ thể mà người nghiên cứu phải thực hiện khi nghiên cứu đề tài. Nêu mục đích nghiên cứu của đề tài tức là trả lời câu hỏi: Nghiên cứu đề tài này sẽ thu được kết quả gì, để làm gì? Ví dụ: * Đề tài: Hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tập thể ở Việt Nam: kinh nghiệm từ các nước có nền kinh tế thị trường phát triển và các nước trong khu vực.1 + Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về tranh chấp lao động tập thể và giải quyết tranh chấp lao động tập thể và những lý thuyết về so sánh luật trong lĩnh vực pháp luật lao động. 1 Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của PGS,TS. Trần Hoàng Hải, ĐH Luật TP. HCM. 25 - Khảo sát và đánh giá cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tập thể ở những quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển và những quốc gia đang phát triển trong khu vực. - Khảo sát và phân tích thực trạng tranh chấp lao động tập thể và giải quyết tranh chấp lao động tập thể ở Việt Nam kể từ khi có Bộ luật Lao động 1994. + Mục đích nghiên cứu: - Đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tập thể ở Việt Nam để áp dụng cho cơ quan xây dựng pháp luật lao động, cơ quan quản lý lao động ở địa phương, các tổ chức đại diện của người lao động và các doanh nghiệp. * Đề tài: Áp dụng phương pháp giảng dạy bằng tình huống trong đào tạo luật (qua thực tiễn tại trường ĐH Luật TP. HCM).1 + Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu, hệ thống hóa các vấn đề lý luận về phương pháp giảng dạy bằng tình huống và thiết lập những nguyên tắc xây dựng tình huống trong các môn học luật. - Đề xuất cụ thể về việc áp dụng phương pháp sử dụng tình huống trong dạy và học luật ở hệ đại học. - Xác định những điều kiện cần thiết và khả năng ứng dụng tình huống trong quá trình đào tạo luật. + Mục đích nghiên cứu: - Xây dựng mô hình giảng dạy tình huống và một số tình huống điển hình để tham khảo trong quá trình dạy và học áp dụng cho việc giảng dạy các ngành luật cơ bản ở trường Đại học Luật TP. HCM và các cơ sở có đào tạo luật trong cả nước. * Đề tài: Văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay nhìn từ mối quan hệ với văn hóa truyền thống.2 + Nhiệm vụ nghiên cứu: - Chỉ ra mối quan hệ giữa văn hóa với pháp luật và xác định khái niệm văn hóa pháp luật với tư cách là một phương diện biểu hiện của văn hóa. - Chỉ ra thực trạng tiêu cực của văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay - Phân tích nguyên nhân từ sự chi phối của nền tảng văn hóa truyền thống. 1 2 Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường của Th.S Trần Kim Liễu, ĐH Luật TP.HCM. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường của TS. Lê Thị Hồng Vân, ĐH Luật TP.HCM. 26 - Từ góc nhìn văn hóa để đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng môi trường văn hóa pháp luật tích cực, lành mạnh, làm nền tảng cho công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. + Mục đích nghiên cứu: a. Đối với nhiệm vụ đào tạo chuyên ngành Luật: - Đề tài nghiên cứu sẽ tạo sự gắn kết giữa một môn học thuộc khối kiến thức cơ sở ngành với kiến thức chuyên ngành Luật, để việc giảng dạy môn Đại cương Văn hóa Việt Nam thể hiện đặc thù riêng của trường Luật, qua đó nhằm nâng cao tính ứng dụng và hiệu quả thực tiễn của môn học. - Bổ sung thêm những kiến thức về văn hóa pháp luật – một mảng kiến thức xã hội rất cần thiết trong việc hành nghề Luật nhưng hiện chưa được giảng dạy trong chương trình đào tạo cử nhân Luật, cụ thể là: 1- Trang bị cho sinh viên những tri thức về văn hóa pháp luật cũng như ý thức một cách sâu sắc về vai trò của văn hóa pháp luật trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. 2- Nhận diện được thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay và lý giải được những căn nguyên của thực trạng ấy từ góc nhìn văn hóa, giúp sinh viên biết vận dụng những kiến thức văn hóa Việt Nam vào việc lý giải những vấn đề trong thực tiễn ứng xử với pháp luật. 3- Việc bổ sung những kiến thức về văn hóa pháp luật nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Luật, nâng cao chất lượng văn hóa trong hành xử với pháp luật cho những người hành nghề luật tương lai, để họ góp phần tích cực vào việc xây dựng một xã hội có nền văn hóa pháp luật cao. b. Đối với thực tiễn pháp luật: Đề tài sau khi hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm tìm hiểu về thực trạng văn hóa pháp luậtmối quan hệ giữa văn hóa truyền thống với văn hóa ứng xử với pháp luật. 3.1.5. Phương pháp nghiên cứu - Có rất nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau để thực hiện các đề tài nghiên cứu, trong đó có các phương pháp chung cho mọi khoa học và có những phương pháp riêng cho mỗi ngành khoa học (khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật công nghệ, khoa học xã hội nhân văn); đồng thời cũng có những phương pháp đặc thù cho mỗi loại hình nghiên cứu, thậm chí cho mỗi đề tài cụ thể. 27 - Đối với lĩnh vực nghiên cứu về khoa học xã hội nhân văn, các phương pháp nghiên cứu thường được sử dụng phổ biến bao gồm: + Các phương pháp chung: - Phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử - Phương pháp logic – hệ thống - Phương pháp phân tích, so sánh - Phương pháp đồng đại, lịch đại - Phương pháp diễn dịch, qui nạp + Các phương pháp cụ thể: - Phương pháp phỏng vấn, điều tra, khảo sát - Phương pháp thống kê, phân loại Mỗi công trình nghiên cứu đều phải sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau để xử lý các đối tượng nghiên cứu. Việc sử dụng kết hợp những phương pháp nghiên cứu chung và riêng nào trong số các phương pháp trên đây cho mỗi đề tài nghiên cứu là tùy thuộc vào mục đích, nội dung và tính chất của vấn đề nghiên cứu. Tóm lại, trên đây là những nội dung thuộc về phần mở đầu (phần đặt vấn đề) cho một công trình nghiên cứu. Đây là phần rất quan trọng trong kết cấu của một công trình nghiên cứu, bởi vì qua đây sẽ chứng tỏ người viết có thật sự nắm vững đề tài và làm chủ vấn đề nghiên cứu hay không. 3.2. Trình bày nội dung nghiên cứu Đây là phần trình bày nội dung các chương, phần dựa trên đề cương chi tiết đã lập với các luận điểm cấp 1, cấp 2, cấp 3 đã được tổ chức, sắp xếp theo các lớp lang, tầng bậc với mô hình cấu trúc chung như sau: Chương 1: … 1.1…. 1.1.1…. 1.1.2…. 1.2…. 1.2.1…. 1.2.2…. … Sơ kết: Chương 2: … 28 2.1…. 2.1.1…. 