Sự khác biệt cơ bản giữa học theo niên chế và học theo tín chỉ - ThS. Phạm Xuân Thu

pdf
Số trang Sự khác biệt cơ bản giữa học theo niên chế và học theo tín chỉ - ThS. Phạm Xuân Thu 9 Cỡ tệp Sự khác biệt cơ bản giữa học theo niên chế và học theo tín chỉ - ThS. Phạm Xuân Thu 212 KB Lượt tải Sự khác biệt cơ bản giữa học theo niên chế và học theo tín chỉ - ThS. Phạm Xuân Thu 0 Lượt đọc Sự khác biệt cơ bản giữa học theo niên chế và học theo tín chỉ - ThS. Phạm Xuân Thu 10
Đánh giá Sự khác biệt cơ bản giữa học theo niên chế và học theo tín chỉ - ThS. Phạm Xuân Thu
4 ( 13 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

SỰ KHÁC BIỆT CƠ BẢN GIỮA HỌC THEO NIÊN CHẾ VÀ HỌC THEO TÍN CHỈ ThS. Phạm Xuân Thu 1. Đặt vấn đề: Cho đến nay hình thức đào tạo theo tín chỉ đã được triển khai và áp dụng trong gần 50 trường trong cả nước. Vào thời điểm này việc dạy và học theo hình thức đào tạo tín tín chỉ là gần như bắt buộc đối với các trường đại học và cao đẳng trên cả nước theo nghị quyết số 37/2004/QH11 khóa XI, kỳ họp thứ sáu của Quốc hội về giáo dục và Quy chế số 43/2007/QĐ-BGD&ĐT của Bộ giáo dục và Đào tạo về đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ. Mặc dù việc học theo hình thức đào tạo tín chỉ ở Việt Nam được thực hiện lần đầu tiên ở trường Đại học Bách khoa Tp.HCM vào năm học 1993-1994 và thực hiện rộng rãi ở các trường đại học và cao đẳng trong cả nước sau Quy chế 43 của Bộ Giáo dục và đào tạo vào năm 2007 nhưng cho đến nay việc áp dụng hình thức học tập này vẫn còn nhiều lung túng tại các trường và nhiều sinh viên vẫn chưa thật sự nắm bắt ý nghĩa của nó so với hình thức đào tạo theo niên chế dẫn đến chưa vận dụng hết những ưu điểm mà hình thức học theo tín chỉ mang lại. Tại Trường Cao đẳng kinh tế đối ngoại, hình thức học tập tín chỉ đã được áp dụng đầu tiên tại Khoa Tài chánh kế toán từ năm 2009 nhưng vẫn có có một số khó khăn trong quá trình thực hiện. Trong khuôn khổ nội dung của bài viết này sẽ cố gắng trình bày sự khác nhau giữa hai hình thức học tập theo tín chỉ và học theo niên chế nhằm giúp cho sinh viên và giảng viên nắm bắt nhanh nhất và tạo cơ sở cho việc áp dụng hình thức học tập theo tín chỉ cho tất cả các khoa tại trường Cao đẳng kinh tế đối ngoại trong thời gian sắp tới. 2. Các khái niệm: Trước hết cần phải nắm rõ các khái niệm của việc học và đào tạo theo hai hình thức niên chế và tín chỉ làm cơ sở cho việc phân biệt các chương trình và nội dung của hai hình thức này. Trong bài viết chỉ mong muốn trình bày ngắn gon nhất các khái niệm giữa hai hình thức giúp phân biệt những điểm khác biệt cơ bản. Học theo niên chế: là học theo đơn vị là năm học, mỗi chương trình học của một ngành học được quy định học trong một số năm nhất định. Sinh viên phải hoàn thành một số lượng kiến thức ấn định bắt buộc trong năm học đó, các khối kiến thức học được bố trí theo một tỷ lệ nhất định với đơn vị đo là đơn vị học trình. Ví dụ chương trình học trình độ đại học được cấp bằng cử nhân thường thời gian tham gia học tập trong 4 năm, cấp bằng kỹ sư được trong 5 