Tài liệu bài giảng " Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục " - Chương 3

pdf
Số trang Tài liệu bài giảng " Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục " - Chương 3 10 Cỡ tệp Tài liệu bài giảng " Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục " - Chương 3 338 KB Lượt tải Tài liệu bài giảng " Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục " - Chương 3 1 Lượt đọc Tài liệu bài giảng " Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục " - Chương 3 5
Đánh giá Tài liệu bài giảng " Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục " - Chương 3
4.6 ( 18 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

CHƯƠNG III. ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU VÀ SOẠN ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU III. 5. ĐỀ TÀI KHOA HỌC KHÁI NIỆM VỀ ĐỀ TÀI KHOA HỌC Khởi đầu tiên của quá trình NCKH là chọn đề tài NC. Đối với người mới bắt đầu bước vào lĩnh vực NCKH, việc xác định đề tài NC là một việc làm rất khó. Ỏ các nước phát triễn thì mọi ngõ ngách của lĩnh vực KHGD đều đã được NC, nhưng ở VN thì hầu như chưa được NC một cách đầy đủ. 3 Đề tài nghiên cứu Đề tài nghiên cứu khoa học là một hình thức tổ chức nghiên cứu khoa học, trong đó có một nhóm người hay, một người thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là tím ra các giải đáp những điều chưa rõ, đem lại cái hoàn thiện hơn, phát hiện qui luật hoặc những kết luận mang tính phổ biến, có thể phát hiện cái mới hoặc cách làm nào đó hợp qui luật hơn. Bản chất của đề tài nghiên cứu khoa học là một vấn đề khoa học có chứa nội dung thông tin chưa biết, cần phải nghiên cứu làm sáng tỏ, là thiếu hụt của lý thuyết hay mâu thuận của thực tiễn đang cản trở, với kiến thức cũ, kinh nghiệm cũ không giải thích được, đòi hỏi người nghiên cứu phải làm rõ. 3 Vấn đề nghiên cứu Việc chọn và phát hiện ra vấn đề nghiên cứu là một việc làm hết sức công phu đòi hỏi người nghiên cứu phải sử dụng tối đa sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình. Các vấn đề nghiên cứu thì thật là phong phú. Nhưng đối với người mới bắt đầu thì tốn nhiều thời gian và công sức. Thuật ngữ “Vấn đề” (trong tiến là tinh Problema là nhiệm vụ) có nghĩa bao hàm là chỉ một tổ hợp những nhiệm vụ nhất định, đòi hỏi người nghiên cứu phải thực hiện giải quyết các nhiệm vụ đó. Sau đây là một số giải thích về vấn đề nghiên cứu: - Vấn đề nghiên cứu thường diễn đạt dưới dạng một câu phát biểu dưới dạng mô tả hay một câu hỏi. Câu hỏi xuất phát từ những mâu thuẫn nhận thức, hành động nảy sinh từ lí luận hay thực tiễn (GD) mà trước đây chưa ai trả lời được. Câu hỏi không phải là một câu hỏi thông thường để người ta trả lời vài ba câu là xong mà Trang 30 là một tình huống, một vấn đề đòi hỏi có thời gian nghiên cứu, quan sát, tìm hiểu... và cuối cùng là một loạt những kết luận được rút ra. Cũng có thể câu hỏi đó đã được giải quyết ở nơi khác, trong điều kiện khác nhưng tại địa phương lại nảy sinh những mâu thuẫn mới cần giải quyết tiếp cho phù hợp điều kiện thực tiễn. Ví dụ đề tài “Hiệu năng giảng dạy của giáo sinh tại trường học sau lúc tốt nghiệp một thời gian.” Mục đích của cuộc nghiên cứu này là đánh giá công tác đào tạo của nhà trường hay hay để tiên đoán mức độ thành công mà một giáo sinh sau khi tốt nghiệp có thể đạt được sau này