2.1.2…. 2.2…. 2.2.1…. 2.2.2…. … Sơ kết: Chương 3: … 3.1…. 3.1.1…. 3.1.2…. 3.2…. 3.2.1…. 3.2.2…. … Sơ kết: - Để trình bày các nội dung trong từng chương, mục đòi hỏi người viết phải sử dụng các luận cứ (lý thuyết và thực tiễn) xác đáng cùng với lý lẽ có sức thuyết phục để lập luận nhằm chứng minh cho các luận điểm đã được xác định. Bởi vậy phần trình bày nội dung đòi hỏi ở người nghiên cứu các kỹ năng lập luận chặt chẽ, logic và kỹ năng diễn đạt mạch lạc để kết nối giữa luận cứ với luận cứ, giữa luận cứ với luận điểm, giữa các luận điểm cùng tầng bậc (đồng hạng) với nhau cũng như giữa luận điểm bậc dưới với luận điểm bậc trên để văn bản thành một thể thống nhất hoàn chỉnh, logic và mạch lạc. (Sẽ được trình bày kỹ ở chương 3: Kỹ năng lập luận, bài 2: Các cấp độ của tổ chức lập luận). - Dung lượng số trang của các chương phải không được quá chênh lệch để đảm bảo tính cân đối của luận văn. - Các tiêu đề, mục lớn, mục nhỏ phải được đánh số nhất quán, rõ ràng, phản ánh được tính tầng bậc của các luận điểm; tránh sử dụng các ký hiệu một cách tùy tiện (dấu #, *…) khiến cho việc nhận diện trình tự các luận điểm bị rối, không thể hiện được các quan hệ logic giữa chúng. Việc đánh số các tiểu mục chỉ nên dừng lại ở cấp độ bậc 4 (ví dụ: 1.2.2.3.), nếu không người đọc sẽ rất khó theo dõi. 29 - Kết thúc mỗi chương phải có phần sơ kết để tóm lược kết quả nghiên cứu của chương đó, được diễn đạt bằng các cụm từ, như: Tóm lại, Nhìn chung,… Qua phân tích trên có thể rút ra các kết luận (nhận xét) sau… Đoạn kết của mỗi chương cũng đồng thời làm tiền đề để chuyển tiếp sang chương sau. 3.3. Phần kết luận - Phần kết luận của một công trình khoa học phải để ở một trang riêng, đó là sự tổng hợp tất cả các kết quả nghiên cứu chủ yếu mà công trình đã đạt được. Các kết quả nghiên cứu ấy phải được trình bày một cách ngắn gọn, cô đúc để khẳng định những đóng góp khoa học của công trình. - Các kết luận phải được đánh số thứ tự 1, 2, 3 … hoặc các gạch đầu dòng (-) mà không kèm theo bất kỳ một lời bình luận nào. - Những kết luận này là phần rất quan trọng của luận văn, do vậy, tác giả phải dành nhiều thì giờ, đầu tư suy nghĩ để viết thật chính xác, cụ thể nhưng phải cô đọng, súc tích. 4. Kỹ năng tóm tắt, tổng thuật tài liệu khoa học 4.1. Tóm tắt một văn bản khoa học Tóm tắt văn bản là rút gọn nội dung của văn bản, chỉ giữ lại nội dung cốt yếu nhất mà văn bản muốn chuyển tải. 4.1.1. Mục đích, yêu cầu của việc tóm tắt văn bản khoa học + Mục đích của việc tóm tắt: Việc tóm tắt văn bản có thể xuất phát từ nhiều mục đích khác nhau: - Giới thiệu công trình khoa học trên báo chí hoặc trong từ điển. - Báo cáo ở hội nghị, hội thảo khoa học. - Tóm tắt công trình nghiên cứu để trình bày trong hội đồng bảo vệ luận văn, luận án hoặc hội đồng nghiệm thu đề tài khoa học. - Tóm tắt một chương, phần trong giáo trình hoặc các sách chuyên khảo sau khi đã học xong, đã đọc để hệ thống hóa và nắm vững các nội dung tri thức. - Tóm tắt để rèn luyện các thao tác tư duy khoa học. + Yêu cầu của việc tóm tắt: - Tóm lược được những nội dung chính của văn bản. - Trình bày ngắn gọn, cô đọng, mạch lạc, sáng rõ. - Phù hợp với mục đích của việc tóm tắt. 4.1.2. Các cách tóm tắt văn bản khoa học 30 Thông thường có hai cách tóm tắt tài liệu khoa học: tóm tắt ở dạng đề cương và tóm tắt ở dạng văn bản rút gọn. 4.1.2.1. Tóm tắt dạng đề cương - Là cách tóm lược, rút gọn văn bản dưới dạng khung sườn, dàn ý trong đó phản ánh được các luận điểm, luận cứ và quan hệ về cấp độ giữa các luận điểm, luận cứ ấy theo cấu trúc có lớp lang, tầng bậc, có trật tự trên / dưới, trước / sau. - Thông thường, văn bản khoa học chuyên sâu triển khai hệ thống luận điểm, luận cứ thông qua hệ thống các đề mục với nhiều tầng bậc khác nhau. Người tóm tắt chỉ cần ghi lại các đề mục đó theo hệ thống đã có cùng với nội dung chính của mỗi mục. - Trường hợp văn bản không có các đề mục thì người tóm tắt phải tự tìm ra đề mục nhờ vào các câu chủ đề của đoạn văn. Các đề mục phải dùng các kí hiệu (I, II, III,…; A, B, C…; a, b, c…; 1,2,3,…; 1.1., 1.2., 1.3.;…; các dấu +; - ) để phản ánh các quan hệ cấu trúc tầng bậc giữa các luận điểm (ý lớn, ý nhỏ). 4.1.2.2. Tóm tắt dạng văn bản rút gọn Đó là việc dùng ngôn ngữ và cách diễn đạt của người tóm tắt để chuyển nội dung văn bản chính thành một văn bản khác tinh gọn cả về độ dài và nội dung. Việc tóm tắt phải bám sát 3 phần chính theo bố cục của văn bản: - Phần mở đầu: cần tóm lược chủ đề của văn bản bằng vài câu ngắn gọn. - Phần khai triển: lần lượt tóm tắt theo trình tự các luận điểm và luận cứ được trình bày trong văn bản. Nếu đoạn văn có câu chủ đề thì bám sát các câu chủ đề để tóm tắt các ý chính. Nếu đoạn văn không có câu chủ đề thì phải khái quát ý chính của cả đoạn và diễn đạt lại một cách ngắn gọn. Để đảm bảo tính khách quan, chính xác thì cần trích dẫn nguyên văn một số câu quan trọng của văn bản chính. - Phần kết luận: rút gọn theo cách diễn đạt của người tóm tắt kết hợp với trích dẫn nguyên văn những câu kết luận quan trọng. 4.2. Tổng thuật tài liệu khoa học 4.2.1. Mục đích, yêu cầu của việc tổng thuật tài liệu khoa học 4.2.1.1. Mục đích của tổng thuật Trong nghiên cứu khoa học, việc tổng thuật tài liệu khoa học là công việc mà người nghiên cứu phải làm thường xuyên với các mục đích: - Giới thiệu về một lĩnh vực nghiên cứu, một khuynh hướng nghiên cứu để giúp người đọc có một cái nhìn bao quát và có hệ thống về lĩnh vực nghiên cứu đó. 31 - Trong các bước thực hiện một đề tài khoa học, không thể thiếu việc duyệt lại lịch sử nghiên cứu vấn đề, đó chính là việc tổng thuật các công trình nghiên cứu của những người đi trước để đánh giá các kết quả nghiên cứu đã có, đồng thời phát hiện những vấn đề mà lĩnh vực nghiên cứu đó còn bỏ ngỏ, hoặc chưa được giải quyết triệt để, cần được tiếp tục nghiên cứu. 4.2.1.2. Yêu cầu của tổng thuật Tổng thuật được thực hiện trên cơ sở của việc tóm tắt văn bản nhưng với yêu cầu cao hơn, cụ thể là: - Phải tóm tắt từng văn bản trong quan hệ xâu chuỗi nhiều văn bản, không chỉ của cùng một tác giả mà còn của nhiều tác giả. - Người tổng thuật phải có năng lực khái quát và hệ thống hóa vấn đề ở một trình độ cao. - Có năng lực phân tích, so sánh, đối chiếu giữa nhiều quan điểm, nhiều trường phái để từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá một cách khách quan, chính