Tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Hà Nội khi thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA)

pdf
Số trang Tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Hà Nội khi thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA) 10 Cỡ tệp Tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Hà Nội khi thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA) 513 KB Lượt tải Tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Hà Nội khi thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA) 1 Lượt đọc Tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Hà Nội khi thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA) 6
Đánh giá Tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Hà Nội khi thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA)
4.7 ( 19 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 53 (03/2019) 13-22 13 TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI KHI THỰC THI CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO (FTA) STRENGTHEN COMPETITIVENESS OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES ON HANOI LOCATION WHEN ENFORCING FREE TRADE AGREEMENTS (FTA) Đỗ Hữu Tùng**** Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 5/9/2018 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 5/3/2019 Ngày bài báo được duyệt đăng: 26/3/2019 Tóm tắt: Từ năm 2006 đến nay, Việt Nam đã ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) đơn phương và đa phương với nhiều quốc gia trên thế giới. Hà Nội là trung tâm kinh tế của khu vực phía Bắc, vì thế năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp (DN) trên địa bàn Hà Nội sẽ là động lực để hỗ trợ phát triển toàn bộ các doanh nghiệp trong khu vực. Bài viết sẽ tập trung phân tích năng lực cạnh tranh của khối doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thủ đô hiện nay. Từ đó đưa ra những khuyến nghị để nâng cao năng lực cạnh tranh của khối DN này trong quá trình thực thi các FTA đã được ký kết trên địa bàn thủ đô Hà Nội. Từ khóa: Hiệp định thương mại tự do (FTA), năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp, khuyến nghị, thủ đô Hà Nội. Abstract: Since 2006, Vietnam has signed many unilateral and multilateral free trade agreements (FTAs) with many countries around the world. Hanoi is the economic center of the northern region, so the competitiveness of enterprises in Hanoi will be the driving force to support the development of all businesses in the region. The article will focus on analyzing the competitiveness of small and medium enterprises in this city. Since then, we have made recommendations to improve the competitiveness of these enterprises in the implementation of the signed FTAs in Hanoi capital. Keywords: Free trade agreements (FTA), competitiveness, businesses, recommendations, Hanoi capital. * Đại học Mỏ - Địa chất *** 14 1. Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Tp. Hà Nội Cho đến nay, tổng số doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) của Hà Nội chiếm 97% tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập, là khu vực doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong tạo việc làm (chiếm 50,1% lao động trong các doanh nghiệp), tăng thu nhập cho người lao động, huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển và đóng góp vào ngân sách Nhà nước. Theo số liệu báo cáo thống kê của Cục thuế thành phố Hà Nội, tính đến 07/6/2016, Hà Nội có 122.522 doanh nghiệp (DN), với số tăng tuyệt đối là 10.421 DN, tương ứng 8% so với thời điểm kết thúc năm 2015. Trong đó, chủ yếu là khối DN ngoài quốc doanh (DNNQD), DN đầu tư nước ngoài (DNĐTNN) tăng 214 DN, còn lại khối doanh nghiệp có vốn nhà nước (DNNN) có xu hướng giảm do tái cơ cấu lại DN (sát nhập, giải thể và thành lập công ty cổ phần). Tính đến tháng 7 năm 