năm, cấp bằng bác sỹ chương trình trong 6 năm. Sinh viên học hết thời gian quy định nếu không bị lưu ban, dừng tiến độ học tập thì được cấp bằng tốt nghiệp đại học, được ra trường. Học theo tín chỉ: Tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của một người học bình thường để học một môn học cụ thể, bao gồm (1) thời gian lên lớp; (2) thời gian ở trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các phần việc khác đã được quy định ở thời khóa biểu; và (3) thời gian dành cho đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài...;. Đào tạo theo tín chỉ không tổ chức theo năm học mà theo học kỳ. Một năm học có thể tổ chức đào tạo từ 2 đến 3 học kỳ, mỗi chương trình đào tạo của một ngành học nhất định không tính theo năm mà tính theo sự tích lũy kiến thức của sinh viên, sinh viên tích lũy đủ số tín chỉ quy định cho một ngành học thì được cấp bằng tốt nghiệp đại học, được ra trường. Với các khái niệm cơ bản trên, có thể thấy rằng sự khác nhau cơ bản giữ hai hình thức học tập tập trung các nội dung sau: (1) Tôn chỉ/ tiêu chí học tập; (2) Chương trình học; (3) Phương pháp đánh giá kết quả học tập; (4) Phương pháp học. Dựa vào việc phân tích các nội dung này sẽ giúp sinh viên, giảng viên thấy rõ sự khác biệt nhờ đó sẽ có phương pháp học tập và giảng dạy thích hợp khi triển khai đào tạo tín chỉ toàn trường trong năm học tới. 3. Sự khác biệt cơ bản giữa hai hình thức học tập: Nội dung của phần này sẽ tập trung vào với so sánh hai hình thức học tập theo niên chế và học theo tín chỉ dựa trên các nội dung đã nêu ở phần 2. Sử dụng phương pháp lập bảng so sánh có phân tích sự nhằm làm rõ khác biệt giữa hai hình thức học tập. Niên chế Tín chỉ 3.1 Tôn chỉ/tiêu chí: - Người dạy học là trung tâm, người học - Người học là trung tâm của quá trình xoay quanh quỹ đạo của người dạy; đào tạo;  Chương trình học, thời gian, tiến độ và  Chương trình học linh hoạt hơn, sinh nội dung thường được ấn định sẳn, viên có thể chủ động trong việc sắp sinh viên thường bị động; thời gian, tự đăng ký lịch học và số môn học cho một kỳ;  Sinh viên tham gia với vai trò bị động;  Sinh viên chủ động tham gia vào môi trường cộng tác dạy - học;  Sinh viên chấp hành tốt các lịch học,  Sinh viên phải chủ động nghiên cứu lịch thi, các quy định, quy chế của nhà kỹ, nắm chắc các tài liệu của nhà trường, tích cực học tập và rèn luyện trường, nắm vững chương trình đào thì sẽ đạt kết quả tốt; tạo, các học phần phải học trước, các học phần học song hành, phần kiến thức giáo dục đại cương, phần kiến thức giáo dục chuyên nghiệp…  Khuyến khích tự học nhưng không phải là một phần bắt buộc theo quy  Tự học là một thành phần hợp pháp trong cơ cấu giờ học của sinh viên; định; 3.2 Chương trình học: - Tổ chức theo năm học; - Tổ chức theo học kỳ; - Một năm học có 2 học kỳ; - Một năm học có thể 2 hoặc 3 học kỳ; - Chương trình học được thiết kế theo - Cấu trúc mô đun, thành những học năm học và ít biến động; phần; lịch trình thực hiện chính xác; - Sinh viên phải hoàn thành nội dung học - Sinh viên tích lũy kiến