xác. 4.2.2. Cách tổng thuật tài liệu khoa học Việc tổng thuật tài liệu khoa học cần thực hiện với các bước sau đây: - Đọc kĩ để nắm vững nội dung cơ bản của các tài liệu cần tổng thuật. - Sắp xếp các tài liệu cần tổng thuật theo hệ thống logic (trình tự thời gian tài liệu được công bố, mức độ quan trọng của tài liệu, nội dung, tính chất của vấn đề…). - Lần lượt tổng thuật nội dung các tài liệu theo nhóm vấn đề, theo các trường phái quan điểm (có giới thiệu tên tác giả, tên văn bản); so sánh, đối chiếu, phân tích, nhận xét để chỉ ra những điểm giống nhau, khác nhau giữa các quan điểm, các trường phái, những thành tựu và hạn chế của mỗi công trình nghiên cứu được tổng thuật cũng như của cả nhóm, cả trường phái. - Sau khi tổng thuật phải tóm lược lại một cách khái quát những ý chính và nêu nhận xét, đánh giá chung. - Người tổng thuật phải dùng ngôn ngữ của mình để diễn đạt nhưng cần lựa chọn trích dẫn những từ, cụm từ hoặc câu, đoạn quan trọng theo nguyên văn của văn bản gốc để tăng tính thuyết phục. 5. Qui chuẩn hình thức của một luận văn khoa học Khoa học đòi hỏi sự nghiêm túc và tính chuẩn mực cao, không chỉ ở nội dung mà còn ở cả hình thức trình bày. Sau đây là các yêu cầu về qui chuẩn hình thức trình bày một luận văn khoa học. 32 5.1. Yêu cầu của văn phong khoa học - Khoa học thuyết phục người đọc, người nghe bằng luận cứ, lập luận chính xác và logic, vì vậy văn phong khoa học phải chính xác, rành mạch, sáng sủa, chặt chẽ, chuẩn mực trong cách dùng từ, diễn đạt. Tránh lối viết văn hoa, cầu kỳ, sáo rỗng nhưng cũng không được dùng lối văn khẩu ngữ suồng sã. Tránh lối diễn đạt tuyệt đối hóa một cách cực đoan những gì không có giá trị tuyệt đối, (ví dụ nếu chưa phải là tất cả thì chỉ nên nói: “phần lớn”, “phần nhiều” hay “hầu hết”; nếu chưa phải là hoàn toàn thì nên nói: “về cơ bản”, “căn bản là”; nếu cảm thấy chưa chắc chắn thì nên nói: “dường như”, “hình như”…). Đồng thời, văn phong khoa học cũng không chấp nhận cách diễn đạt mơ hồ, đa nghĩa. Văn phong khoa học cũng tránh dùng nhiều tính từ, và càng không nên sử dụng những biện pháp tu từ như ẩn dụ, ví von. - Trong luận văn, người nghiên cứu chủ yếu đưa ra, trình bày các sự kiện, những luận cứ một cách khách quan, rồi dùng lý lẽ để phân tích, lập luận, chứng minh để rút ra những kết luận có sức thuyết phục, vì vậy để thể hiện tính khách quan, văn phong khoa học cần tránh thể hiện tình cảm và những đánh giá chủ quan đối với đối tượng nghiên cứu. - Cấu trúc câu trong luận văn khoa học chủ yếu được dùng ở thể bị động, nên tránh dùng đại từ nhân xưng, như tôi, chúng tôi, em… mà thay vào đó là các từ xưng hô bình đẳng và trung tính về sắc thái biểu cảm như: tác giả công trình, người nghiên cứu, người viết luận văn này … 5.2. Cách trích dẫn và chú thích Trong nghiên cứu khoa học không thể thiếu việc trích dẫn ý kiến của người khác để so sánh hoặc làm luận cứ trong lập luận để chứng minh cho luận điểm của mình. Tuy nhiên, việc trích dẫn trong nghiên cứu khoa học không được tùy tiện mà phải tuân thủ các yêu cầu sau đây: - Phải ghi rõ xuất xứ của tài liệu đã trích dẫn. Việc ghi rõ nguồn gốc các trích dẫn nhằm thể hiện tính chính xác và tính khách quan khoa học của công trình nghiên cứu; thể hiện sự tôn trọng đạo đức khoa học của người nghiên cứu; thể hiện ý thức tôn trọng pháp luật về quyền tác giả và đồng thời buộc người đã nêu ra luận điểm được trích dẫn phải chịu trách nhiệm về nội dung của phần trích dẫn. - Một nguyên tắc quan trọng của việc trích dẫn trong khoa học là cần phải trích dẫn từ bản gốc của tài liệu tham khảo, cần hạn chế tối đa việc trích từ các nguồn tư liệu thứ 33 phát (trừ trường hợp tài liệu ấy không có ở trong nước). Ví dụ: muốn trích dẫn Hồ Chí Minh thì tác giả phải đọc chính gốc tác phẩm của Hồ Chí Minh, chứ không phải trích dẫn lại từ một tác giả khác, vì trích dẫn từ nguồn thứ phát sẽ có thể dẫn đến hệ quả sai dây chuyền. Trong khoa học có không ít trường hợp sự trích dẫn bị sai theo dây chuyền như thế. - Không nên trích dẫn quá nhiều (4 đến 5 trích dẫn trong một trang), vì như thế sẽ khiến cho người đọc có cảm giác người viết chỉ dùng ý tưởng của người khác mà không có quan điểm riêng. - Không nên trích dẫn từ các tài liệu trên internet quá nhiều, vì đó là những tài liệu có độ tin cậy không cao và ít tính học thuật. - Cách ghi chú thích cho trích dẫn phải căn cứ theo số thứ tự của tài liệu ở danh mục tài liệu tham khảo và được đặt trong ngoặc vuông, ngay sau phần trích dẫn, gồm các thông tin: số thứ tự tài liệu trong danh mục, số trang có chứa phần trích dẫn, ví dụ: [7, tr.118-119]. - Nếu không có điều kiện tiếp cận được tài liệu gốc mà phải trích dẫn thông qua một tài liệu khác thì phải nêu rõ nguồn dẫn từ tài liệu thứ cấp, ví dụ: [Dẫn lại: 8, tr.19], đồng thời tài liệu gốc đó sẽ không được liệt kê trong danh mục tài liệu tham khảo của công trình khoa học (vì người nghiên cứu không đọc trực tiếp). - Đối với các bài báo khoa học, giáo trình, tập bài giảng, sách chuyên khảo, sách tham khảo thì phần chú thích các trích dẫn thường ghi ở cuối sách hay dưới mỗi trang sách (footnote). 5.3. Trình bày danh mục tài liệu tham khảo - Tài liệu tham khảo bao gồm tất cả các tác phẩm kinh điển, giáo trình, sách tham khảo, văn bản pháp luật, nghị quyết, thông tư, báo cáo, các bài báo… bằng các thứ tiếng khác nhau mà tác giả đã tham khảo khi nghiên cứu (kể cả có trích dẫn hay không trích dẫn trong công trình nghiên cứu). Danh mục tài liệu tham khảo phải được sắp xếp theo đúng quy định sau đây: - Xếp theo từng ngôn ngữ, với thứ tự: Việt, Anh, Pháp, Nga (được đánh số liên tục). Các tài liệu bằng tiếng nước ngoài phải giữ nguyên văn. - Tài liệu tham khảo bằng tiếng Việt phải xếp theo thứ tự ABC của tên tác giả; tài liệu bằng tiếng nước ngoài xếp theo ABC của họ tác giả. Nếu tài liệu không có tên tác giả thì xếp theo chữ cái đầu tiên của cơ quan ban hành hay phát hành ấn phẩm đó. 34 - Mỗi tài liệu phải có đầy đủ các thông tin: tên tác giả hoặc cơ quan phát hành; năm xuất bản (để trong ngoặc đơn); tên sách (in nghiêng) hoặc tên bài báo (đặt trong ngoặc kép, không in nghiêng); nhà xuất bản, nơi xuất bản (đối với sách); tên tạp chí (in nghiêng), số tạp chí (trong ngoặc), trang … (nếu là bài báo). Ví dụ: 1. Phạm Trọng Hoàn (2001), “Văn chương - “năng lượng của sự có mặt” và việc xác định đối tượng tiếp nhận thẩm mỹ trong nhà trường”, Tạp chí Văn học (7), tr. 75 - 80. 