tại những lớp mà họ sau này giảng dạy. Lĩnh vực nghiên cứu là “hiệu năng giảng dạy”, còn vấn đề nghiên cứu ở đây là “mối tương quan giữa công tác đào tạo và hiệu năng giảng dạy của giáo viên sau tốt nghiệp một thời gian nhật định” - Vấn đề được cấu trúc thành một hệ thống gồm câu hỏi trọng tâm (về bản chất của vấn đề) và những câu hỏi phụ. Kết quả kết quả của giải quyết vấn đề là tìm ra được, hiểu được, mô tả được những điều trước khi nghiên chưa ai biết chính xác. Ví dụ cũng đề tài trên: Các câu hỏi liên quan đến công tác đào tạo: Thế nào là kết quả công tác đào tạo? đánh giá kết quả đào tạo bằng những nội dung gì? Các câu hỏi liên quan đến hiêu năng giảng dạy: Hiêu năng giảng dạy là gì? Đánh giá hiêu năng giảng dạy là đánh giá những cái gì? Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu năng giảng dạy nào? Trong trường hợp này có thể có bốn biến số chính yếu sau: (1) Các biến số liên quan đến nhân cách và lối đào tạo thầy giáo tại trường sư phạm (biến số tiên đoán). (2) Các biến số liên quan đến môi trường học tập và học sinh (biến số phát ngẫu). (3) Các biến số liên quan đến hành vi (ngôn ngữ, phi ngôn ngữ, các hoạt động trong lớp.. của thày và trò (biến số hành vi). (4) Các biến số liên quan đến sự thay đổi hay tiến bộ ở học sinh, được làm tiêu chuẩn đánh giá (biến số tiêu chuẩn). Đặc trưng của vấn đề nghiên cứu: Khi một vấn đề được chon đề làm vấn đề khoa học để nghiên cứu, nó có các đặc điểm sau đây: - Là một sự kiện hay một hiện tượng mới chưa ai biết, một mâu thuận trong hay một vướng mắc cản trở trong lý luận và thực tiễn, mà đáp số của nó chưa có trong những tri thức của xã hội đã tích lũy cần phải làm rõ trong quá trình nghiên cứu. Trang 31 - Bằng các kiến thức cũ không thể giải quyết được, đòi hỏi người nghiên cứu giải quyết. - Vấn đề nếu được giải quyết sẽ cho một thông tin mới có giá trị khoa học hoặc làm cơ sở cho các hoạt động thực tiễn. 3 Mối liên hệ giữa đề tài khoa học với vấn đề nghiên cứu Đề tài khoa học được điễn đạt bằng tên đề tài. Tên, hay tựa đề tài nghiên cứu là tên gọi của vấn đề khoa học mà ta cần nghiên cứu. Tên gọi là cái vỏ bề ngoài, còn vấn đề khoa học (vấn đề nghiên cứu) là nội dung bên trong. Cái vỏ bề ngoài chứa đựng một nội dung, cái vỏ phải phù hợp với nội dung. Tên đề tài phải được trình bày thể hiện rõ nội dung vấn đề nghiên cứu. 6. PHƯƠNG THỨC PHÁT HIỆN ĐẦ TÀI NC Ngoại trừ các đề tài được chỉ định, còn hầu như các đề tài nghiên cứu hay các vấn đề nghiên cứu đều do người nghiên cứu tự phát hiện trong hoạt động thực tiễn hay hoạt động lý luận. Vấn đề luôn tồn tại khách quan. Sau đây là một số phương thức phát hiện ra các vấn đề nghiên cứu trên cơ sở 6 lĩnh vực nghiên cứu ở phần chương trước: (1) Theo dõi các thành tưu nghiên cứu khoa học (2) Nghiên cứu các phương pháp mới, qui trình mới, nguyên lý mới … áp dụng váo thực tiển GD; (3) Nghiên cứu đối tượng củ bằng các phương pháp mới và quan điểm mới với những điều kiện mới; (4) Phân tích và tổng hợp các tài liệu như các tài liệu thống kê, tái liệu điều tra đã xuất bản; (5) Tham khảo các nhà hoạt động khoa học, các nhà nghiên cứu nỏi tiếng trong lĩnh vực chuyên môn; (6) Nghiên cứu trong lĩnh vực chuyên môn của mình; (7) Tìm hiểu về những vấn đề thường tạo nên sự bất mản hay bất đòng ý kiến trong giáo chức… 7. ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỀ TÀI NCKH Một đề tài NCKH có giá trị phải bao gồm các đặc điểm sau đây: 3 Tính mới mẻ Trang 32 - Đề tài có tính mới mẻ là từ trước đến giờ chưa có ai nghiên cứu (được hiểu theo nghĩa tuyệt đối) - Tính mới mẻ theo nghĩa tương đối là phát hiện ra khia cạnh mới, làm sáng tỏ những khía cạnh người nghiên cứu trước chưa làm rõ, chưa đề cập. - Tính mới mẻ mang tính chủ quan đối vớingười NC thể hiện nhiều mặt như: điều kiện mới, hoàn cảnh mới… - Đề tài dẩn đến kết quả NC có đóng góp gì mới. Mức độ đóng góp tùy vào trình độ NC 3 Tính thực tiển của đề tài - Nội dung đề tài phải có thật, xuất phát từ thực tế khách quan - Đề tài phải đáp ứng được yêu cầu của thực tiển, phải gắn với thực tiển. 3 Độ phức tạp và độ khó của đề tài NC - Độ phức tạp của đề taì nghiên cứu thể hiện lĩnh vực nghiên cứu rộng hay hẹp, ở một ngành khao học hay liên ngành khoa học, đối tượng nghiên cứu đồng nhất hay không đồng nhất? - Độ khó của đề tài gắn liền với cá nhân và mang tính chủ quan của người nghiên cứu. Độ phức tạp của đề tài thường có mối quan hệ tương hộ với đội khó của đề tài. Lưu ý: trong NCKH giá trị của đề tài không phụ thuộc vào độ khó và độ phức tạp của nó. Đề tài hẹp chưa chắc là một đề tài kém giá trị. Mỗi đề tài có một phạm vi nhất định, phạm vi càng hẹp thì nghiên cứu càng sâu. Cho nên khi chọn đề tài nghiên cứu, người nghiên cứu phải chọn đề tài vừa sức đối với bản thân mình và có thể giới hạn đề tài lại để giảm độ phức tạp và độ khó. 8. TỰA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU Như đã trình bày ở phần trên, tên, hay tựa đề tài nghiên cứu là tên gọi của vấn đề khoa học mà người nghiên cứu cần nghiên cứu. Tên gọi là cái vỏ bề ngoài, còn vấn đề khoa học là nội dung bên trong. Cái vỏ bề ngoài chứa đựng một nội dung, cái vỏ phải phù hợp với nội dung. Tên đề tài phải được trình bày thể hiện rõ nội dung vấn đề nghiên cứu. Tựa đề tài phải phản ánh cô động nhất nội dung của vấn đề cần nghiên cứu. Về nguyên tắc chung, tựa đề tài phải ít chữ nhất, nhưng chứa đựng một lượng Trang 33 thông tin cao nhất. Về mặt kết cấu tựa đề tài có thể theo một trong những cách như sau: - Đối tượng nghiên cứu - Giải thuyết nghiên cưu - Mục tiêu (nhiệm vụ) + Phương tiện - Mục tiêu + Môi trường - Mục tiêu + phương tiện + Môi trường Sau đây là một số ví dụ: Thành phần cấu trúc tựa đề tài Ví dụ NC Đối tượng nghiên cứu Hướng nghiệp học sinh trung học phổ thông Gải thuyết nghiên cứu Ca huế là một dòng âm nhạc cổ điển Mục tiêu NC Ứng dụng phương thức đào tạo theo hành năng vào đào tạo nghề ngắn hạn Mục tiêu NC + Môi trường Khảo sát thực trạng về hướng nghiệp ở tỉnh Đồng tháp Mục tiêu NC + Phương tiện Quản lý dạy thực hành dưới tiếp cận phương thức đào tạo năng lực thực hiện Mục tiêu NC + Phương tiện + Quản lý dạy thực hành dưới tiếp cận phương thức Môi trường đào tạo năng lực thực hiện ở trường cao đẳng SPKT Nam Định. Một số lưu ý khi duyệt tựa đề tài: √ Thứ nhất, tên đề tài không sự dụng các cụm từ có độ bất định cao về thông tin. Ví dụ: - Thử bàn về..... - Một số giải pháp ...; Một vài suy nghỉ về... - Một số vấn đề vê... √ Thứ hai, cũng cần hạn chế các cụm từ chỉ mục đích để đặt tên đề tài. Ví dụ: - (...) nhằm nâng cao chất lượng .... - (..) để phát triển năng lực sư phạm. - (...) góp phần vào... Trang 34 √ Thứ ba, không nên diễn đạt quá dễ dãi, không đòi hỏi tư duy sau sắc, kiểu như: - Đội ngũ giáo viên dạy nghề - thực trạng, nguyên nhân và giải pháp. - Hội nhập – Thời cơ và thách thức. Khi xét duyệt đề tài ngoài các yếu tố cần xem xét như ở trên đã trình bày, cần phải xem xét sự hợp lý của việc sự dụng phương pháp nghiên cứu tìm hiểu đối tượng nghiên cứu và trên khách thể NC không. IV. ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Khi bắt tay vào nghiên cứu một đề tài khoa học thì thao tác rất quan trọng là phải xây dựng cho được đề cương nghiên cứu. Đề cương nghiên cứu là một văn bản dự kiến các bước đi và nội dung của công trình nghiên cứu. Với những đề tài có tính chất làm kết quả đánh giá một trình độ đào tạo (luận văn, đồ án, lậun án) hay kết thúc một môn học (tiểu luận) thì đề cương nghiên cứu gồm các mục sau đây: Tựa đề tài nghiên cứu: xem cấu trúc và yêu cầu ở phần trước. 9. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Lý do chọn đề tài hay còn gọi tính cấp thiết của đề tài. Phần này yêu cầu người nghiên cứu phải trình bày rõ ràng, tường minh những lý do khách quan và chủ quan nào khiến cho người nghiên cứu chọn vấn đề đó để nghiên cứu. Phải làm rõ những lý do này là cấp thiết đối với lý luận và là một đòi hỏi của thực tiễn. 10. MỤC TIÊU NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Mỗi đề tài tùy theo phạm vi nghiên cứu mà người nghiên cứu cần phải xác định rõ mục tiêu nghiên cứu hoặc một hệ thống mục tiêu nghiên cứu. Nhiệm vụ nghiên cứu là mục tiêu cụ thể mà đề tài phải thực hiện. Mục tiêu nghiên cứu là cái đích mà người nghiên cứu mà người nghiên cứu vạch ra để thực hiện, để định hướng những nỗ lực nghiên cứu trong quá trình tìm kiếm. Nó là những dẫn hướng bước đi chiến lược của công trình nghiên cứu đạt tới kết quả cuối cùng. Mục tiêu nghiên cứu tập trung trả lời các câu hỏi của vấn đề nghiên cứu. Ví dụ đề tài “Thực trạng và hướng đổi mới nâng cao trình độ đào tạo và bồi dưỡng giáo viên dạy kỹ thuật trong các trường ĐHSPKT”. Với đề tài nghiên cứu này các câu hỏi cần phải được trả lời là: (1) Thế nào là trình độ đào tạo và bồi dưỡng? Æ Mục tiêu nghiên cứu: phân tích xác định khái niệm về trình độ. Trang 35 (2) Nó đang như thế nào? Æ Mục tiêu nghiên cưu: mô tả phân tích thực trạng. (3) Tại sao phải đổi mới? Æ Mục tiêu nghiên cứu: so sánh với các yêu cầu thực tế để tím ra những mặt hạn chế cần phải khắc phục. (4) Đổi mới những cái gì và như thế nào? Æ Nghiên cứu đề xuất. 11. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Thế giới khách quan là đối tượng duy nhất của nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên thế giới khách quan vô cùng rộng lớn, mỗi lĩnh vực khoa học phải chọn cho mình một bộ phận, một phần nào đó để tập trung khám phá tìm tòi, đó chính là thao tác xác định khách thể nghiên cứu. Không phải khách thể nghiên cứu được xem xét một cách toàn diện mọi khía cạnh, mò nó được giới hạn trong phạm vi nghiên cứu nhất định về qui mô, không gian, khu vực hành chính và thời gian. Trong cái khách thể rộng lớn đó, mỗi đề tài cụ thể lại phải chọn cho mình một mặt, một thuộc tính, một quan hệ của khách thể để nghiên cứu. Bộ phận đó chính là đối tượng nghiên cứu. Mổi vấn đề nfhiên cứu có một đối tượng nghiên cứu. Như vậy, xác định đối tượng nghiên cứu là xác định cái trung tâm cần khám