thức theo học đã được ấn định theo năm học; phần, tích lũy số tín chỉ theo học kỳ; Niên chế Tín chỉ - Sinh viên rất khó được xét để học trước - Cho phép sinh viên đăng ký học vượt kỳ hạn dù điều kiện và năng lực tốt; - Đơn vị đo lường khối lượng học tập của số tín chỉ của một học kỳ nếu có khả năng; sinh viên là đơn vị học trình (đvht) - Đơn vị đo lường khối lượng học tập là tương đương với 15 tiết học lý thuyết ở tín chỉ (TC), 1 tín chỉ tương đương với trên lớp, 30 giờ thực hành thí 15 tiết giảng lý thuyết, 30 giờ thực hành nghiệm…; thí nghiệm… - Một tiết học được tính bằng 45 phút; - Một tiết học được tính bằng 50 phút; - Mỗi năm sinh viên cao đẳng, đại học - Mỗi học kỳ sinh viên phải tích lũy phải tích lũy khoảng 50 (đvht); tương đương 15 tín chỉ; - Chương trình đại học thực hiện trong 4 - Chương trình đại học thực hiện trong 4 năm tương đương với 200 (đvht); năm tương đương 120 tín chỉ; chương chương trình cao đẳng tương đương trình cao đẳng tương đương 90 tín chỉ; 150 (đvht); - Chương trình học trên lớp dài hơn so - Chương trình học trên lớp được rút với học theo tín chỉ; ngắn khoảng 1/3 so với niên chế; - Liên thông theo ngành học, chuyên - Dễ liên thông và chuyển đổi trường, ngành; khó liên thông ngành khác, ngành khác nhau từ tín chỉ đã tích lũy; trường khác; - Khuyến khích tự học nhưng không bắt - Việc tự học tại nhà là bắt buộc theo buộc (về mặt quy chế); chương trình; - Sinh viên phải học theo từng năm và - Việc công nhận năm học sinh viên được công nhận theo từng năm theo theo: chương trình quy định.  SV măm I: tích lũy dưới 30 TC;  SV năm II: từ 30 đến dưới 60 TC;  SV năm II: từ 60 đến dưới 90 TC;  SV năm II: từ 90 đến dưới 120 TC; Niên chế Tín chỉ 3.3 Phương pháp đánh giá kết quả học tập: - Kết quả được đánh giá theo năm học - Kết quả học tập được đánh giá theo học với số đơn vị học trình được quy định kỳ và theo số tín chỉ được tích lũy; sẳn; - Có ít môn tự chọn; - Có nhiều môn tự chọn; - Hoàn thành số đơn vị học trình (Di) bắt - Hoàn thành số tín chỉ (Ci) tích lũy tối buộc cho từng ngành học: đại học thiểu quy định cho từng học kỳ (tối thiểu tương đương với 200 (đvht); chương 10 TC); SV đại học tích lũy đủ khoảng trình cao đẳng tương đương 150 (đvht); 120 TC và cao đẳng khoảng 90 TC; - Thang điểm đánh giá: 10; - Thang điểm đánh giá: 4; - Cách đánh giá từng môn (Pi): - Cách đánh giá từng môn (Pi):  Theo thang điểm 10;  Quy đổi thang 4 từ thang điểm 10: F (dưới 4,0); D (4,0 - 5,4); C (5,5 - 6,9): B (7,0 - 8,4); (8,5 - 10): Giỏi.  Điểm không đạt: < 5 điểm;  Điểm không đạt: F;  Điểm đạt: ≥ 5 điểm;  Điểm đạt: < D, C, B và A; - Cách dánh giá tổng kết:  Theo kỳ/năm học: - Cách đánh giá tổng kết:  Theo học kỳ: Điểm TB chung học kỳ/năm học; Điểm TB chung học kỳ ; ĐTBHK(ĐTBNH)= (Di x Pi)/Di ĐTBCHK = (Ci x Pi)/Ci [3]; [1]; Tính cả điểm không đạt (Pi<4); Tính cả điểm không đạt (Pi = F=0); Sử dụng xếp hạng theo học kỳ, năm Sử dụng xếp hạng theo học kỳ, tính học, liên quan đến việc tính học điểm học bổng trong kỳ; bổng, được học tiếp, ngừng học để cải thiện điểm;  