2. Nguyễn Thanh Hùng (2002), Đọc và tiếp nhận văn chương, Nxb. Giáo dục. 3. Vương Trí Nhàn (2004), “Tỉnh lại nhìn lại mình để tìm cách đổi khác...”, Nghiên cứu Văn học (7), tr. 73 - 77. 4. Nhiều tác giả (1983), Nhà văn bàn về nghề văn, Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Nam Đà Nẵng. 5. F.Nietzsche (1999), Zarathustra đã nói như thế, (Trần Xuân Kiêm dịch), Nxb. Văn học. 5.4. Các yêu cầu khác về hình thức - Nếu công trình nghiên cứu có phần phụ lục thì đặt trước phần tài liệu tham khảo. - Phần trình bày kỹ thuật phải đúng qui chuẩn về cỡ chữ, font chữ, căn lề phải/ trái, trên/dưới; không được chạy các tiêu đề ở phần trên hoặc dưới mỗi trang; không được trang trí hoa văn hoặc kẻ đóng khung mỗi trang; không được gạch chân hoặc viết chữ in hoa tùy tiện ở các mục hoặc các câu, từ; không đặt dấu chấm hoặc dấu hỏi sau các tiêu đề. BÀI TẬP THỰC HÀNH: 1. Thực hành sửa chữa, hoàn thiện tên một số đề tài nghiên cứu (theo yêu cầu của giáo viên). 2. Tự chọn một đề tài nghiên cứu và xây dựng đề cương sơ lược cho đề tài đó. 3. Thực hành tóm tắt văn bản khoa học (theo yêu cầu của giáo viên) TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Hoàng Văn Châu, Làm thế nào để thực hiện tốt một luận văn khoa học http://tailieu.vn 35 2. Vũ Cao Đàm, Giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb. Giáo dục, 2009. 3. Bùi Đăng Hiếu, Kỹ năng nghiên cứu khoa học, http://sinhvienluat.vn 4. Lê Tử Thành, Logic học và phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb. Trẻ, TP.HCM, 1993. 5. Nguyễn Văn Tuấn, Cách viết một bài báo, http://nguyenvantuan.com/ 6. Nguyễn Văn Tuấn, Kĩ năng nghiên cứu: lập luận và trích dẫn, http://nguyenvantuan.com/ 7. Nguyễn Văn Vân, Mấy suy nghĩ về hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trường ĐH Luật TP. HCM, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 1, 2003. CHƯƠNG 2 KỸ NĂNG THUYẾT TRÌNH  Mục đích của bài học: + Về kiến thức: - Giúp sinh viên thấy được tầm quan trọng của thuyết trình. - Nắm được các bước và các thao tác cụ thể để thực hiện một bài thuyết trình. + Về kỹ năng: - Nắm được các kỹ năng để thực hiện một bài thuyết trình hiệu quả. - Biết vận dụng các kỹ năng đã học để thực hiện một bài thuyết trình ấn tượng. + Về phương pháp: - Chú trọng rèn luyện kỹ năng qua thực hành thuyết trình theo nhóm. NỘI DUNG BÀI HỌC 1. Khái quát về thuyết trình 1.1. Khái niệm Thuyết trình là trình bày một vấn đề nào đó để truyền đạt thông tin đến người nghe nhằm mục đích giúp người nghe hiểu, thuyết phục họ nghe theo hoặc làm theo. Trong tiếng Việt có hai từ gần nghĩa: diễn thuyết và thuyết trình đều chỉ hành động nói trước đông người để trình bày về một vấn đề nào đó giúp người ta hiểu, từ đó thuyết phục người ta nghe theo, làm theo. Tuy nhiên, cũng cần có một vài sự phân biệt giữa diễn thuyết và thuyết trình. 36 - Khái niệm diễn thuyết thường dùng trong trường hợp nói trước đối tượng công chúng đông đảo, thành phần có tính mở, đề tài thường là những vấn đề thuộc về lĩnh vực chính trị - xã hội, có ảnh hưởng đến nhiều đối tượng trong xã hội (ví dụ diễn thuyết để tranh cử; diễn thuyết về chủ đề chống chiến tranh hay lên án phân biệt chủng tộc…). Địa điểm diễn thuyết thường diễn ra ở những không gian rộng (ngoài trời, nơi công cộng…). - Khái niệm thuyết trình thường dùng trong trường hợp nói về một đề tài thuộc một lĩnh vực cụ thể của đời sống như: kinh kế, khoa học, giáo dục,… cho một đối tượng người nghe giới hạn về số lượng, xác định về thành phần. Địa điểm tổ chức thường trong những không gian hẹp hơn (hội trường, lớp học…), thường dùng các phương tiện hỗ trợ (máy chiếu…). Ví dụ: thuyết trình về một đề án mở rộng sản xuất, kinh doanh, một đề án phát triển kinh tế; giáo viên thuyết trình bài giảng trên lớp; nhà nghiên cứu thuyết trình về một đề tài khoa học; một công ty quảng cáo, tiếp thị thuyết trình về một sản phẩm mới… 1.2. Vai trò của thuyết trình - Hiện nay, cho dù bạn làm trong bất kỳ lĩnh vực nào thì thuyết trình cũng là một trong những kỹ năng vô cùng cần thiết. Trong công việc và sinh hoạt thường ngày, ở những mức độ khác nhau, mỗi người đều phải thực hiện các hoạt động giao tiếp dưới hình thức thuyết trình. Đó là khi nói chuyện trước đám đông; khi trình bày với cấp trên về một kế hoạch, một dự án; khi thuyết phục khách hàng hay đối tác thực hiện ý định, mục đích của mình; thậm chí đơn giản hơn là khi nói chuyện với bạn bè về một vấn đề nào đó… - Trong nhà trường, đặc biệt ở bậc đại học, việc thuyết trình cá nhân (hay nhóm) trước lớp về các vấn đề liên quan đến bài học là một phương pháp học rất hiệu quả giúp người học nắm vững kiến thức và qua đó rèn luyện các kỹ năng trình bày vấn đề trước đám đông. - Người có tài “ăn nói”, tức có kỹ năng thuyết trình tốt sẽ thu hút được sự chú ý của người nghe, dễ dàng truyền tải được ý tưởng và mong muốn của mình đến người nghe, từ đó cũng sẽ dễ dàng thuyết phục được các đối tác để đạt được những mục đích của mình, đồng thời tạo được ấn tượng cho người khác về khả năng tư duy cũng như các năng lực làm việc của mình. Dù bạn là người làm rất được việc nhưng nếu không có tài “ăn nói”, không biết trình bày vấn đề một cách lưu loát, mạch lạc để thuyết phục người khác thì sẽ hạn chế rất nhiều đến sự thành công trên con đường sự nghiệp. Khả năng 37 thuyết trình vì vậy đóng một vai trò vô cùng quan trọng trên con đường dẫn tới thành công của mỗi người. Đó cũng là lý do khiến cho kỹ năng thuyết trình được xếp vào nhóm đầu tiên trong số các kỹ năng cần có của người lãnh đạo, quản lý. - Tuy nhiên, để thuyết trình trước đám đông là điều không dễ dàng đối với số đông mọi người, bởi một bài thuyết trình thành công đó vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Do vậy, ngay cả những người thông minh, giỏi giang thường cũng khó tránh khỏi tâm lý e dè hoặc hồi hộp, lo lắng, mất tự tin khi phải thuyết trình trước đám đông nếu không được trang bị những kỹ năng cần thiết. Vì vậy, để có được sự tự tin và tính chuyên nghiệp khi thực hiện một bài thuyết trình, đòi hỏi người thuyết trình phải được đào tạo các kỹ năng và phải rèn luyện một cách nghiêm túc, công phu. 2. Kỹ năng thuyết trình 2.1. Giai đoạn chuẩn bị Các khâu chuẩn bị cho một bài thuyết trình là vô cùng quan trọng. Với sự chuẩn bị chu đáo về nội dung, hình thức, các phương tiện hỗ trợ cũng như dự trù được những tình huống có thể xảy ra, bài thuyết trình đã có thể cầm chắc được 80% thành công. Sau đây là các bước chuẩn bị một bài thuyết trình. 