phá, tìm tòi của đề tài nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu là một sự vật, hiện tượng hoặc một mối quan hệ được chọn để tìm tòi nghiên cứu. Thông thường được xác định trên cơ sở của vấn đề nghiêng cứu hay mục tiêu nghiên cứu. Khách thể và đối tượng nghiên cứu là hai khái niệm có mối quan hệ như loài và giống, chúng có thể chuyển hóa cho nhau. Khách thể của đề tài nhỏ có thể là đối tượng nghiên cứu của đề tài lớn hơn và ngược lại đối tượng nghiên cứ của đề tài lớn là khách thể của đề tài nhỏ hơn. 12. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU Trức khi bắt tay vào việc nghiên cứu tìm tòi, người nghiên cứu thường phải đặt giải thuyết để định hướng cho việc tìm tòi các giải pháp vấn đề, những luận cứ, dữ liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Định nghĩa và bản chất của giả thuyết khoa học Trang 36 Giài thuyết là một sự phỏng đoán, một sự khẳng định tạm thời, bao gồm mối quan hệ giữa hai hay nhiều biến (variable) tham gia trực tiếp vào trong đối tượng muốn nghiên cứu. Xét mối quan hệ giữa giả thuyết nghiên cứu và với vấn đề khoa học (vấn đề nghiên cứu), thì nếu như vấn đề khoa học là “câu hỏi” thì giả thuyết chính là “câu trả lời” Một giả thuyết là một phát biểu tạm thời, có thể đúng, về hiện tượng mà người nghiên cứu đang muốn tìm hiểu. Nhưng dù sao giả thuyết cũng vẫn chỉ là một điều ước đoán, còn cần phải kiểm nghiệm để chấp nhận hay bác bỏ. Nhiệm vụ của nghiên cứu là thu thập dự liệu, luận cứ để chứng minh hoặc bác bỏ giả thuyết đó. Nhưng nếu như không có giả thuyết trong nghiên cứu khoa học, thì công trình nhiều nghiên cứu chẳng qua là sự tích lũy các những thông tin rời rạc. Trong một đề tài nghiên cứu có thể có nhiều giả thuyết khác nhau. Mỗi giả thuyết được nghiên cứu riêng rẽ và chứng minh bằng các dữ liệu, luận cứ thu thập được trong từng trường hợp. Trước một vấn đề nghiên cứu không bao giờ chỉ tồn tại một câu trả lời duy nhất. Chính vì vậy giả thuyết nghiên cứu có tính đa phương án trước một vấn đề nghiên cứu. Phân loại giả thuyết khoa học: Người nghiên cứu cần căn cứ vào bản chất của vấn đề nghiên cứu để đưa ra giả thuyết phù hợp. Theo chức năng của nghiên cứu khoa học, giả thuyết được phân chia thành các laọi già thuyết mô tả, giả thuyết giải thích, giả thuyết dự báo và già thuyết dự báo. - Giả thuyết mô tả, áp dụng trong nghiên cứu mô tả, là giả thuyết về về trạng thái sự vật. - Giả thuyết giải thích, áp dụng trong nghiên cứu giải thích, là giả thuyết về nguyên nhân dẫn đến một trạng thái sự vật mà người nghiên cứu quan tâm. - Giả thuyết giải pháp, áp dụng trong các nghiên cứu về giải pháp. Đó là các phương án giả định về một giải pháp hoặc một mô hình mẫu. - Giả thuyết dự báo, áp dụng trong các nghiên cứu về dự báo, là giả thuyết về trạng thái của sự vật tại một thời điểm hoặc một khoảng thời gian nào đó trong tương lai. Trang 37 13. PHƯƠNG PHÁP Khi đã xác định rõ mục tiêu, đối tượng và giả thuyết nghiên cứu thì tiếp đến là người nghiên cứu xác định phương pháp nghiên cứu. Việc lựa chọn phương pháp được coi như là tìm kiếm công cụ để đạt tới mục tiêu. Phương pháp nghiên cứu do mục tiêu và đối tượng nghiên cứu quyết định. Để tiến hành nghiên cứu một công trình khoa học, người nghiên cứu phải sử dụng hợp lý các phương pháp nghiên cứu. Các phương pháp được sử dụng hợp