Sáng kiến kinh nghiệm: Phương pháp giảng dạy và huấn luyện đội tuyển chạy việt dã

pdf
Số trang Sáng kiến kinh nghiệm: Phương pháp giảng dạy và huấn luyện đội tuyển chạy việt dã 15 Cỡ tệp Sáng kiến kinh nghiệm: Phương pháp giảng dạy và huấn luyện đội tuyển chạy việt dã 372 KB Lượt tải Sáng kiến kinh nghiệm: Phương pháp giảng dạy và huấn luyện đội tuyển chạy việt dã 0 Lượt đọc Sáng kiến kinh nghiệm: Phương pháp giảng dạy và huấn luyện đội tuyển chạy việt dã 0
Đánh giá Sáng kiến kinh nghiệm: Phương pháp giảng dạy và huấn luyện đội tuyển chạy việt dã
4.1 ( 14 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 15 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp giảng dạy và huấn luyện đội tuyển chạy việt dã Phương pháp giảng dạy và huấn luyện đội tuyển chạy việt dã Phần I: Đặt vấn đề. I.Lý do chọn đề tài. 1, Cơ sở lý luận. Thể dục thể thao đựơc coi là một bộ phận của nền văn hoá xã hội, với quan niệm vận động và sức khỏe, các nhà triết học cổ đại đã đề cao cái đẹp trong sự phát triển hài hoà giữa trong sạch về đạo đức , phong phú về tinh thần và hoàn thiện về thể chất do thể dục thể thao đem lại. Mặt khác, thểdục thể thao còn là một hệ thống giáo dục thể chất nhằm rèn luyện các tố chất thể lực, nhằm phát triển con người một các toàn diện về mọi mặt: Đức – trí – thể – mỹ. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao sức khoẻ toàn dân. Chính vì vậy ngay khi mới thành lập nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nay là cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hồ Chủ Tịch đã kêu gọi toàn dân tập thể dục. Trong bài” Sức khoẻ và thể dục” ( đăng trên bào cứu quốc, số 199, ngày 27-3-1946) người viết: “ Giữ gìn dân chủ xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới thành công. Mỗi người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ót. Mỗi người dân mạnh khoẻ tức là cả nước mạnh khoẻ. Vậy nên luyện tập thể dục bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân yêu nước....” Ngày 24/10/1955, trong thư” gửi các em học sinh” Bác viết: “... Đối với các em việc giáo dục bao gồm: -Thể dục: để làm cho thên thể khoẻ mạnh, đồng thời cần giữ gìn vệ sinh riêng và vệ sinh chung. - Trí dục: Ôn lại những điều đã học, học thêm những tri thức mới. - Mỹ dục: để phân biệt được cái gì là đẹp, cái gì là không đẹp. - Đức dục là yêu tổ quốc, yêu lao động, yêu khoa học, yêu trọng của công. Chính vì vậy giáo dục thể chất trong các trường THCS là một bộ phận của mục tiêu giáo dục và đào tạo, đồng thời là một mặt giáo dục cho thế hệ trẻ nhằm tạo ra lớp người: “ Phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức” Đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. ở Việt nam môn điền kinh được quan tâm. Trong trường môn điền kinh là môn học chính thức trong chương trình GDTC trong đó chạy bền là môn được phân phối trong nhiều tiết học ( từ đầu năm học cho đến khi kết thức năm học). Việc luyện tập và thi đấu chạy bền không những có tác dụng tốt tới sức khoẻ mà còn có tác dụng phát triển thể lực một cách toàn diện, đồng thời còn tạo điều kiện nâng cao thành tích các môn thể thao khác. 2. Cơ sở thực tiễn. Trên thực tế chạy bền là một môn học đơn điệu gây mệt mỏi. để đạt thành tích cao trong chạy bền ngoài việc có kỹ thuật hợp lý, có mối quan hệ giữa độ dài và tần số bước chạy phù hợp theo nguyên lý kỹ thuật người chạy