2.1.1. Chọn đề tài thuyết trình Việc chọn đề tài thuyết trình sẽ không phải đặt ra trong trường hợp bạn được đặt hàng hoặc được phân công một đề tài cụ thể. Trong trường hợp được lựa chọn tự do thì việc chọn đề tài thuyết trình là công việc đầu tiên trong các bước chuẩn bị cho một bài thuyết trình, và cũng là một công việc không đơn giản, bởi đó là yếu tố đầu tiên quyết định sự thành công của bài thuyết trình. Việc chọn đề tài thuyết trình cần dựa trên các tiêu chí sau đây: a. Sự am hiểu: Một bài thuyết trình chỉ có thể thành công khi đề tài thuyết trình thuộc lĩnh vực mà bạn thực sự am hiểu, nếu không sẽ khó tránh khỏi sự lúng túng, bị động, và tất nhiên là nội dung thuyết trình sẽ hời hợt, nghèo nàn, đơn điệu, không có sức thuyết phục. Thuyết trình về một vấn đề mà mình không thực sự am hiểu sâu sắc cũng có thể coi là một hành vi thiếu tôn trọng người nghe. b. Sự hứng thú: Chỉ nên chọn đề tài mà mình có hứng thú, đam mê thực sự, bởi nếu người thuyết trình không có hứng thú và tâm huyết đối với vấn đề mình trình bày thì hiển nhiên là 38 cũng không thể nào truyền được cảm hứng cho người nghe. Khi đó buổi thuyết trình sẽ diễn ra một cách nhạt nhẽo và buồn tẻ. c. Sự phù hợp: Đề tài được lựa chọn thuyết trình phải phù hợp với đối tượng người nghe (tuổi tác, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, sở thích và các vấn đề mà họ quan tâm…), cũng có nghĩa là vấn đề thuyết trình phải cần thiết, có ý nghĩa đối với người nghe, gắn với các thời điểm và hoàn cảnh cụ thể (bởi cùng một đối tượng nhưng ở vào những không gian và thời gian khác nhau sẽ có những vấn đề quan tâm khác nhau). 2.1.2. Xác định các thông tin về buổi thuyết trình Để chuẩn bị tốt một bài thuyết trình, bạn cần phải nắm được các thông tin về buổi thuyết trình qua việc trả lời các câu hỏi sau đây: - Mục đích thuyết trình để làm gì? - Nội dung sẽ thuyết trình là gì? - Đối tượng sẽ nghe thuyết trình là ai? - Địa điểm sẽ thuyết trình ở đâu? - Thời gian thực hiện bài thuyết trình là bao nhiêu? 2.1.2.1. Xác định mục đích và nội dung của bài thuyết trình Xác định được mục đích thuyết trình tức là phải trả lời được các câu hỏi: - Mục đích của buổi thuyết trình? Những mục tiêu nào cần đạt được sau buổi thuyết trình? Ví dụ: quảng cáo một sản phẩm hàng hóa, một dịch vụ mới…; thuyết trình về tác hại của thuốc lá, ô nhiễm môi trường… - Việc xác định rõ mục đích thuyết trình sẽ quyết định việc lựa chọn các nội dung thông tin cũng như những hình thức phù hợp để chuyển tải thông tin đến người nghe. 2.1.2.2. Tìm hiểu đối tượng tham dự - Để lên kế hoạch chuẩn bị một bài thuyết trình, trước tiên cần tìm hiểu các thông tin về đối tượng sẽ tham dự buổi thuyết trình, như: số lượng người sẽ tham dự, tuổi tác, nghề nghiệp, trình độ, quan điểm, sở thích, mối quan tâm … Những thông tin này sẽ là cơ sở để lựa chọn địa điểm, thiết kế nội dung và hình thức của buổi thuyết trình, cũng như việc lựa chọn cách ăn mặc và chuẩn bị về tâm lý, tác phong giao tiếp cho phù hợp với đối tượng người nghe. Một bài thuyết trình chỉ có thể thành công khi nó đáp ứng được sự mong đợi và tạo được sự đồng cảm của người nghe, vì vậy, việc tìm hiểu thông tin về đối tượng tham 39 dự càng cụ thể thì càng giúp cho việc chuẩn bị buổi thuyết trình càng chu đáo, và do đó hiệu quả đạt được sẽ càng cao. 2.1.2.3. Xác định thời gian và địa điểm thuyết trình - Việc xác định thời gian thuyết trình sẽ giúp cho việc phân chia thời gian thích hợp cho mỗi phần của nội dung thuyết trình. Nếu thời gian hạn hẹp thì phải phân bổ thời lượng ưu tiên cho những phần quan trọng nhất. - Việc lựa chọn thời điểm thuyết trình (ban ngày, ban đêm) và địa điểm thuyết trình (hội trường hay sân khấu ngoài trời, quảng trường, công viên…) phải phù hợp với đề tài thuyết trình và phù hợp với đối tượng người nghe. 2.1.2.4. Lựa chọn cách thuyết trình và chuẩn bị các phương tiện hỗ trợ Việc xác định đề tài thuyết trình, đối tượng, thời gian và địa điểm sẽ quyết định cách bài trí khung cảnh cũng như việc lựa chọn sử dụng các công cụ hỗ trợ phù hợp (âm thanh, ánh sáng, các phương tiện trình chiếu, tranh ảnh minh họa…). Chẳng hạn, với một bài thuyết trình về văn học, nghệ thuật bạn có thể chọn địa điểm ngoài trời, trang trí khung cảnh ấn tượng với tranh, hoa, tượng… Nhưng với một buổi thuyết trình về đề tài khoa học thì lại cần bài trí căn phòng trang trọng, nghiêm túc; nếu thuyết trình ở ngoài trời thì cần tăng âm thanh, nhưng nếu trong phòng nhỏ thì lại cần điều chỉnh âm lượng vừa phải, ánh sáng phù hợp… 2.1.3. Chuẩn bị nội dung bài thuyết trình 2.1.3.1. Thu thập tư liệu Trong các khâu chuẩn bị cho một bài thuyết trình thì việc chuẩn bị nội dung thuyết trình là quan trọng nhất và cũng đòi hỏi công phu nhất. Để chuẩn bị nội dung bài thuyết trình, sau khi đã xác định đề tài và mục tiêu thuyết trình thì bước tiếp theo là phải thu thập các tư liệu liên quan. Việc thu thập thông tin cần được tham khảo và chọn lọc từ nhiều nguồn tư liệu (các bài viết, các công trình nghiên cứu, các nguồn thông tin được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng…). 2.1.3.2. Thiết kế bài thuyết trình Sau khi đã thu thập đầy đủ các thông tin cần thiết, công việc tiếp theo là thiết kế nội dung bài thuyết trình. Cấu trúc nội dung của một bài thuyết trình phải gồm ba phần: mở đầu, nội dung và kết luận. a. Thiết kế phần mở đầu ấn tượng: Phần mở đầu của một bài thuyết trình phải giới thiệu khái quát về: - Mục đích của buổi thuyết trình 40 - Các nội dung quan trọng - Các lợi ích của bài thuyết trình - Lịch trình làm việc của buổi thuyết trình Để có một bài thuyết trình thành công thì việc chuẩn bị phần mở đầu có vai trò rất quan trọng. Để gây ấn tượng nhằm thu hút sự chú ý của khán/ thính giả ngay từ những phút đầu tiên, các nhà thuyết trình có kinh nghiệm thường sử dụng một trong những cách sau đây: + Tạo ra một tình huống gây ấn tượng: Ví dụ: Trong một buổi thuyết trình giới thiệu sản phẩm của một công ty điện thoại, khi khách hàng vừa ổn định chỗ ngồi, bất ngờ một nhân viên của công ty chạy ra ném mạnh chiếc điện thoại trên tay xuống sàn nhà. Các thiết bị của máy văng