Điểm tổng kết các năm học và cuối khóa:  Điểm tổng kết theo số kỳ: Niên chế Tín chỉ Điểm trung bình chung; ĐTBC = = (Di Điểm trung bình chung tích lũy; x Pi)/Di [2] Điểm tổng kết các năm tính cả điểm không đạt; điểm tổng kết cuối khóa ĐTBCTL = (Di x Pi)/Di [4]; Không tính: điểm không đạt và điểm của môn tự chọn vượt quá số môn quy định ; thì tất cả các môn phải đạt. Được sử dụng để xét học tiếp, ngừng Được sử dụng tính điểm tổng kết các học, xét cho thi tốt nghiệp, xét tốt kỳ liên quan đến việc được học, được nghiệp; đăng ký học phần hay bị ngưng học; - Phân hạng, xếp loại:  Theo học kỳ/năm học (tính [1]): - Phân hạng, xếp loại :  Theo kỳ học (tính [3]): Điểm dưới 4:Kém  Không đạt Từ 1,0 dưới 2,00: Yếu Từ 4 đến cận 5:Yếu không đạt Từ 2,00 đến 2,49: Trung bình; Từ 5 đến cận 6:Trung bình; Từ 2,50 đến 3,19: Khá: Từ 6 đến cận 7:Trung bình khá Từ 3,20 đến 3,5:: Giỏi: Từ 7 đến cận 8:Khá Từ 3,60 đến 4,00: Xuất sắc: Từ 8 đến cận 9:Giỏi Từ 9 đến 10: Xuất sắc  Tổng kết chương trình học (tính [2]): Xếp hạng tương tự như trên;  Điểm tổng kết theo số kỳ (tính [4]): Xếp hạng tương tự như trên; Giảm một mức nếu tổng lượng của các học phần phải thi lại vượt quá 5% so với tổng số tín chỉ; - Điều kiện học tiếp năm sau: Đạt cả - Điều kiện học tiếp: Đạt các yêu cầu hai: sau:  ĐTBCHK< 2: chỉ được đăng ký 14 tín Niên chế  ĐTBC của năm học từ 5,00 trở lên;  Và có khối lượng các học phần bị điểm dưới 5 tính từ đầu khoá học Tín chỉ chỉ cho mỗi học kỳ;  Và không bị buộc thôi học theo điều kiện Buộc thôi học; không quá 25 đơn vị học trình; - Buộc thôi học (Theo ĐTBC [2]):  ĐTBC của năm học dưới 3,50; - Buộc thôi học (Theo [3] và [4]):  ĐTBCHK < 0,80 với học kỳ đầu của khóa; < 1,00 đối với các học kỳ tiếp theo hoặc < 1,10 đối với 2 học kỳ liên tiếp;  ĐTBC tính từ đầu khoá học dưới 4,00  ĐTBCTL< 1,20 với SV năm thứ nhất; sau hai năm học; dưới 4,50 sau 3 năm dưới 1,40 đối với sinh viên năm thứ học và dưới 4,80 sau từ 4 năm học; hai; dưới 1,60 đối với sinh viên năm thứ ba hoặc dưới 1,80 đối với sinh viên các năm tiếp theo và cuối khoá; 3.4 Phương pháp học tập: - Sinh cần chấp hành tốt các quy định đã - Sinh viên phải chủ động nghiên cứu kỹ, đề ra từ đầu chương trình, các yêu cầu nắm chắc các tài liệu của nhà trường của trường, khoa, giảng viên; tuân thủ như quyển niên giám, sổ tay sinh viên, đúng cá quy định về lên lớp và giờ nắm vững chương trình đào tạo, các giảng; học phần phải học trước, các học phần học song hành, phần kiến thức giáo dục đại cương, phần kiến thức giáo dục chuyên nghiệp… - Tham khảo giảng viên chủ nhiệm lớp - Sinh viên nên tham khảo kỹ càng các tại các buổi hợp lớp hàng tháng. Tuy buổi hướng dẫn về quy định, quy chế, niên, vai trò chủ nhiệm thường không cách thức bố trí các môn học cũng như rõ nét; cần thường xuyên gặp gỡ cố vấn học Niên chế Tín chỉ tập; - Khả năng tự học chịu ảnh hưởng trực - Tự học, tự nghiên cứu, giảm sự nhồi tiếp của chương trình, khoa và giảng nhét kiến thức của người dạy, phát huy viên giảng dạy trên lớp; được tính chủ động, sáng tạo của người