2017, Hà Nội có 138.170 DN, tăng 10% so với cùng kỳ năm ngoái. Hiện nay, khu vực DNNQD chiếm số lượng DN lớn nhất trong tổng số DN hoạt động trên địa bàn TP. Hà Nội. Tính đến tháng 7 năm 2017, số DN này đạt 132.519 DN, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước khiến cho khối DN này đạt gần 96% tổng số DN phân theo khu vực kinh tế. Tiếp theo đó là DNĐTNN là 3.782 DN, tăng 16% so với cùng kỳ năm trước. Và DNNN có tỷ lệ thấp nhất đạt 1.869 DN, giảm 9% so với cùng kỳ năm trước. Trong giai đoạn 2011- 2016 số lượng DN thành lập mới cao hơn (15%) so với số ngừng hoạt động, trừ năm 2012 là có số DN ngừng nghỉ cao hơn. Cụ thể, DN thành lập mới đạt 82.419 DN với tỷ lệ thành lập mới so với các năm liền kề trước đó được duy trì khá ổn định ở mức 88% đến 102%. Từ 1/7 đến Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 25/7/2017 có 1.640 DN thành lập mới, tăng 1% so với cùng kỳ. Tương ứng với số lượng DN thành lập tại các khu vực kinh tế thì khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có số vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất từ 87% đến 95%; tiếp theo là khu vực ĐTNN chiếm tỷ trọng từ 3% đến 7%; trong khi đó khu vực nhà nước chiếm tỷ trọng thấp dưới từ 1 đến 7%. Chỉ trong vòng 1 tháng (tháng 7 năm 2017), số DN có vốn tham gia của nhà nước được thành lập tăng 400% so cùng kỳ năm trước đạt 5 DN; DN có vốn ĐTNN: 29 DN, giảm 41% so với cùng kỳ năm trước; DNNQD là 1.606 DN, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước. Điểm đáng chú ý đó là các DN thành lập mới trong lĩnh vực thương mại tăng đều qua các năm và chiếm tỷ trọng nhiều nhất đạt 31%-35% trong các ngành nghề kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội. Mặc dù cùng chiếm tỷ trọng từ 13%-15% song ngành công nghiệp chế biến- sản xuất lại giảm nhẹ trong những năm gần đây, trong khi ngành dịch vụ lại ổn định và có xu hướng tăng lên. DN thành lập mới trong ngành xây dựng chiếm tỷ trọng từ 14% đến 21%, tuy nhiên có xu hướng giảm dần. Một số các lĩnh vực ngành nghề khác như tài chính, ngân hàng, bất động sản là những ngành nghề đặc thù, về số lượng chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng quy mô về vốn thì lớn. Hầu hết các ngành này đều nằm trong danh sách xếp hạng DN lớn theo tiêu chí tại Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính Phủ. Trong 4 tháng đầu năm 2018, thành phố Hà Nội có 7.836 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 79.630 tỷ đồng (giảm 3% về số lượng và tăng 29% vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước), trong đó có 165 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với số vốn là 6.399,9 tỷ đồng (chiếm 2% về số lượng, 8% về vốn điều lệ so với tổng số doanh nghiệp trên Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion địa bàn) – trong đó có 137/165 doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài; 496 doanh nghiệp đăng ký giải thể (tăng 36% so với cùng kỳ), 2.955 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động (tăng 39% so với cùng kỳ). 2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của DNNVV trên địa bàn Hà Nội Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO, là thành viên của ASEAN và đang tiếp tục thực hiện lộ trình đã cam kết hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới qua các hiệp định thương mại đã tham gia. Quá trình hội nhập kinh tế vừa mang lại cho DN những lợi ích nhưng cũng tạo những thách thức to lớn đó là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, sự thay đổi nhanh chóng và khó lường của môi trường kinh doanh, cũng như áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt ở cả thị trường trong và ngoài nước, đã tạo ra nhiều thách thức đối với các DN Việt Nam nói chung và DN trên địa bàn Hà Nội nói riêng. Đến nay, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam cải thiện chậm và có xu thế tụt hậu so với các nước Khu vực và các nước phát triển. Theo thông kê của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI, xét về yếu tố thể chế kinh tế, Việt Nam xếp hạng 92 thế giới, đứng thứ 9 trên 10 quốc gia của khu vực ASEAN, chỉ trên Myanmar. Xét về yếu tố sáng tạo, Việt Nam đứng hạng 87 thế giới còn về mức độ sẵn sàng áp dụng công nghệ mới thì càng thấp, xếp hạng 99. Trong bảng xếp hạng 50 quốc gia về cạnh tranh xuất khẩu hàng hoá của WTO thì VN có thứ hạng thấp nhất. Trong khi đó các quốc gia dẫn đầu trong khu vực ASEAN lần lượt là Singapore (14), Malaysia (19), Thái Lan (25) và Indonesia (32). 15 Trong báo cáo năm 2014 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho thấy mức độ cải thiện năng suất lao động Việt Nam đang giảm. Giai đoạn 2002 – 2007 năng suất lao động (NSLĐ) của VN tăng 5,2 %/năm nhưng đến năm 2013 thì chỉ còn 3,3%. Điều này là nguyên nhân khiến chỉ số cạnh tranh quốc gia (GCI – Global Competiveness Index) bị giảm liên tục. Năm 2011 VN được xếp thứ 59, năm 2012 xếp thứ 65; năm 2013 xếp thứ 75. Cụ thể hơn, năng lực cạnh tranh của DNNVV trên địa bàn Hà Nội được đánh giá trên các mặt như sau: (1) Năng lực về vốn Hầu hết, các DNNVV trên địa bàn Hà Nội hoạt động trong tình trạng không đủ vốn. Việc tiếp cận nguồn vốn hạn chế đã gây ra tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau, làm lây nhiễm rủi ro giữa các doanh nghiệp. Kết quả khảo sát cho thấy, gần một nửa số DNNVV đang trong tình trạng thiếu vốn. Nguồn vốn bổ sung của DN chủ yếu từ vốn vay ngân hàng nhưng hơn 1/3 số DNNVV cho biết gặp khó khăn khi vay vốn ngân hàng. Tài sản đảm bảo và thủ tục, quy trình vay vốn, giải ngân, thanh toán là những nguyên nhân chính hạn chế khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng với trên 50% DN lựa chọn. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế. Cụ thể, nếu xét trên quy mô vốn, chủ yếu các DN trên địa bàn thành phố Hà Nội là doanh nghiệp nhỏ. Tính đến tháng 9 năm 2016, số DN nhỏ đã lên đến 10.206 DN, tương ứng với 66% tổng số DN trên địa bàn thành phố. Thậm chí, vào năm 2012, có đến 80% số DN của Hà Nội là DN nhỏ. Mặc dù, số DN nhỏ giảm dần qua các năm từ 14.068 DN xuống còn hơn 10 nghìn DN song vẫn chiếm tỷ lệ lớn và số lượng các Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 16 DN siêu nhỏ còn tăng lên từ gần 3000 DN năm 2011 lên đến gần 5000 DN, tương ứng với 31% tổng số DN trên địa bàn thành phố. Trong khi đó, số lượng DN vừa lại giảm đi đáng kể từ 921 DN xuống còn 368 DN trong giai đoạn 20112016 và chỉ chiếm 2%. Tương tự, DN lớn ở Hà Nội cũng giảm 135 DN trong vòng 5 năm và đạt 127 DN tương ứng với 1% tổng số DN. Theo số liệu thống kê 31/12/2016 của Cục Thuế Hà Nội có 86% số doanh nghiệp có vốn Năm Tổng số DN 2011 2012 2013 2014 20152‡‡‡ 18.238 16.092 16.362 16.322 15.405 Bảng 2: Doanh nghiệp mới thành lập xếp hạng theo quy mô1††† (Nguồn Cục thuế Hà Nội 2016) Trong đó Siêu nhỏ Nhỏ Vừa Lớn Tỷ lệ so Số Tỷ lệ so Số Tỷ lệ so Số Số với tổng lượng với tổng lượng với tổng lượng lượng số DN số DN số DN DN DN DN DN 2.987 16% 14.068 77% 921 5% 262 2.502 16% 12.811 80% 624 4% 155 4.287 26% 11.592 71% 384 2% 99 4.823 30% 10.982 67% 399 2% 118 4.704 31% 10.206 66% 368 2% 127 (2) Năng lực công nghệ Sự lạc hậu về công nghệ và kỹ thuật sẽ tạo ra chất lượng sản phẩm thấp, không ổn định và giá thành sản phẩm cao hạn chế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Mặc dù nhiều doanh nghiệp đã đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ nhưng tốc độ đổi mới còn chậm, chưa đồng đều và chưa theo một định hướng phát triển rõ rệt. Cụ thể, - Kết quả khảo sát của Bộ Khoa học và Công nghệ mới đây cho thấy, trình độ khoa học công nghệ và năng lực đổi mới trong DNNVV 1 Tiêu chí tại Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính Phủ Tính đến tháng 9 ††† 2 ‡‡‡ đăng ký dưới 10 tỷ đồng, đa số các doanh nghiệp phải đi vay ngân hàng, việc tự huy động vốn để đầu tư là rất khó khăn, khó tiếp cận nguồn vốn vay do không đủ điều kiện vay hoặc huy động vốn từ thị trường vốn. Tỷ lệ so với tổng số DN 1% 1% 1% 1% 1% của Việt Nam nói chung còn thấp. Số lượng các DN hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ còn rất ít. Số lượng nhà khoa học, chuyên gia làm việc trong các DN chỉ chiếm 0,025% trong tổng số lao động làm việc trong khu vực DN. Khoảng 80 – 90% máy móc và công nghệ sử dụng trong các DN của Việt Nam là nhập khẩu và 76% từ thập niên 1980 – 1990, 75% máy móc và trang thiết bị đã hết khấu hao (Cổng thông tin điện tử Hà nội, 2017). - Phần lớn các DNNVV Hà Nội được trang bị máy móc thiết bị có nguồn gốc từ nhiều Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion nước khác nhau như: Trung Quốc, Liên Xô cũ, Đông Âu, Hàn Quốc, Đài Loan…thuộc các thế hệ khác nhau và lạc hậu so với thế giới 10-20 năm. Trình độ công nghệ lạc hậu làm cho hao phí nguyên, nhiên, vật liệu tăng 1,5 lần so với thế giới, năng suất lao động và chất lượng sản phẩm thấp đã hạn chế năng lực cạnh tranh của DNNVV (Cổng thông tin điện tử Hà nội, 2017). (3) Năng lực quản lý và điều hành Về khả năng quản lý của chủ doanh nghiệp cũng là một điều đáng lo ngại vì đội ngũ chủ doanh nghiệp DNNVV cũng mới được hình thành từ những năm 90 trở lại đây, vì vậy họ còn thiếu kinh nghiệm về nhiều mặt, từ kỹ năng quản lý đến hiểu biết công nghệ và thị trường. Một bộ phận lớn chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa và giám đốc tư nhân chưa được đào tạo bài bản về năng lực quản trị kinh doanh và kỹ năng quản lý, đặc biệt là năng lực quản trị kinh doanh quốc tế. Từ đó dẫn đến khuynh hướng phổ biến là hoạt động quản lý theo kinh nghiệm, thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu kiến thức… Trên địa bàn Hà Nội, mặc dù, có nhiều DN với nhiều loại hình kinh doanh đa dạng, song khả năng thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong DN đặc biệt DNNQD cũng rất khó. Nguyên nhân là do khả năng về tài chính có hạn, dẫn đến hạn chế nhiều mặt từ môi trường làm việc, các chế độ chính sách, phương thức quản lý nên khó thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao vào làm việc. Việc thực hiện chưa đầy đủ các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động đã làm giảm đi chất lượng công việc, do vậy các DN này càng rơi vào vị thế bất lợi trong việc quản lý và thu hút nguồn lao động có chất lượng. Với quy mô nhỏ nên nguồn vốn để đào tạo chuyên môn 17 cho người lao động, đặc biệt là đội ngũ quản lý còn thấp. Hầu hết các DNNVSV không đủ kinh phí để đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động. Các DN này rất khó cạnh tranh đối với các DN lớn khi khả năng quản lý của chủ DN cũng là một điều đáng lo ngại vì đội ngũ chủ DN, nhất là DNNQD cũng mới được phát triển mạnh mẽ từ những năm 90 trở lại đây, vì vậy họ còn thiếu kinh nghiệm về nhiều mặt, từ kỹ năng quản lý đến hiểu biết công nghệ và thị trường. Mặc dù so với các tỉnh và thành phố khác, tỷ lệ chủ DN có trình độ đại học trở lên tại Hà Nội có cao hơn song nhìn chung năng lực và trình độ quản lý trong khối DN này vẫn không đáp ứng được tình hình hiện tại khi khả năng thích nghi với những biến đổi của nền kinh tế thị trường còn thấp. Một bộ phận lớn chủ DN và giám đốc tư nhân chưa được đào tạo bài bản về năng lực quản trị kinh doanh và kỹ năng quản lý, đặc biệt là năng lực quản trị kinh doanh quốc tế. Từ đó dẫn đến khuynh hướng phổ biến là hoạt động quản lý theo kinh nghiệm, thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu kiến thức… (4) Về nhân lực trong các doanh nghiệp Lao động là một lợi thế cạnh tranh của Việt Nam bởi chi phí lao động rẻ, tuy nhiên, năng