ra mỗi nơi một bộ phận. Nhân viên đó từ từ nhặt nhạnh và ghép các bộ phận lại với nhau. Thật tuyệt vời, chiếc điện thoại vẫn chạy tốt. - Vâng, đó là một trong những tính năng độc đáo của chiếc điện thoại của hãng chúng tôi - người thuyết trình từ trong cánh gà bước ra tuyên bố. Trước tình huống bất ngờ đó, khách hàng đã bị cuốn hút và nhập cuộc một cách rất tự nhiên vào bài thuyết trình về quảng cáo điện thoại diễn ra ngay sau đó. Những tình huống gây ấn tượng sẽ khiến người nghe bất ngờ và bị thu hút vào bài thuyết trình, tuy nhiên cũng cần lưu ý là nếu tạo ra những tình huống quá sốc hoặc phản cảm thì lại phản tác dụng đối với người nghe. + Kể một mẩu chuyện liên quan đến đề tài: - Để thu hút người nghe, có thể bắt đầu bằng việc kể một câu chuyện. Ví dụ, nếu là một buổi thuyết trình về đề tài kinh doanh thì có thể kể câu chuyện về một khách hàng đã sử dụng sản phẩm của bạn và họ cảm nhận tốt như thế nào. Hoặc cũng có thể kể một câu chuyện hài có liên quan đến đề tài để tạo không khí vui vẻ, qua đó tạo đà cho sự nhập cuộc một cách tự nhiên. - Tuy nhiên, không phải ai cũng thích sự hài hước, nên sẽ là mạo hiểm nếu sự hài hước đặt không đúng chỗ. Thêm nữa, nếu bạn không có khiếu kể chuyện hài thì không nên mở đầu theo cách này. + Đưa ra những con số thống kê gây chú ý: Đây cũng là một cách để gây ấn tượng ban đầu cho bài thuyết trình. Ví dụ, để thuyết phục người nghe lựa chọn hình thức học tập Elearning, có thể mở đầu bài thuyết trình bằng việc đưa ra các con số nghiên cứu cụ thể về lợi ích của hình thức đào tạo 41 này như: giảm 70% chi phí đào tạo, tiết kiệm 60% thời gian học tập, tăng năng suất làm việc cho bạn 25%. + Nêu câu hỏi kích thích trí tò mò của người nghe: - Việc mở đầu bài thuyết trình bằng một câu hỏi sẽ có tác dụng gây sự chú ý, kích thích tư duy và trí tưởng tượng của người nghe. Thực tế các nhà thuyết trình chuyên nghiệp rất hay sử dụng cách mở đầu này. - Những câu hỏi được đưa ra không nhất thiết phải là những câu hỏi đánh đố mà nên là những câu hỏi đơn giản, pha chút hài hước (tất nhiên là phải hướng vào chủ đề của bài thuyết trình). Ví dụ: Để thuyết trình về các tính năng của một sản phẩm, có thể mở đầu bằng câu hỏi: Quý vị có biết hiện nay trên thị trường có các sản phẩm nào tích hợp tính năng 3 trong 1 không ạ?... + Chia sẻ tình cảm một cách chân thành về lý do đến với buổi thuyết trình này: - Mở đầu buổi thuyết trình, bạn cũng có thể chia sẻ với khán giả về sự hứng thú hay những khó khăn mà bạn đã phải vượt qua để có buổi thuyết trình này, đó cũng là một cách mở đầu tự nhiên nhưng lại có tác dụng tạo không khí thân thiện với khán giả. Ví dụ: Larry King, một trong những chuyên gia thuyết trình nổi tiếng của đài CNN thường sử dụng phương pháp này. Trong nhiều bài thuyết trình, thay vì xuất hiện với một tác phong trang trọng, ông lại bắt đầu bằng cách nói lên cảm nhận của mình khi đến với chương trình này. Những sự chia sẻ chân tình của ông đã tạo được sự đồng cảm và thân thiện với người nghe ngay từ đầu. - Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, nếu không phải là những cảm xúc thật sự chân thành mà chỉ là sự giả bộ, đóng kịch một cách gượng gạo thì sẽ phản tác dụng. b. Thiết kế nội dung thuyết trình: Trong toàn bộ các khâu chuẩn bị cho bài thuyết trình thì đây là phần quan trọng nhất, và cũng là phần việc chiếm nhiều thời gian nhất. Việc thiết kế nội dung bài thuyết trình bao gồm các công việc cụ thể sau đây: + Xây dựng dàn bài thuyết trình: - Nội dung thuyết trình phải được cấu trúc một cách hệ thống, trong đó đảm bảo tính logic, tính chặt chẽ và tính hợp lý. - Tùy theo nội dung và tính chất của vấn đề thuyết trình mà có thể sắp xếp trình tự trình bày cho phù hợp, có thể theo các trình tự logic sau đây: 42 1) Thời gian xuất hiện của sự việc (việc gì xuất hiện trước thì nói trước, xuất hiện sau thì nói sau). 2) Mức độ quan trọng của sự việc (theo trình tự tăng dần hoặc giảm dần). 3) Logic nhân quả của sự việc (nếu sự việc A là nguyên nhân của sự việc B thì phải trình bày A trước, B sau). 4) Theo trình tự logic của vấn đề (điểm mạnh - điểm yếu; thực trạng - nguyên nhân - giải pháp). + Chi tiết hóa nội dung thuyết trình: Sau khi xây dựng dàn bài thì phải cụ thể hóa nội dung thuyết trình với các luận điểm, luận cứ. Nội dung thuyết trình càng được chuẩn bị cụ thể, chi tiết càng tốt, trong đó cần đảm bảo các yêu cầu sau đây: - Bám sát trọng tâm chủ đề: tập trung vào những vấn đề quan trọng để tạo điểm nhấn, tránh lan man, dàn trải, chung chung. Để nói đúng trọng tâm, bạn cần chọn lọc những luận điểm quan trọng nhất, gạt bỏ những ý tưởng không quan trọng và có thể đánh số các luận điểm được chọn theo thứ tự về mức độ quan trọng giảm dần. Để ghi nhớ những nội dung quan trọng, cần làm thẻ ghi nhớ để có thể chủ động, đề phòng trường hợp bị quên hoặc bỏ sót những ý chính do mất bình tĩnh hoặc do quá hào hứng, say sưa mà nói lan man xa vấn đề trọng tâm (nếu thuyết trình nằng Powerpoint thì không cần làm điều này). - Tạo sự hấp dẫn, lôi cuốn: để bài thuyết trình có sức hấp dẫn, lôi cuốn, yêu cầu trước hết là nội dung thông tin phải mới, phong phú, kèm theo các hình ảnh minh họa, các ví dụ sinh động, gắn với thực tiễn đời sống giúp khán giả hình dung cụ thể hơn về điều bạn muốn nói. Bên cạnh đó, tùy thuộc vào đối tượng và tính chất của bài thuyết trình mà có thể đan xen những câu chuyện dí dỏm, hài hước liên quan đến đề tài để giúp làm dịu không khí trang nghiêm của buổi thuyết trình. Tuy nhiên, nếu quá lạm dụng những câu chuyện hài, bạn sẽ mất nhiều thời gian và còn bị khán - thính giả đánh giá là người thiếu nghiêm túc. - Có tính thuyết phục: luận cứ phải cụ thể, chính xác, đáng tin cậy; lập luận phải chặt chẽ, logic, mạch lạc. + Lên kịch bản chi tiết cho buổi thuyết trình: Sau khi xây dựng xong nội dung chi tiết cho bài thuyết trình thì phải lên kịch bản chi tiết cho buổi thuyết trình. Kịch bản của một buổi thuyết trình bao gồm: 43 - Phân lượng thời gian thuyết trình cho từng phần trong tổng thời gian của bài thuyết trình. Đặc biệt nếu hạn hẹp về thời gian thì bạn phải phân bổ thời lượng hợp lí để có thời gian đi sâu vào phần quan trọng nhất. Để kiểm soát về thời gian, theo những người thuyết trình có kinh nghiệm thì nên chia tổng thời gian thuyết trình ra làm ba phần: thuyết trình (70%); trả lời câu hỏi và tranh luận