cần có thể lực nhất định để duy trì được kỹ thuật chạy cần thiết. Chính vì vậy đối với người chạy bền cần có sức bền chung và sức bền chuyên môn tốt. Sức bền chung giúp cho người tập hoàn thành được nhiệm vụ của từng buổi tập trong quá trình tập luyện, nó cũng là cơ sở để phát triển sức bền tốc độ. Sức bền tốc độ cho phép người chạy có tốc độ trung bình trên toàn cự ly cao. ở chạy bền yếu tố chủ yếu gây mệt mỏi, làm giảm thành tích chạy là những biến đổi của môi trường bên trong cơ thể như tăng lượng a xit lactic và đioxi cacbon trong máu.... . Quá trình luyện tập chính là quá trình rèn luyện, phát triển nhiều mặt người tập, trong đó có việc giúp cho cơ thể quen dần và chịu đựng được mệt mỏi, dễ dàng vượt qua trạng thái “ cực điểm” duy trì được tốc độ trung bình cao hoặc thực hiện được các phương án chiến thuật trong thi đấu. Do phải chạy trong thời gian dài, năng lượng cho cơ thể hoạt động chỉ tiêu hao mà không bù đắp đầy đủ, kịp thời cho nên yếu tố tiết kiệm năng lượng trong khi chạy cũng giúp cho vận động viên có thành tích chạy tốt. Nói cụ thể hơn nếu kỹ thuật chạy hợp lý được củng cố thành định hình, tự động hóa sẽ giúp cho VĐV chạy đạt tốc độ cần thiết nhưng sự tiêu hao năng lượng của cơ thể lại ít, do vậy VĐV đủ sức chạy hết cự ly với tốc độ cao, thậm chí còn có thể tăng tốc khi rút về đích. Trong đó yếu tố thở sâu, thở tích cực để cung cấp o xi, đặc biệt là luân phiên dùng sức và thả lỏng cơ bắp ( nhất là các cơ quan tham gia các động tác đạp sau và chống trước) cũng là cách để duy trì khả năng chạy tốc độ cao trên cự li tốt hơn. Ngoài ra tập chạy bền còn làm cho người chạy cảm giác tốc độ. Việc không chủ động được tốc độ chạy sẽ dẫn tới không đủ sức về đích hoặc về đích với thành tích thấp trong khi cơ thể vẫn dồi dào sức lực. Căn cứ vào cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn tôi mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm“ Sử dụng phương pháp giảng dạy và huấn luyện đội tuyển chạy việt dã ở trường ”. II- Phạm vi thời gian áp dụng của đề tài: Đề tài này tôi đã áp dụng để huấn luyện đội tuyển việt dã học sinh lớp 6 ở trường trong 4 năm: Năm học 2004- 2005, năm học 2005- 2006, năm học 2006 – 2007 và năm học 2007 – 2008. Phần II. Giải quyết vấn đề: A. Quá trình thực hiện đề tài I.Khảo sát thực tế lựa chọn đội tuyển. 1.Khảo sát thực tế: Kiểm tra bằng hình thức thi đấu tuyển chọn học sinh vào đội tuyển. 2.Tình trạng thực tế khi chưa thực hiện. Đầu năm học lãnh đạo nhà trường họp và thành lập ban chỉ đạo. Căn cứ vào tình hình các năm học, sở TDTT phối hợp với sở giáo dục tổ chức giải Việt dã học sinh lớp 6 các trường THCS trên toàn tỉnh. Chính vì vậy ngay từ đầu năm học cần thành lập đội tuyển và có kế hoạch tập luyện. 3.Số liệu điều tra tra khi thực hiện. Trước khi tiến hành huấn luyện đội tuyển, tôi đã tiến hành kiểm tra thành tích của các em.