Sự hình thành và phát triển của tiền tệ

doc
Số trang Sự hình thành và phát triển của tiền tệ 11 Cỡ tệp Sự hình thành và phát triển của tiền tệ 63 KB Lượt tải Sự hình thành và phát triển của tiền tệ 0 Lượt đọc Sự hình thành và phát triển của tiền tệ 7
Đánh giá Sự hình thành và phát triển của tiền tệ
4.1 ( 14 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Sự hình thành và phát triển của tiền tệ. 1. Thời kỳ trước khi có Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội (trước 1961): Ngay từ khi thành lập chính quyền nhân dân và suốt trong thời kỳ kháng chiến, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về mọi mặt, song Chính phủ đã luôn chăm lo cải thiện đời sống của nhân dân lao động nói chung và riêng đối với công nhân, viên chức Nhà nước. Ngoài việc ban hành chế độ tiền lương, Chính phủ đã ban hành các chế độ phụ cấp, trợ cấp xã hội mà thực chất là các chế độ BHXH như: trợ cấp ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động, trợ cấp già yếu, trợ cấp cho cá nhân và gia đình công nhân, viên chức khi chết và xây dựng các khu an dưỡng, điều dưỡng, bệnh viện, nhà trẻ...Về mặt luật pháp được thể hiện trong các văn bản sau: - Sắc lệnh số 29/SL ngày 13/3/1947 của Chính phủ. - Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chính phủ về quy chế công chức. - Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 của Chính phủ về quy chế công nhân. Các văn bản này đã quy định những nội dung có tính nguyên tắc về bảo hiểm xã hội, song do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, trong kháng chiến và kinh tế khó khăn nên Nhà nước chưa nghiên cứu chi tiết và thực hiện được đầy đủ các quyền lợi về bảo hiểm xã hội cho công nhân viên chức, mà các chế độ chủ yếu mang tính cung cấp, bình quân với tinh thần đồng cam cộng khổ. Về nội dung chưa thống nhất giữa khu vực hành chính và sản xuất, giữa công nhân kháng chiến và công nhân sản xuất dân dụng, các khoản chi về bảo hiểm xã hội lẫn với tiền lương, chính sách đãi ngộ mà chưa xây dựng theo nguyên tắc hưởng theo lao động là nguyên tắc cơ bản về phân phối XHCN, ngoài ra các văn bản lại chưa hoàn thiện và đồng bộ, ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện. Một số vấn đề quan trọng, cấp thiết đến đời sống của đông đảo công nhân viên chức như chế độ hưu trí, trợ cấp mất sức lao động, thôi việc, chế độ trợ cấp bệnh nghề nghiệp chưa được quy định. Nhìn chung giai đoạn này các chế độ bảo hiểm xã hội chưa được quy định một cách toàn diện, quỹ bảo hiểm xã hội chưa được hình thành. Tuy nhiên, các chế độ trợ cấp, phụ cấp mang tính chất bảo hiểm xã hội trong giai đoạn đầu thành lập nước, trong kháng chiến và những năm đầu hoà bình lập lại đã có tác dụng rất to lớn, giải quyết một phần những khó khăn trong sinh hoạt của công nhân viên chức Nhà nước và gia đình họ, củng cố thêm lòng tin của nhân dân vào Đảng, Chính phủ và làm cho mọi người an tâm, phấn khởi đẩy mạnh công tác, sản xuất, thu hút lực lượng lao động vào khu vực kinh tế Nhà nước. 2. Thời kỳ thực hiện điều lệ bảo hiểm xã hội tạm thời (từ 1961 đến 12/1994): Những quy định về chế độ chính sách bảo hiểm xã hội: Để phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước, đáp ứng yêu cầu không ngừng cải thiện đời sống của công nhân viên chức Nhà nước, các chế độ trợ cấp xã hội cần được bổ sung và sửa đổi cho phù hợp với thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam. Tại Điều 32 Hiến pháp năm 1959 quy định rõ: quyền của người lao động được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, mất sức lao động, bệnh tật. Năm 1960 Hội đồng Chính phủ có Nghị quyết trong đó đã xác định “đi đôi với việc cải tiến chế độ tiền lương, cần cải tiến và ban hành các chính sách cụ thể về bảo hiểm xã hội và phúc lợi cho công nhân viên chức, cán bộ”. Thực hiện Nghị quyết trên, các Bộ Lao động, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Y