lý, phù hợp với đề tài sẽ đảm bảo cho công trình nghiên cứu đạt kết quả. Cho nên trong đề cương nghiên cứu, người nghiên cứu phải trình bày các phương pháp dự kiến sử dụng, các ý đồ và kỹ thuật sử dụng chúng tương ứng với các mục tiêu nghiên cứu. 14. DÀN Ý NỘI DUNG CÔNG TRÌNH Đề cương nghiên cứu khoa học yêu cầu phải trình bày một dàn ý nội dung dự kiến của công trình. Để làm được việc này, người nghiên cứu nhiều tài liệu tham khảo và đồng thời có khả năng tượng tượng sáng tạo. Dàn ý nội dung tùy theo đặc thù của vấn đề nghiên cứu mà có một cấu trúc phù hợp. 15. TÀI LIỆU THAM KHẢO Người nghiên cứu phải trình bày rõ các tài liệu tham khảo đã đọc để xây dựng đề cương. Các tài liệu được liết kê có chọn lọc phù hợp với phạm vi của đề tài nghiên cứu. 16. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU Kế hoạch nghiên cứu là kế hoạch về các công việc cần phải thực hiện để hoàn thành công trình nghiên cứu trong một tòi gian nhất định. Tùy theo khoảng thời gian phải hoàn thành công trinh nghiên cứu, người nghiên cứu có thể lấy đơn vị thời gian trong kế hoạch là tuàn, tháng hoặc quí. CÂU HỎI THẢO LUẬN VÀ ÔN TẬP 1. Đề tài khoa học là gì? 2. Vấn đề nghiên cứu là gì? Hãy lấy một ví dụ một đề tài nghiên cứu và trình bày rõ vấn đề nghiên cứu của đề tài đó. 3. Hãy trình bày các phương thức phát hiện đề tài nghiên cứu (vấn đề nghiên cứu)! Trang 38 4. Hãy giải thích các đặc điểm của một đề tài nghiên cứu khoa học! 5. Tựa đề tài nghiên cứ khoa học thường được diễn đạt như thế nào? Hãy cho ví dụ! 6. Cấu trúc đề cương nghiên cứu gồm những mục nào? Hãy giải thích nội dung các mục đó! 7. Thế nào là giả thuyết khoa học? Giả thuyết khoa học gồm những loại nào? CHƯƠNG IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIÁO DỤC IV.NHỮNG CƠ SỞ CHUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 4. ĐỊNH NGHĨA Theo nghĩa chung thì phương pháp là con đường đạt mục tiêu, là cách thức giải quyết một công việc cụ thể. NCKH cũng vậy, nó có một hệ thống các phương pháp riêng. Nhà khoa học phải nắm vững bản chất và biết cách sử dụng các phương pháp để tiến hành hoạt động nghiên cứu của mình có kết quả. Phương pháp NCKH là tổ hợp các thao tác, biện pháp thực tiễn hoặc lí thuyết mà nhà khoa học sử dụng để nhận thức, khám phá đối tượng, tạo ra hệ thống những kiến thức về đối tượng. 5. ĐẶC TRƯNG CỦA PHƯƠNG PHÁP NCKH 9 (a) Phương pháp là cách thức làm việc của chủ thể do chủ thể lựa chọn. Phương pháp bị quy định bởi trình độ nhận thức và kinh nghiệm đã có của chủ thể. Do đó, phương pháp mang tính chủ quan. Mặt chủ quan của phương pháp thể hiện bởi năng lực, kinh nghiệm của chủ thể. Trong NCKH, các nhà khoa học phải có trình độ trí tuệ cao, khả năng lớn và một kinh nghiệm dày dạn. (b) Phương pháp có tính mục tiêu: Mọi hoạt động đều có tiêu hướng đến, mục tiêu công việc chỉ dẫn việc lựa chọn phương pháp. Phương pháp càng chính xác càng sáng tạo làm cho công việc đạt tới kết quả nhanh, chất lượng tốt. Mục tiêu của đề tài nghiên cứu khoa học chỉ đạo việc lựa chọn phương pháp nghiên cứu. Phương pháp NCKH gắn bó liền với mục đích sáng tạo khoa học. (c) Phương pháp gắn chặt với nội dung của vấn đề nghiên cứu: 9 Phạm Viết Vượng: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà nội, năm 1997. Trang 39
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.