suất lao động chỉ ở mức thấp, chủ yếu là lao động thủ công, tác phong lao động công nghiệp còn kém, chưa chấp hành tốt các nội quy, quy định của doanh nghiệp. Theo số liệu sơ bộ của cuộc tổng điều tra các cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp năm 2011 trên toàn quốc của Tổng cục thống kê cho thấy, trình độ học vấn và trình độ được đào tạo nghề của người lao động trong các DNNVV là ở mức thấp nhất trong các khu vực doanh nghiệp của nước ta. Trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước mà chủ yếu là các các 18 DNNVV, có tới 85,19% là lao động phổ thông, có trình độ phổ thông trung học và thấp hơn; số lao động là công nhân kỹ thuật có tỷ trọng là 7,73%, số lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp là 3,17% và số lao động có trình độ cao đẳng, đại học là 3,83% trong tổng số lượng lao động làm việc tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Số lượng lao động có trình độ cao (trên đại học) chỉ chiếm tỷ trọng là 0,07% trong các doanh nghiệp này. Tỷ lệ lao động tương ứng ở các doanh nghiệp Nhà nước là 37,92%; 38,09%; 9,23%; 14,55%; 0,21%, còn ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 74,02%; 14,46%; 3,05%; 8,27% và 0,2%. So với doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn cả nước, thì nguồn nhân lực của các DNNVV trên địa bàn Hà Nội được đánh giá là cao hơn. Trong đó, tỷ lệ chủ doanh nghiệp có trình độ trên đại học cao hơn hẳn so với đánh giá chung của DNNVV trên địa bàn cả nước (6% so với 1.34% tính trung bình chung của cả nước). Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực của các DNNVV nói chung vẫn ở trình độ thấp. Nguyên nhân dẫn đến chất lượng lao động trong DNNVV thấp chủ yếu là do quy mô nhỏ nên nguồn vốn đầu tư để đào tạo chuyên môn cho người lao động còn thấp. Hầu hết các DNNVV không đủ kinh phí để đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động. Thêm vào đó, DNNVV còn hạn chế nhiều mặt từ môi trường làm việc, các chế độ chính sách, phương thức quản lý nên khó thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao vào làm việc. Việc thực hiện chưa đầy đủ các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động đã làm giảm đi chất lượng công việc trong khu vực DNNVV, do vậy các DNNVV càng rơi vào vị thế bất lợi. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion (4) Năng lực nghiên cứu thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu Công tác nghiên cứu thị trường còn hạn chế, nhiều thị trường tiềm năng chưa được khai thác. Hoạt động nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp chưa được tổ chức một cách khoa học, chi phí khảo sát thị trường còn rất hạn chế nên hiệu quả không cao. (5) Về chiến lược sản phẩm Các sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam có hàm lượng tri thức và công nghệ thấp, chủ yếu dựa vào lợi thế lao động hoặc điều kiện tự nhiên. Phần lớn các sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam chưa có tính độc đáo, luôn đi sau về kiểu dáng, tính năng, giá trị gia tăng trong sản phẩm, chất lượng sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Thực tế, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa có chiến lược kinh doanh, chưa chú ý đến công tác nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới. (6) Về chiến lược phân phối Hệ thống kênh phân phối của các doanh nghiệp Việt Nam chưa được quan tâm đúng mức nên chưa thiết lập được hệ thống kênh phân phối đến đại lý hoặc người tiêu dùng cuối cùng, phần lớn vẫn áp dụng hình thức phân phối qua các trung gian thương mại do đó chưa kiểm soát được quá trình phân phối và tiêu thụ sản phẩm, chưa nắm bắt trực tiếp những thông tin phản ánh tình hình thị trường từ khách hàng. (7) Về chiến lược quảng cáo và xây dựng thương hiệu Các doanh nghiệp Việt Nam dành chi phí cho quảng cáo còn quá