tế và Tổng Công đoàn Việt Nam đã phối hợp nghiên cứu xây dựng Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội trình Hội đồng Chính phủ ban hành. Ngày 14/12/1961 Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn, Chính phủ đã ra Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 ban hành kèm theo Điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức Nhà nước. Nội dung của Điều lệ được tóm tắt như sau: - Về đối tượng áp dụng là: công nhân viên chức Nhà nước ở các cơ quan, xí nghiệp, công trường, nông trường, cán bộ, công nhân trong các đoàn thể nhân dân; công nhân viên chức trong các xí nghiệp công tư hợp doanh đã áp dụng chế độ trả lương như xí nghiệp quốc doanh; công nhân viên chức trong các xí nghiệp công nghiệp địa phương đã có kế hoạch lao động, tiền lương ghi trong kế hoạch Nhà nước. - Về điều kiện và mức đãi ngộ: căn cứ vào sự cống hiến thời gian công tác, điều kiện làm việc, tình trạng mất sức lao động và trợ cấp bảo hiểm xã hội nhìn chung thấp hơn tiền lương và thấp nhất cũng bằng mức sinh hoạt phí tối thiểu. - Về các chế độ được quy định bao gồm 6 chế độ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất; từng chế độ có quy định cụ thể về điều kiện hưởng, tuổi đời, mức hưởng... - Về nguồn kinh phí đảm bảo chi trợ cấp: do quỹ bảo hiểm xã hội của Nhà nước đài thọ từ Ngân sách Nhà nước. - Về quản lý quỹ bảo hiểm xã hội: Nhà nước thành lập quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ độc lập thuộc Ngân sách Nhà nước và giao cho Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) quản lý toàn bộ quỹ này (sau này giao cho ngành Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý quỹ hưu trí và tử tuất). Đây là Điều lệ tạm thời nhưng đã quy định đầy đủ 6 chế độ bảo hiểm xã hội, các chế độ này chủ yếu dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động nhằm khuyến khích mọi người tăng cường kỷ luật lao động, đẩy mạnh sản xuất và góp phần ổn định lực lượng lao động trong các ngành kinh tế quốc dân. Nghị định 218/CP được coi là văn bản gốc của chính sách BHXH và nó được thực hiện trong hơn 30 năm. Tuy nhiên để phù hợp và đáp ứng với tình hình của đất nước trong từng giai đoạn, nội dung của các quy định trong Điều lệ tạm thời đã qua 8 lần sửa đổi bổ sung với 233 văn bản hướng dẫn thực hiện. Đặc biệt là tại Nghị định số 236/HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về sửa đổi, bổ sung một số chế độ chính sách thương binh và xã hội khi Nhà nước thực hiện điều chỉnh giá - lương – tiền. 3. Thời kỳ từ 1/1995 đến 2006 Từ sau Đại hội Đảng lần thứ 6 với chủ trương đổi mới quản lý Nhà nước từ nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, chính sách bảo hiểm xã hội cũng được xem xét, nghiên cứu thay đổi sao cho phù hợp không những so với tình hình đổi mới kinh tế của đất nước mà dần hoà nhập với những quy định, những nguyên tắc của bảo hiểm xã hội thế giới và nhất là các nước trong nền kinh tế chuyển đổi. Từ năm 1995, thi hành những quy định trong Bộ Luật lao động về bảo hiểm xã hội, Chính phủ đã ban hành Điều lệ bảo hiểm xã hội kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 và Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 áp dụng đối với công chức, công nhân viên chức Nhà nước, người lao động theo loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc và sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội nhân dân và công an nhân dân. Nội dung của Điều lệ bảo hiểm xã hội này đã đã được đổi mới cơ bản và khắc phục được những nhược điểm, tồn tại mà Điều lệ bảo hiểm xã hội tạm thời ban hành những năm trước đây, đó là: - Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc không chỉ bao gồm lao động trong khu vực Nhà nước mà người lao động trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên cũng có quyền tham gia bảo hiểm xã hội. - Đề cập