( Nam chạy 4000m, nữ chạy 3000m) Năm học TT 1 2 2004 2005 3 4 5 6 1 2 2005 2006 3 4 5 6 2006- 1 2007 2 Họ tên Năm sinh Cự ly( m) Thành tích 3 4 5 6 1 2 2007- 3 2008 4 5 6 Nhìn vào bảng thành tích tôi thấy thành tích của các em chưa cao vì các em chạy chưa đúng kỹ thuật và chiến thuật. Có những em phân phối sức chưa hợp lý dẫn tới khi về đích thì mệt mỏi, rút đích chưa tốt.... Để các em nắm được kĩ thuật và chiến thuật đạt thành tích cao tôi tiến hành cho các em tập thể lực trong các giờ chính khoá và giao bài tập về nhà. 4. Đội tuyển điền kinh tập thẻ lực ngay từ đầu năm học ở các giời chính khoá. Trong tiết học thể dục, sau phần khởi động và bài tập chung của cả lớp xong, tôi cho các em tập các bài tập riêng với khối lượng, cường độ mật độ lớn hơn, phù hợp với trình độ tập luyện và thể lực của từng em nhằm mang lại hiệu quả cao trong tập luyện. Tố chất thể lực bao gồm sức nhanh, sức mạnh, sức bền, mềm dẻo, khéo léo. Các bài tập được thực hiện từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ nhẹ đến nặng. Ví dụ: + Chạy bước nhỏ 20- 30m. + Chạy nâng cao gối:20- 30m. + Chạy gót chạm mông: 20- 30m + Chạy dạp sau: 20 – 30m. + Chạy tăng tốc độ:50- 80m. +Chạy dích dắc, chạy vòng số 8. + Chạy Cầu thang. + Chạy trên địa hình tự nhiên ( Từ 400m- 2000m) Các bài tập trên được sắp xếp phù hợp với từng đối tượng học sinh> Sau mỗi buổi học tôi giao bài tập về nhà cho các em tự tập luyện ở nhà. Trước khi thi đấu khoảng 2- 3 tháng tôi tập trung huấn luyện đội tuyển để chuẩn bị kĩ thuật và thành tích, thể lực và tâm lý cho học sinh nhằm đạt kết quả cao. II.Một số phương pháp giảng dạy kĩ thuật và huấn luyện đội tuyển. 1. Phần chuẩn bị. + GV chuẩn bị bài giảng, tranh kỹ thuật, dây dính, còi, cờ, đồng hồ, dây nhảy.... + HS: Trang phục gọn gàng, san tập sạch sẽ, thể lực tốt. 2.Phương pháp giảng dạy và huấn luyện. 2.1Bước 1: Xây dựng khái niệm và giới thiệu môn học: - Xây dựng một số khái niệm bằng cách giảng giải, phân tích làm mẫu động tác, xem tranh ảnh - Tập các động tác bổ trợ và kĩ thuật đánh tay. - Chạy tăng dần từ 300m, đến 500m, 800m, 1000m, 1500m, 2000m,3000m 2.2Bước 2: Dạy kĩ thuật chạy giữa quãng trên đường thẳng và đường vòng, làm quen với các biện pháp phát triển sức bền. + Tư thế thân người: Chạy giưa quãng thân người hơi ngả về trước không quá 4- 50, hai vai lắc không nhiều. Đầu và thân người giữ thẳng để cơ cổ và mặt được thả lỏng tự nhiên. Thực hiện như trên cơ thể người chạy không bị căng thảng quá là cho tư thế thân người chạy thoải mái hơn. + Động tác của chân: Lực chủ yếu đẩy cơ thể về trước trong chạy là lực đạp sau của hai chân. Nhưng để chạy được hết cự ly thì không đạp sau gắng sức ở từng bước chạy và cũng không đạp sau với góc độ nhỏ như ở chạy giữa quãng của cự li ngắn. Để tiết kiệm sức của hai chân cần đạp sau đúng hướng và phối hợp đạp sau với độ ngả thân trên và kết hợp động tác của hai tay. Phải chú ý các cơ vừa tham gia được nghỉ ngơi bằng cách gập cẳng chân theo quán tính sau khi rời đất. Kĩ thuật đó còn giúp cho đưa chân lăng về trước được nhanh hơn. để không bị tốn nhiều sức, hạn chế phản lực do chống trước, điểm đặt chân ở phía trước cần gần điểm dọi của trọng tâm cơ thể. Đạp chân có chú ý hoãn xung cững là điều cần thiết nên phải được thực hiện thuần thục, tự động hoá. Trong chạy bền người chạy thường gặp hiện tượng “ Cực điểm” đó là những lúc tức thở, tay cứng đờ tưởng như không thể chạy tiếp được nữa. Khi gặp tình huống này cần có nghị lực chịu đựng, có thể giảm tốc độ đồng thời tích cực thở sâu và trạng thái đó sẽ qua, cảm giác dễ chịu sẽ tới – cơ thể bước vào trạng thái hô hấp lần 2. Khác với chạy ngắn, thở trong chạy bền là hết sức quan trọng vì muốn cung cấp đủ năng lượng cho cơ thể hoạt động phải sử dụng tối đa lượng ô xi lấy vào từ đường hô hấp.Do vậy phải chủ động ngay từ đầu, nếu thở nông và thở không đúng nhịp điệu ổn định sẽ dẫn tới mệt mỏi sớm, thành tích chạy kém. Trong khi chạy bền hít vào bằng mũi thật nhanhh, mạnh và sâu càn khi thở ra bằng miệng thì chậm và từ từ. Khi muốn tăng tốc độ cần phải tăng nhịp thở và phối hợp tốt 2 bước hít vào, hai bước thở ra.