thấp. Chất lượng quảng cáo còn kém do thiếu chuyên gia trong lĩnh vực này. Hình thức quảng cáo của các doanh nghiệp vẫn còn đơn điệu. Việc quảng cáo thông qua các Công ty quảng cáo ở nước ngoài hầu như không được sử dụng do chưa đủ Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion khả năng tài chính. Hầu hết các doanh nghiệp ở Việt Nam chưa xây dựng được các thương hiệu mạnh, chưa khẳng định được uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế. Tóm lại, qua đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của DNNVV trên địa bàn thành phố Hà Nội, có thể tóm tắt lại một số nét chính sau: DNNVV tại thành phố không có lợi thế về vốn, lao động, công nghệ. Thật vậy, các DNNVV trên địa bàn vẫn đang hoạt động trong tình trạng thiếu vốn, nhu cầu vốn bổ sung là khá lớn trong khi khả năng tự đáp ứng vốn chỉ ở mức trung bình. Vốn, nguồn thông tin và cách thức chuyển giao cũng là những rào cản đối với các DN khi đổi mới công nghệ. Bên cạnh đó, chất lượng nguồn nhân lực được các DN đánh giá khá cao. Mặc dù vậy, số lượng các DN có nhu cầu nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực cũng như đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn nhân lực thay thế và bổ sung vẫn chiếm số đông, trong đó việc thiếu nguồn nhân lực được đào tạo nghề là lý do chính yếu. Cuối cùng, mặc dù thị trường tiêu thụ tăng vững chắc, nhưng tình hình sẽ có thể đổi chiều nếu các DNNVV trên địa bàn vẫn tiếp tục bỏ ngỏ công tác nghiên cứu, phát triển sản phẩm mới và xây dựng thương hiệu rõ ràng. 3. Tăng cường năng lực cạnh tranh của DNNVV trên địa bàn Hà Nội Đối với DNNVV Để nâng cao năng lực cạnh tranh, các DNNVV có thể tham khảo các giải pháp sau: - Xây dựng chiến lược phát triển sản phẩm mới, tiết kiệm chi phí sản xuất kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm. Ngoài ra, các DNNVV cũng cần tìm kiếm thị trường mới một 19 khi các thị trường hiện tại đã bão hòa hoặc mức độ cạnh tranh cao. - Xây dựng chính sách huy động vốn. - Xây dựng chiến lược nguồn nhân lực. Để có được đội ngũ lao động có chất lượng, các DNNVV cần tiến hành sắp xếp, bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ quản lý và lao động hiện có dựa trên trình độ, kỹ năng, động lực cũng như tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với DN bằng các chính sách như: đầu tư cho đào tạo, bảo đảm công ăn việc làm ổn định cho người lao động kể cả khi có biến động, xây dựng chế độ tiền lương và thưởng theo hướng khuyến khích người lao động có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của DN. - Xây dựng, củng cố và phát triển thương hiệu. Thực tế hiện nay cho thấy, các DNNVV thường không mấy chú trọng tới chiến lược marketing, thậm chí vẫn còn giữ quan điểm làm marketing có nghĩa là chi tiền để quảng cáo. Nhưng marketing là đầu tư để tạo dựng, định vị thương hiệu và tạo sự khác biệt cho thương hiệu. Chính vì vậy mà khoản tiền chi ra để thực hiện hoạt động marketing là những khoản đầu tư cho hoạt động kinh doanh của DN chứ không phải là chi phí sản xuất. Khi xây dựng thương hiệu, DN phải khơi dậy cảm xúc của khách hàng. Để xây dựng một thương hiệu được khách hàng tin cậy thì DN cần phải hiểu rõ khách hàng của mình hơn ai hết và luôn lấy sự hài lòng của khách hàng làm trọng tâm cho mọi hoạt động. Ngoài ra, trong bối cảnh việc bắt chước, giả mạo thương hiệu và công tác thực thi pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ vẫn chỉ dừng lại ở hình thức xử phạt hành chính, thì DN phải coi việc củng cố và phát triển thương hiệu như 20 là công cụ bảo vệ lợi ích của mình và là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục và lâu dài. Để tuyên truyền mang tính đại chúng cho thương hiệu của mình, các DNNVV có thể thực hiện việc thiết lập một website của riêng DN mình. Thông qua hình thức này, các DNNVV có thể thực hiện