đến vấn đề bảo hiểm xã hội tự nguyện và vấn đề tham gia đóng góp vào Quỹ bảo hiểm xã hội của người sử dụng lao động, người lao động và hình thành Quỹ bảo hiểm xã hội. - Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất, tập trung trong cả nước, độc lập với ngân sách Nhà nước. Quỹ bảo hiểm xã hội được Nhà nước bảo trợ, cơ chế quản lý tài chính được thực hiện theo quy định của Nhà nước. - Về các chế độ bảo hiểm xã hội, quy định 5 chế độ là ốm đau, thai sản, tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất, không còn chế độ trợ cấp mất sức lao động mà những người mất khả năng lao động được quy định chung trong chế độ hưu trí với mức hưởng lương hưu thấp. Trong từng chế độ có quy định cụ thể hơn về điều kiện hưởng, thời gian và mức hưởng. - Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội được cấp sổ bảo hiểm xã hội, sổ bảo hiểm xã hội ghi chép, phản ánh quá trình tham gia bảo hiểm xã hội, mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội và các chế độ bảo hiểm xã hội đã được hưởng. - Đối với lực lượng vũ trang cũng đã có quy định riêng về bảo hiểm xã hội (Nghị định số 45/CP của Chính phủ). - Tài chính bảo hiểm xã hội được đổi mới cơ bản, tập trung ở những nội dung chủ yếu sau: + Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành trên cơ sở sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động là chính, Nhà nước hỗ trợ cho nguồn Quỹ bảo hiểm xã hội là thứ yếu khi cần thiết. Mức đóng góp hàng tháng được quy định bắt buộc thuộc trách nhiệm của cả người lao động và người sử dụng lao động. Với quy định về mức đóng góp rõ ràng đã làm cho người lao động và người sử dụng lao động thấy được quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong việc đóng góp vào Quỹ bảo hiểm xã hội. + Quỹ bảo hiểm xã hội được tách khỏi ngân sách Nhà nước, hạch toán độc lập; quỹ bảo hiểm xã hội được thực hiện các biện pháp để bảo tồn và tăng trưởng. Quỹ bảo hiểm xã hội đảm bảo thu đủ để chi và có phần kết dư, bảo đảm tính chất của bảo hiểm xã hội đoàn kết, tương trợ giữa tập thể người lao động và giữa các thế hệ, đồng thời đảm bảo cho việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội luôn được ổn định lâu dài. Như vậy, từ năm 1995 chính sách bảo hiểm xã hội đã gắn quyền lợi hưởng bảo hiểm xã hội với trách nhiệm đóng góp bảo hiểm xã hội của người lao động, xác định rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động, tạo được Quỹ bảo hiểm xã hội độc lập với ngân sách Nhà nước. + Mức chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội được quy định cụ thể, hợp lý, phù hợp với mức đóng góp của người lao động. Đặc biệt mức hưởng lương hưu được quy định là 45% so với mức tiền lương nghạch bậc, lương hợp đồng cho người có 15 năm làm việc và đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm được thêm 2% và cao nhất là 75% cho người có 30 năm tham gia bảo hiểm xã hội. Ngoài ra, người lao động nếu có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội từ năm thứ 31 trở lên thì mỗi năm thêm được được hưởng trợ cấp một lần bằng 1/2 tháng tiền lương, tối đa không quá 5 tháng tiền lương. Với quy định này đã từng bước cân đối được thu- chi bảo hiểm xã hội. Để thực hiện chế độ chính sách bảo hiểm xã hội và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội theo luật định, xoá bỏ tính hành chính trong hoạt động bảo hiểm xã hội, ngày 16/02/1995 Chính phủ ra Nghị định số 16/CP về việc thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam căn cứ Luật tổ chức Chính phủ Ngày 30 tháng 9 năm 1992 và điều 150 Bộ luật Lao động, xét theo đề nghị của Bộ trưởng, Trưởng ban Tổ chức- Cán bộ Chính phủ. Bảo hiểm xã hội Việt Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất các tổ chức Bảo hiểm xã hội hiện nay ở Trung ương và địa phương thuộc hệ thống lao động- Thương binh và Xã hội và Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam để giúp Chính phủ chỉ đạo công tác quản lý quỹ Bảo hiểm xã hội và thực hiện các chế độ, chính sách Bảo hiểm xã hội theo pháp luật của Nhà nước.Bảo hiểm xã hội Việt Nam có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ, có con dấu riêng, cói tài khoản, có trụ sở đặt tại thành phố Nà Nội. Quỹ Bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nàh nước Do có tổ chức thống nhất quản lý, bảo tồn, phát triển quỹ và thực hiện chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho các đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội đã đảm bảo cho việc chi trả đầy đủ, kịp thời và đúng quy định; khắc phục được những tồn tại trước đây. Tuy nhiên, với các quy định của Điều lệ bảo hiểm xã hội thực hiện từ năm 1995 còn một số điểm tồn tại cần được nghiên cứu hoàn thiện như: - Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội còn hạn hẹp, Nhà nước mới quy định lao động làm việc trong các doanh nghiệp mà có từ 10 lao động trở lên mới thuộc diện bắt buộc tham gia bảo hiểm xã hội, vì vậy đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tuy đã được mở rộng hơn so với quy định trước đây, nhưng so với tổng số lao động xã hội thì còn chiếm tỷ trọng thấp, mới chỉ có khoảng 14% số người trong độ tuổi lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến số người lao động trong xã hội được hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội, đồng thời quy mô quỹ bảo hiểm xã hội bị hạn chế. - Chế độ chính sách bảo hiểm xã hội vẫn còn đan xem một số chính sách xã hội. Trong quá trình thực hiện theo những quy định của Điều lệ bảo hiểm xã hội từ năm 1995 đến nay, chính sách bảo hiểm xã hội đã có những sửa đổi, bổ sung: - Về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội: Bổ sung đối tượng là cán bộ xã, phường, thị trấn theo Nghị định số 09/1998/NĐ-CP thực hiện từ 1/1998; đối tượng là người lao động làm việc trong các tổ chức thực hiện xã hội hóa thuộc ngành giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao theo Nghị định số 73/1999/NĐCP của Chính phủ. - Về chính sách bảo hiểm xã hội: Có sửa đổi, bổ sung cả về mức đóng, tỷ lệ hưởng, điều kiện hưởng và phương pháp tính lương hưu tại các Nghị định số 93/1998/NĐ-CP, số 94/1999/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số Điều của Điều lệ bảo hiểm xã hội; Nghị định số 04/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật Sĩ quan Quân đội năm 1999; Nghị định số 61/2001/NĐ-CP về chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động khai thác trong hầm lò; Quyết định số 37/2001/QĐ-CP về chế độ nghỉ ngơi dưỡng sức; Nghị quyết số 16/2000/NQ-CP về tinh giản biên chế trong cơ quan hành chính sự nghiệp và Nghị quyết số 41/2002/NĐ-CP về sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước. Với những sửa đổi, bổ sung về chính sách bảo hiểm xã hội quy định tại các văn bản trên, có ảnh hưởng nhiều đến việc quản lý quỹ và cân đối quỹ bảo hiểm xã hội. Ngoài ra, từ năm 1995 đến nay với 3 lần thay đổi mức tiền lương tối thiểu vào các năm 1997 (Từ mức 120.000 đồng lên mức 144.000 đồng); năm 2000 (Từ mức 144.000 đồng lên mức 180.000 đồng) và năm 2001 đến nay lên mức 210.000 đồng. Với thay đổi này thì thu bảo hiểm xã hội đối với người lao động tham gia bảo hiểm xã hội theo thang bảng lương Nhà nước vẫn thực hiện theo mức tiền lương tối thiểu cũ, nhưng khi giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội thì được thực hiện theo mức tiền lương tối thiểu mới tại thời điểm giải quyết chế độ cũng như điều chỉnh theo mức tăng của mức tiền lương tối thiểu đối với người đang hưởng lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, điều này không những ảnh hưởng đến quỹ bảo hiểm xã hội về cân đối thu- chi mà phần lãi suất đầu tư cũng bị giảm. 4. Từ năm 2006 đến nay: Cho đến ngày 29 tháng 6 năm 2006, nước ta đã đưa ra bản luật đầu tiên cho bảo hiểm xã hội. Quy định về chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội; quyền và trách nhiệm của người lao động, của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm xã hội; tổ chức bảo hiểm xã hội; quỹ bảo hiểm xã hội; thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội và quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội. + Đối tượng áp dụng 1. Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là công dân Việt Nam, bao gồm: a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên; b) Cán bộ, công chức, viên chức; c) Công nhân quốc phòng, công nhân công an; d) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân; đ) Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; e) Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. 2. Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động. 3. Người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp là công dân Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ mười hai tháng đến ba mươi sáu tháng với người sử dụng lao động quy định tại khoản 4 Điều này. 4. Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp là người sử dụng lao động quy định tại khoản 2 Điều này có sử dụng từ mười lao động trở lên. 5. Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là công dân Việt Nam trong độ tuổi lao động, không thuộc quy định tại khoản 1 Điều này. 6. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến bảo hiểm xã hội. + chế độ bảo hiểm được quy định rõ ràng: bảo hiểm bắt buộc bao gồm: ốm đau; Thai sản; Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; Hưu trí; Tử tuất. Chế độ bảo hiểm tự nguyện bao gồm: Hưu trí; Tử tuất. Chế độ bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: Trợ cấp thất nghiệp; Hỗ trợ học nghề; Hỗ trợ tìm việc làm. + quy định cụ thể hơm về các quyền lợi được hưởng bảo hiểm phụ thuộc theo mức độ đóng góp và thời gian đóng góp như chế độ hưu chí, tử tuất. Mức độ đóng góp phụ thuộc và thu nhập. Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch, được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần của bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Việc thực hiện bảo hiểm xã hội phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội. + Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm xã hội. Nhà nước có chính sách ưu tiên đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội và các biện pháp cần thiết khác để bảo toàn, tăng trưởng quỹ. Quỹ bảo hiểm xã hội được Nhà nước bảo hộ, không bị phá sản. Lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội được miễn thuế. + Quy định rõ về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân đối với bảo hiểm xã hội. Cụ thể đại diện người sử dụng lao động có các quyền sau đây: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội; Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội. Và có trách nhiệm: Tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với người sử dụng lao động; Kiến nghị, tham gia xây dựng, sửa đổi, bổ sung chế độ, chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội; Tham gia kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về bảo hiểm xã hội. + Quy định rõ quyền, trách nhiệm của người lao đông, người sử dụng lao động, các tổ chức bảo hiểm xã hội. + Có quy định rõ ràng các chế độ bảo hiểm, hạn nghỉ bảo hiểm phụ thuộc vào số năm đóng góp và tính chất của công việc. Quy định rõ ràng mức được hưởng bảo hiểm khi được nghỉ của các chế độ bảo hiểm khác nhau. + Quy định chế độ tiền trợ cấp, hưu chí,... được xác định theo từng điều kiện số năm đóng góp, mức tối đa được trợ cấp là 75%. ...... Như vậy, từ năm 2006, các chế độ bảo hiểm đã được quy định rõ ràng và đầy đủ về các quyền, nghĩa vụ của các bên có liên quan tới bảo hiểm xã hội, các chế độ bảo hiểm xã hội, phù hợp với nhu cầu của xã hội.
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.