với khán giả (20%); thời gian dự trữ (10%). - Có / không các minh họa bằng phim ảnh, clip, hay các hoạt động minh họa trực tiếp khác (diễn kịch, trưng bày mẫu sản phẩm, thao tác làm mẫu, …)? Nếu có thì dùng cho những phần nào, đưa vào ở mức độ nào và đưa vào ở thời điểm nào là phù hợp? Thời gian dành cho phần minh họa là bao nhiêu? - Có / không các câu hỏi giao lưu với khán giả? Nếu có thì phải đặt sẵn các câu hỏi dự kiến và phải cân nhắc nên đưa câu hỏi vào phần nào? Cách dẫn dắt ra sao cho tự nhiên, sinh động? - Trong trường hợp nhiều người tham gia thuyết trình thì phải có sự phân công cụ thể, chi tiết công việc của từng người (nội dung trình bày, thời lượng). Đặc biệt là phải có phương án phối hợp thống nhất, ăn ý nhịp nhàng, linh hoạt và uyển chuyển khi luân phiên thuyết trình. - Có phương án xử lý các tình huống đặc biệt (ví dụ: khi thời gian dành cho bài thuyết trình bị thay đổi so với dự kiến thì nên cắt bớt phần nào, nên lướt qua phần nào? Nếu mất điện hay máy móc trục trặc thì xử lý ra sao...). + Lường trước các câu hỏi để chuẩn bị các phương án trả lời: Phần chuẩn bị nội dung thuyết trình không thể bỏ qua việc phải lường trước các câu hỏi của khán giả trong và sau khi thuyết trình để chuẩn bị các phương án trả lời. Thông thường, khán giả có thể đưa ra các dạng câu hỏi sau đây: - Câu hỏi muốn làm rõ hơn một nội dung nào đó mà người thuyết trình lướt qua. Trả lời các câu hỏi loại này tương đối đơn giản, chỉ cần trình bày kỹ lưỡng hơn, chi tiết hơn phần nội dung đó. - Câu hỏi muốn mở rộng một nội dung của phần đã được thuyết trình. Với loại câu hỏi này đòi hỏi người thuyết trình phải có một phông tri thức sâu rộng về những vấn đề liên quan. - Câu hỏi muốn tranh luận về những nội dung được trình bày. Để trả lời loại câu hỏi này, đòi hỏi người thuyết trình phải có cái nhìn toàn diện và tư duy phản biện, phải dự 44 kiến trước các ý kiến khác nhau, thậm chí là đối lập về vấn đề, suy nghĩ trước các phương án và các khả năng giải quyết vấn đề. c. Soạn phần kết bài thuyết trình: - Phần kết phải tóm lại một cách ngắn gọn, rõ ràng bằng cách đánh số những luận điểm quan trọng trong nội dung đã thuyết trình để giúp người nghe có thể ghi nhớ tốt hơn. - Gợi mở những suy nghĩ mới, phương hướng hay giải pháp mới cho vấn đề đã trình bày. 2.1.3.3. Kỹ năng soạn bài thuyết trình bằng powerpoint Hiện nay, việc thuyết trình bằng powerpoint là hình thức thuyết trình rất phổ biến bởi nó có nhiều lợi thế về tính trực quan. Tuy nhiên, để thực sự phát huy hiệu quả của hình thức thuyết trình này thì cần phải nắm được các kỹ năng cơ bản trong việc soạn thảo, thiết kế các slide. Mặc dù việc tạo các slide tuy không khó, nhưng thiết kế các slide thuyết trình sao cho ấn tượng thì lại không đơn giản, bởi nó không chỉ thể hiện trình độ và sự chuyên nghiệp của bạn, mà còn thể hiện sự chuẩn bị chu đáo, cẩn thận với vấn đề cần trình bày. Sau đây là những kỹ năng cần được lưu ý khi thiết kế các slide: + Về cấu trúc: slide đầu tiên ghi tiêu đề và tên người thực hiện; slide tiếp theo giới thiệu khái quát các nội dung chính sẽ trình bày (như mục lục ở đầu mỗi cuốn sách) để người nghe có sự hình dung tổng thể và chuẩn bị tâm thế tiếp nhận. Các slide tiếp theo mới đi vào các luận điểm cụ thể. + Về nội dung: các slide thuyết trình phải chứa những thông tin quan trọng cần chuyển tải, đã được giản lược tối đa, được diễn đạt trong những cụm từ ngắn gọn, súc tích. Cần xác định rằng, người nghe đến với buổi thuyết trình là để nghe bạn trình bày vấn đề chứ không phải để đọc những gì hiện trên màn hình powerpoint. Nếu trong mỗi slide có quá nhiều chữ thì khán giả phải tập trung vào việc đọc nên chẳng còn thời gian quan tâm đến việc bạn đang nói gì, đồng thời khán giả cũng sẽ cảm thấy mệt mỏi, không hứng thú với việc đọc. Vì vậy chỉ nên gạch đầu dòng các ý ngắn gọn để khán giả có thể dễ dàng nắm được nội dung bạn đang trình bày. Còn bạn thì dựa vào các ý chính đó để triển khai vấn đề. +Về hình thức trình bày các slide: - Số dòng trong mỗi slide chỉ khoảng từ 3 đến 5 dòng; số lượng từ trong một dòng tối đa chỉ khoảng 10 từ. Các dòng chữ nên xuất hiện lần lượt theo thứ tự trước sau phù 45 hợp với trình tự trình bày vấn đề chứ không nên xuất hiện cùng lúc sẽ làm rối và sao nhãng sự tập trung chú ý của khán giả vào từng vấn đề. - Giới hạn số lượng slide thích hợp cho bài thuyết trình, sao cho mỗi slide được chiếu trong khoảng một phút là thích hợp. - Chữ viết trong mỗi slide phải nhất quán, chân phương, dễ đọc (về màu sắc, font chữ); size chữ phải đủ lớn để người ngồi xa nhất có thể đọc, nhưng cũng không nên quá lớn sẽ làm khán giả có cảm giác “tức mắt”. - Trong mỗi slide thường phải kết hợp giữa chữ viết với các ký hiệu, biểu đồ, hình ảnh minh họa để bổ trợ cho thông điệp mà bạn muốn gửi tới người nghe. Vì “trí não của một người bình thường không thể quan sát được đến 1/1000 những gì mắt có thể nhìn thấy được” (T.Edison), và số dây thần kinh từ mắt đến não nhiều gấp 25 lần số dây thần kinh từ tai đến não, do đó phải khai thác triệt để những lợi thế về tính trực quan của hình thức thuyết trình bằng Powerpoint. Nên lựa chọn sử dụng những hình ảnh có độ phân giải cao để nó vẫn rõ nét khi trình chiếu trên màn ảnh rộng. - Thiết kế màu sắc giữa chữ và nền (background) phải có độ tương phản cao, nên dùng chữ tối màu và nền sáng màu hoặc ngược lại. Có thể thay đổi màu nền khi chuyển sang nội dung hay chủ đề mới nhưng không nên lạm dụng. - Hình nền không nên sử dụng màu sắc hay các hoa văn trang trí rườm rà, đồng thời cũng cần tránh lạm dụng những hiệu ứng đặc biệt về âm thanh và màu sắc khi không cần thiết. Để người nghe thật sự tập trung vào nội dung mà bạn trình bày và không bị phản cảm, đừng biến các slide thuyết trình của mình thành những bức họa với quá nhiều hình ảnh động, âm thanh hay màu sắc loè loẹt không phù hợp với chủ đề khiến khán giả bị căng thẳng, lóa mắt, bởi họ thật sự muốn nắm bắt thông tin chứ không muốn thử trình độ thiết kế của bạn. Và điều đó thực ra lại là sự mách bảo về sự không chuyên nghiệp của bạn. - Có kế hoạch dự phòng trường hợp máy móc bị trục trặc kỹ thuật bằng việc in ra giấy bài trình bày để phát cho mọi người. 