Để học sih thực hiện tốt kỹ thuật ở giai đoạn này tôi cho các em luyện tập các bài tập sau. + Ôn các động tác bỏ trợ, kỹ thuật đánh tay. + Chạy tăng tốc các đoạn 100m- 200m. + Chạy lên xuống cầu thang. + Chạy 400m- 800m nhằm phát triển tốc độ. + Chạy 1000m, 2000m nhằm phát triển sức bền. 2.3.Bước 3. Kỹ thuật xuất phát và rút đích. + Trong chạy bền kỹ thuật xuất phát không quan trong lắm tuy nhiên nếu ta xuất phát chậm quá để đấu phương lên trước, bỏ quá xa thì dù còn sức ta cũng khó mà bứt phá kịp. Vì vậy ngay từ đầu đã phải duy trì tốc độ trung bình phù hơp với sức của mình. + Về đích: Khi gần tới đích, người chạy phải cố đem hết sức lực còn lại để rút về đích – thứ hạng về đích vẫn có thể thay đổi do những bước cuối cùng này. Sau khi đã qua đích, không được dừng lại đột ngột mà cần chạy tiếp với tốc độ giảm dần chuyển qua đi bộ rồi mới dùng lại. Các biện phát giảng dạy ở phần này. + GV dạy lý thuyết và cho học sinh thực hành. + Dạy kỹ thuật xuất phát cao với 2 điểm chống. + Chạy lặp lại nhiều vòng sân để xây dựng cảm giác tốc độ. + Giới thiệu kỹ thuật cực điểm và cách khắc phục. 2.4.Bước 4: Hoàn thiện kỹ thuật, nâng cao thành tích và chiến thuật thi đấu. - Phối hợp các kỹ thuật. - Sử dụng các biện pháp và bài tập khác nhau. - Chạy bền 3000m ( nữ) 4000m( nam). Nhìn chung chạy việt dã khá đơn giản. để có thành tích tốt trong chạy việt dã cần có một thời gian luyện tập lâu dài, bền bỉ, thường xuyên . Do vậy tôi tìm hiểu và nắm chắc điều kiện hoàn cảnh của từng em từ đó đi sâu vào việc phân tích ý nghĩa, tác dụng của việc tập luyện ở nhà. Đặc biệt các em có thể kết hợp ngay khi đi học đến trường. Đi bộ nhanh hoặc đạp xe đap chú ý dùng sức kết hợp với thở ...cũng chính là tập phát triển sức bền. Do cường độ chạy bền không lớn, động tác không phức tạp nên khi cho học sinh khởi động tôi không cần dành nhiều thời gianở phần này như khi tập các môn không có chu kì, mà tôi dành nhiều thời gian cho các em tập phần cơ bản và hồi tĩnh. Mệt mỏi do tập sức bền thường lưu lại lâu, ảnh hưởng không tốt tới tâm lý học sinh và cả hiệu quả hoạt động sau đó của các em. Cho nên tôi nghiêm khắc với các em ở phần hồi tĩnh( học sinh thường không chú ý đúng mức tới nhiệm vụ này) tôi yêu cầu các hồi tĩnh đủ khi tập ở lớp cũng như khi tập ở nhà. Khi hồi tĩnh, tôi hướng dẫn các em không chỉ dùng một bài tập mà dùng một nhóm bài tập. - Cá nhân( thực hiện ở lớp, tự thả lỏng ở nhà). + Chạy nhẹ nhàng, vung vẩy chân tay. + Tại chỗ hít thở sâu. + Ngồi, chống hai tay phía sau, làm động tác thả lỏng 2 chân: rung để thả lỏng đùi và cẳng chân, bàn chân chạm đất hoặc không. Dùng tay vuốt ngược từ gót chân lên trên giúp dồn máu tĩnh mạch trở về tim... - Hồi tĩnh theo nhóm hai người. + Hai người đối diện nắm nhẹ bàn tay nhau, luân phiên một ngưòi lắc( nhẹ) với tần số lớn để thả lỏng tay và thân trên cho người kia. + Một người đứng hai tay chống gối để người kia đấm nhẹ ở sau lưng... +Luân phiên “ phơi cá” cho nhau. Hồi tĩnh đủ là khi mạch trở về trước lúc buổi tập.
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.