học; - Theo chương trình quy định khung có - Tự chọn chương trình học theo khối sẳn của trường, khoa, của bộ môn từ kiến thức chung và kiến thức chuyên đầu năm học về chuyên ngành học; ngành của trường; - Thường phải hoàn thành chương trình - Có thể hoàn thành chương trình bằng học theo số năm quy định, có thể kéo cách tích lũy tín để được cấp bằng tùy dài nhưng rất khó rút ngắn; theo khả năng và nguồn lực (thời lực, tài lực, sức khỏe, v.v.) của cá nhân; - Do số môn tự chọn ít và thướng theo - Có thể lựa chọn các môn tự chọn theo quy định thuận tiện cho quản lý của khuynh hướng nhà tuyển dụng…. khoa, trường nên khó chọn lựa môn học theo thực tế của nhà tuyển dụng; - Sinh viên cùng một lớp học có chung - Mỗi sinh viên đều có thời khóa biểu thời khóa biểu, được quy định cụ riêng, không theo một quy luật nào cả thể.v.v.; v.v - Tổ chức lớp học chặt chẽ, sinh viên có - Tổ chức lớp học bị phá vỡ và sinh viên thể vận dụng vào sự sắp xếp của cán sự hoàn toàn chủ động trong cách học lớp về thời gian học, cách học các môn; cũng như thời gian học; Kết luận Qua phân tích sự khác biệt cơ bản giữa hai hình thức học theo niên chế và học theo tín chỉ cho thấy việc đào tạo theo tín chỉ là xu hướng bắt buộc, do đó để học tốt theo hình thức tín chỉ, sinh viên cần đảm bảo thực hiện: - Tham gia đấy đủ các buổi hướng dẫn và tập huấn về hình thức học theo tín chỉ; - Nghiên cứu kỹ và nắm chắc các tài liệu của nhà trường như quyển niên giám, sổ tay sinh viên, nắm vững chương trình đào tạo, các học phần phải học trước, các học phần học song hành, phần kiến thức giáo dục đại cương, phần kiến thức giáo dục chuyên nghiệp…; - Nghiên cứu kỹ các khác biệt trong đánh giá giữa học theo tín chỉ và học theo niên chế để tránh chủ quan dẫn đến việc ngừng học; - Xem việc học là việc quan trọng của cá nhân, cần chủ động trong việc theo dõi thời khóa biểu các học phần, chủ động chọn và thiết kế thời lượng, số môn học trong kỳ học dưới sự tư vấn và hướng dẫn của các tư vấn viên học tập; - Trong đào tạo theo tín chỉ, đối với sinh viên tự học là vấn đề quan trọng nhất, sinh viên phải tự học ngay trên lớp, lên lớp là làm việc thực sự (chứ không phải đi nghe giảng, dự giờ). Muốn tự học trên lớp có hiệu quả sinh viên phải tự đọc tài liệu trước, không chỉ đọc giáo trình mà phải đọc tài liệu có liên quan, không phải đọc cả quyển tài liệu mà chỉ đọc những vấn đề trực tiếp liên quan đến bài giảng. Các vấn đề liên quan đều phải được đánh dấu lại, ghi chép lại hoặc có chỉ dẫn rõ ràng để khi cần lập tức có thể tra cứu được ngay. - Sinh viên học ở trên lớp phải chịu khó ghi chép, hăng hái phát biểu, tích cực tìm hiểu, phấn khởi khi được giảng viên kiểm tra, vấn đề gì chưa rõ phải hỏi giảng viên cho rõ, nếu vẫn chưa hiểu thì trao đổi lại với nhóm học tập (thảo luận nhóm). Thảo luận nhóm là hình thức rất quan trọng, qua thảo luận nhóm sinh viên phát hiện những vấn đề mình còn thiếu hụt để tự bổ sung. Những vấn đề đã nắm bắt được qua thảo luận nhóm cũng được khẳng định.
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.