việc quảng bá sản phẩm và thương hiệu của DN với chi phí rất phải chăng. - Liên kết trong kinh doanh Do quy mô nhỏ, các DNNVV thường gặp khó khăn trong việc thỏa mãn nhu cầu đa dạng của khách hàng, đặc biệt là cung ứng gói sản phẩm trọn gói. Liên kết ở đây là liên kết trong cung ứng sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, chẳng hạn như liên kết giữa dịch vụ nhà hàng, khách sạn và du lịch, liên kết trong bán chéo sản phẩm. - Xây dựng chiến lược phát triển dài hạn và các kế hoạch ngắn hạn tương ứng Một trong những hạn chế của DNNVV là không xây dựng chiến lược phát triển. Để có thể phát triển ổn định, DN cần có chiến lược phát triển trung và dài hạn, và triển khai bằng các kế hoạch ngắn hạn. Để xây dựng tốt được chiến lược kinh doanh, DN cần phải xác định mục tiêu trong ngắn hạn và dài hạn của mình. - Nâng cao khả năng quản lý và tiếp cận công nghệ thông tin tốt hơn Các DN nhỏ thường là các “doanh nghiệp gia đình” và việc sử dụng NNL gia đình, họ hàng trong quản lý sản xuất, kinh doanh là rất phổ biến. Khả năng chuyên môn trong công tác quản lý DN cần được nâng cao và đặc biệt là khuyến khích các DN này tiếp cận công nghệ thông tin để cập nhật tốt hơn thông tin về thị trường cũng như là các vấn đề pháp lý có liên quan đến DN. Đối với Thành phố Hà Nội Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion + cần hỗ trợ các DNNVSN trên địa bàn TP.Hà Nội trong việc nâng cao năng lực tài chính và quy mô hoạt động. Để làm được điều này, chính quyền thành phố cần xây dựng hệ thống các tổ chức tài chính phục vụ cho nhu cầu về vốn của các DN này. Đồng thời, các DN cũng chủ động tận dụng các chính sách ưu tiên về thuế đang được thành phố thực hiện theo chỉ đạo của Nhà nước. Các DN có thể tiếp cận các nguồn vốn với lãi suất thấp để mở rộng quy mô kinh doanh. Từ đó có cơ hội tập trung phát triển khả năng quản lý của mình một cách có hệ thống và chất lượng hơn. Ngoài ra, với số vốn lớn hơn, các DNNVSN có thể tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo hướng chuyên môn hóa. Nhất là đội ngũ lãnh đạo sẽ có điều kiện để tham gia các lớp tập huấn về kỹ năng quản lý vốn, xây dựng chiến lược kinh doanh, kỹ năng quản trị nguồn nhân lực,…Tuy nhiên, Hà Nội cũng nên hỗ trợ các DN này trong việc chuyển đổi từ DNNVSN sang DN có quy mô lớn hơn. Vì hầu hết các DN này sẽ gặp phải hạn chế về tầm nhìn chiến lược trong phát triển kinh doanh trong dài hạn. Nhiều DN hoạt động rất thành công ở quy mô nhỏ nhưng thất bại ngay khi bước vào giai đoạn mở rộng quy mô. Các DN đều phải xây dựng khả năng phát triển một cách bền vững với phương thức quản lý phù hợp, nếu không sẽ khó đứng vững trong cuộc cạnh tranh gay gắt hiện nay. Ngoài ra, thành phố cũng nên tổ chức nhiều khóa học và phổ biến thông tin rộng rãi hơn đến các DN này. Hỗ trợ về tài chính cho các DNNVSN để tham gia các khóa đào tạo nâng cao năng lực DN do thành phố tổ chức bằng cách xin và sử dụng nguồn viện trợ từ các DN lớn, các hiệp hội, tổ chức và các quỹ khu vực và quốc tế. Đồng thời cũng nên thiết kế các chương trình học mang tính thực hành nhiều hơn, để DN có Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion thể giải quyết các vấn đề khó khăn trong quá trình quản lý của mình. + Thiết lập chiến lược phát triển, mục tiêu, vai trò cho DNNVV trong ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để Hiệp hội DNNVV và các DNNVV trên địa bàn Thành phố có hướng phát triển và nỗ lực tốt hơn. + Thành phố hàng năm tăng cường nguồn cho Quỹ Hỗ trợ Doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp từng bước đổi mới, hiện đại hoá thiết bị, đầu tư chiều sâu phát triển sản xuất. Chỉ đạo các DN rà soát, đánh giá chiến lược kinh doanh, phương án sản xuất. Mặt khác, tăng cường hỗ trợ đào tạo nghề, hỗ trợ tuyển dụng lao động và môi giới lao động cho các DN. + Xúc tiến