2.1.4. Luyện tập trước khi thuyết trình Sau khi hoàn tất phần chuẩn bị nội dung, công việc cần thiết tiếp theo là phải tập luyện, bởi sự thành công của một bài thuyết trình phụ thuộc không ít vào khâu này. Sự tập luyện càng thuần thục, bạn sẽ càng tự tin khi thuyết trình, bởi vì “nỗi sợ hãi bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết và sự không chắc chắn” (Robinson). 2.1.4.1. Luyện tập về thời gian 46 Để đảm bảo thời gian thuyết trình, cần luyện tập trước sao cho bài thuyết trình chỉ chiếm 80% lượng thời gian dự kiến, trong đó chỉ nên dành 70% thời gian để trình bày, còn 30% cho việc giao lưu, đối thoại với người nghe. 2.1.4.2. Luyện tập ngôn ngữ, cử chỉ - Trong thuyết trình, khả năng diễn đạt lưu loát và nghệ thuật diễn cảm qua lời nói (giọng nói, âm điệu, tốc độ nhanh chậm, cách ngừng nghỉ…) có vai trò rất quan trọng để thu hút người nghe, nhưng với số đông mọi người, khả năng này không phải là thiên bẩm mà chủ yếu là do sự tập luyện. - Những khả năng này không thể có được bởi sự tập luyện trong ngày một ngày hai, mà là kết quả của một quá trình rèn luyện lâu dài, bằng việc thường xuyên đọc sách báo, tạp chí, tham dự những cuộc nói chuyện… để thu thập, sưu tầm những lời hay, ý đẹp, những câu thành ngữ, tục ngữ, châm ngôn, những từ ngữ mới lạ, những thuật ngữ chuyên ngành… Đó là cách để bạn làm phong phú và mở rộng vốn từ của mình để có được khả năng ứng khẩu nhanh nhạy và linh hoạt trong mọi tình huống. - Đặc biệt, trước khi thuyết trình, bạn nên tập nói một mình nhiều lần theo bài soạn đã chuẩn bị để luyện tập cách diễn đạt cho lưu loát cũng như nghệ thuật diễn cảm qua lời nói cho phù hợp và có sức cuốn hút người nghe. - Để luyện tập các cử chỉ và ngôn ngữ hình thể, các động tác di chuyển, cách giao tiếp với người nghe, bạn cũng cần tập thuyết trình một mình (nói trước gương để tự quan sát) nhưng tưởng tượng rằng mình đang thuyết trình trước mọi người. Sau đó có thể nói trước một nhóm nhỏ là bạn bè, người thân và nhờ mọi người góp ý kiến để bạn điều chỉnh, khắc phục các thiếu sót. Chính những trải nghiệm qua sự luyện tập sẽ giúp bạn có được sự bình tĩnh, tự tin và thành công khi bước vào một buổi thuyết trình thực sự. - Nếu là thuyết trình theo nhóm thì phải có buổi thao luyện của cả nhóm để có sự phối hợp thống nhất và ăn ý cho cả bài thuyết trình. - Nếu là thuyết trình bằng powerpoint thì phải tập dượt trước các thao tác sử dụng và kết nối các phương tiện trình chiếu để tránh những lúng túng, trục trặc không đáng có. Tóm lại, việc rèn luyện khả năng diễn đạt lưu loát, giọng nói truyền cảm, giàu sinh khí và tác phong chuyên nghiệp là những điều kiện rất quan trọng để làm nên sự thành công của một bài thuyết trình, và đó cũng là những tố chất cần có nếu bạn muốn trở thành một người thuyết trình chuyên nghiệp hay một nhà lãnh đạo có sức thu phục. 47 2.2. Thực hiện thuyết trình Một bài thuyết trình thành công phải có khả năng tác động đến người nghe không chỉ về nhận thức mà còn cả về cảm xúc, do đó, thuyết trình vừa là khoa học vừa và nghệ thuật. Sau đây là những kỹ năng cơ bản giúp thực hiện một bài thuyết trình thành công trên cơ sở của sự kết hợp giữa khoa học và nghệ thuật giao tiếp. 2.2.1. Gây ấn tượng ban đầu - “Vạn sự khởi đầu nan”, “Đầu xuôi đuôi lọt” là những kinh nghiệm mà cha ông đã đúc kết để nói về vai trò quan trọng của bước khởi đầu cho một công việc. Còn theo kinh nghiệm của những người thuyết trình chuyên nghiệp, những phút đầu tiên có ý nghĩa rất quan trọng cho sự thành công của một bài thuyết trình. - Ngay từ những giây phút đầu tiên bạn xuất hiện trước khán giả, bạn đã tạo nên ở khán giả một ấn tượng tức thì, và 30 giây tiếp theo là thời gian để mọi người khẳng định, xác nhận lại về ấn tượng về bạn. Bởi vậy, hầu hết người nghe sẽ có phản ứng tâm lý về việc có thích hay không thích bạn trước khi bạn bắt đầu thuyết trình. - Đối với một số người, một cách tự nhiên, do trời phú, họ đã có những ưu thế về hình thức bề ngoài dễ gây thiện cảm cho mọi người, từ khuôn mặt, dáng vóc, nụ cười. Tuy nhiên, những người có được các lợi thế đó không nhiều, vì vậy phần lớn chúng ta muốn gây được ấn tượng tốt đối với mọi người ngay khi tiếp xúc đều cần phải có sự chuẩn bị chu đáo và những cố gắng để tự hoàn thiện bản thân. Sau đây là một số kỹ năng có thể giúp bạn gây được ấn tượng ban đầu khi thực hiện một bài thuyết trình (cũng như trong giao tiếp nói chung). 2.2.1.1. Gây ấn tượng bằng phong cách Những yếu tố tác động đầu tiên để người nghe có ấn tượng về bài thuyết trình chính là phong cách của người thuyết trình, biểu hiện qua trang phục, tư thế, nét mặt. Bởi vậy bạn hãy chuẩn bị sẵn sàng và kỹ lưỡng trước khi xuất hiện trước đám đông. - Cần ăn mặc nghiêm túc, lịch sự, phù hợp với đề tài thuyết trình và đối tượng người nghe. Ví dụ: Khi thuyết trình về một đề tài khoa học cần ăn mặc nghiêm túc, trang trọng; khi thuyết trình về một tác phẩm nghệ thuật, một cuộc triển lãm hội họa hay điêu khắc thì nên ăn mặc thể hiện phong cách độc đáo, lãng mạn, ấn tượng…; khi thuyết trình về một nền văn hóa, có thể mặc trang phục, đội hay đeo, mang một vật phẩm đặc trưng cho nền văn hóa đó để gây ấn tượng cho bài thuyết trình. Qua đó cũng là bằng chứng cho thấy bạn đã chuẩn bị cẩn thận và chu đáo cho bài thuyết trình. 48 - Tuy nhiên, nhìn chung, trang phục và những yếu tố hình thức bề ngoài của người thuyết trình không nên quá độc đáo, khác thường để tránh tạo nên sự chú ý đặc biệt, bởi nó có thể gây phản cảm và làm sao nhãng sự tập trung chú ý vào nội dung thuyết trình. - Cùng với trang phục và các yếu tố hình thức bề ngoài thì tư thế, cử chỉ, điệu bộ tự nhiên, phong thái chủ động và tự tin, nét mặt thân thiện, cởi mở cũng là những yếu tố rất quan trọng để gây ấn tượng tốt ban đầu cho khán giả. Tất nhiên, bạn đừng quên tặng khán giả những nụ cười (đúng lúc), vì nó không chỉ giúp bạn tự tin hơn, mà còn tạo sự thân thiện, làm cầu nối quan trọng để rút ngắn khoảng cách giữa bạn với người nghe. 2.2.1.2. Gây ấn tượng bằng mở đầu hấp dẫn - Thông thường, khi bắt đầu một buổi thuyết trình, trong những giây phút đầu tiên, người nghe vẫn chưa thực sự chuẩn bị tâm lý sẵn sàng để nghe những gì bạn nói. Bởi vậy, để lôi cuốn người nghe ngay từ đầu, bạn hãy bắt đầu bài thuyết trình với một trong các cách mở đầu ấn tượng mà bạn đã chuẩn bị (tạo một tình huống gây ấn tượng; kể một mẩu chuyện liên quan đến đề tài; đưa ra những con số thống kê gây chú ...
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.