và khuyến khích thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng trên địa bàn để hỗ trợ phát triển các DNNVV, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khu vực tư nhân được tiếp cận với nguồn vốn tín dụng từ các NHTM thông qua việc bảo lãnh từ Quỹ này. Ngoài ra, cần thúc đẩy sự phát triển thị trường dịch vụ tài chính, từ đó hỗ trợ vốn kịp thời và có hiệu quả cho các DNNVV trên địa bàn. + UBND Thành phố phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ cần xây dựng kế hoạch và bố trí kinh phí hỗ trợ các DNNVV trên địa bàn thực hiện đăng ký và bảo hộ, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO và các tiêu chuẩn quốc tế khác. + Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại. Thành phố phối hợp với các tổ chức của Chính phủ, phi chính phủ và các doanh nghiệp tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại. Ví dụ như Thành phố có thể chủ động thực hiện các đặt hàng với VCCI, các doanh nghiệp đầu tư lớn của Việt Nam để thực hiện các chương trình này. Điểm đặc biệt của 21 các hoạt động này so với các hoạt động xúc tiến thương mại truyền thống là tập trung xây dựng thương hiệu thành phố Hà Nội gắn với các ngành, lĩnh vực thế mạnh đã lựa chọn. - Chính quyền Thành phố tiếp tục thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư, tạo lập và duy trì môi trường kinh doanh thuận lợi. + Tiếp tục đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng, quy hoạch và tạo lập mặt bằng sản xuất. Thành phố cần dành quỹ đất và thực hiện các biện pháp khuyến khích xây dựng các khu, cụm công nghiệp cho các DNNVV làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh hoặc di dời ra khỏi nội thành, nội thị để bảo đảm cảnh quan môi trường. Đồng thời, hỗ trợ các DNNVV có cơ sở sản xuất kinh doanh gây ô nhiễm từng bước di dời khỏi đô thị, khu dân cư. Ngoài ra, hàng năm Thành phố cần thông báo công khai diện tích đất dành cho DNNVV và các khu, cụm công nghiệp DNNVV; tổ chức tư vấn, tháo gỡ khó khăn cho các DNNVV khi tìm kiếm mặt bằng sản xuất kinh doanh. + Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính, thủ tục một cửa. Giải quyết vấn đề này là quá trình lâu dài song cấp bách và thực sự cần thiết. Tài liệu tham khảo: 1. Ambastha and Momaya (2004), Competitiveness of Firms: Review of Theory, Frameworks and Models. 2. Cục thống kê TP. Hà Nội (2017), Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2017. 3. Cục thuế TP. Hà Nội (2015), Báo cáo tình hình quản lý NNT và SXKD của các doanh nghiệp. 4. Flanagan, R., W.Lu, L.Shen, C. Jewell, (2007), Competitiveness in construction: a critical review of research. ConstructionManagement and Economics, Vol. 25(9), pp.989-1000 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 22 5. Hồ Trung Thành, (2012), Nghiên cứu tiêu chí và mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh động cho các doanh nghiệp Ngành Công Thương. Đề tài NCKH cấp Bộ, mã số: 63.11.RD/HĐ-KHCN. 6. Nguyễn Đình Thọ; Nguyễn Thị Mai Trang, (2008), Năng lực cạnh tranh động của doanh nghiệp Việt Nam. Hồ Chí Minh: NXB Thống Kê, trang 153-162. 7. Nguyễn Duy Dũng (2017), Phân tích và đánh giá thực trạng năng lực và trình độ quản lý của doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố Hà Nội. 8. Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam (VCCI) (2016), “Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam 2015 ” 9. Teece, D, (2014), A dynamic capabilities-based entrepreneurial theory of the multinational enterprise, Journal of International Business Studies, 8-37 10. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2015), Năng lực cạnh tranh và công nghệ ở cấp độ doanh nghiệp tại Việt Nam: kết quả điều tra từ các năm 2010-2014, NXB Chính trị quốc gia. Địa chỉ tác giả: Đại học Mỏ - Địa chất
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.