Sáng kiến kinh nghiệm: Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện

doc
Số trang Sáng kiến kinh nghiệm: Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện 24 Cỡ tệp Sáng kiến kinh nghiệm: Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện 195 KB Lượt tải Sáng kiến kinh nghiệm: Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện 0 Lượt đọc Sáng kiến kinh nghiệm: Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện 4
Đánh giá Sáng kiến kinh nghiệm: Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện
4.6 ( 18 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

UBND HUYÖN SèP CéP TR¦êNG MN HOA CHĂM PA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ MẠCH LẠC CHO TRẺ THÔNG QUA BỘ MÔN LÀM QUEN VĂN HỌC THỂ LOẠI TRUYỆN ” Hä vµ tªn: Lò Thị Chinh Chøc vô: Gi¸o viªn §¬n vị: Trêng MÇm non Hoa Chăm Pa (Năm 2015 - 2016) A. ĐẶT VẤN ĐỀ: I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lí luận và lí do chọn đề tài Chưa làm mẹ nhưng chứa chan tình mẹ Bởi yêu nghề nên quý lớp măng non Dạy tiếng mẹ để cho trẻ tuổi mầm non có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt sẽ giúp trẻ nhận thức và giao tiếp tốt góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ trong giao tiếp sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp cận với các môn khoa học khác như: Môi trường xung quanh, làm quen với toán, âm nhạc, tạo hình…mà điều tôi muốn nói ở đây đặc biệt là thông qua bộ môn làm quen văn học. Bộ môn làm quen văn học dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện, đóng kịch… tạo cho trẻ được hoạt động nhiều. Việc phát triển vốn từ luyện phát âm và dạy trẻ nói đúng ngữ pháp… không thể tách rời giaữ các môn học cũng như các hoạt động của trẻ. Mỗi từ cung cấp cho trẻ phải dựa trên một biểu tượng cụ thể, có nghĩa, gắn liền với âm thanh và tình huống sử dụng chúng. Nội dung vốn từ cung cấp cho trẻ cũng như hình thức ngữ pháp phải phụ thuộc vào khả năng tiếp xúc, hoạt động và nhận thức của trẻ. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một nhiệm vụ quan trọng trong chương trình giáo dục toàn diện trẻ. Chương trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ đã được nhà giáo dục mầm non Liên Xô nổi tiếng: Eiti – Khê va xem là khâu chủ yếu nhất của hoạt động trong trường mầm non, là tiền đề thành công của các công tác khác. Hiện nay việc trẻ em của chúng ta nói trỏng, không đủ câu, trọn nghĩa chiếm một số lượng không nhỏ và rất khó cho việc tiếp cận với các tác phẩm văn học bởi vì trẻ một phần nghèo nàn về vốn từ, một phần trẻ không biết phải diễn đạt sao cho mạch lạc. Vì vậy tôi chọn đề tài “Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện kể” làm đề tài nghiên cứu. 2. Mục đích: Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ là phát triển khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ, khả năng trình bày có logic, có trình tự, chính xác và có hình ảnh một nội dung nhất định. Để luyện cho lời nói của trẻ được mạch lạc cần giúp trẻ thực hiện những yêu cầu sau: Xác định nội dung cần nói giúp cho lời nói của trẻ có nội dung thông báo ngắn gọn, rõ ràng. Xác định sự việc chính trong nhiều sự việc, xác định đặc điểm nổi bật cơ bản trong nhiều đặc điểm của con vật, của cây, của bức tranh, nội dung chính trong phát triển văn học. Ví dụ: Đồ vật: Tả hình dáng bên ngoài, công dụng, cách sử dụng. Con vật: Hình dáng, hành động. Cây: Hình dáng bên ngoài, sự thay đổi theo mùa. - Sắp xếp nội dung đã lựa chọn giúp cho lời nói của trẻ được đầy đủ, hợp lí và có logic. Ví dụ: Từ đầu đến chân, từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải… Trẻ tuổi mẫu giáo chưa có khả năng lựa chọn nội dung diễn đạt vì vậy cần phải hướng dẫn để giúp trẻ. Sau khi đã lựa chọn nội dung trẻ cần lựa chọn từ để diễn tả chính xác nội dung mình cần thông báo. Chọn từ giúp cho lời nói của trẻ rõ ràng, chính xác và mang sắc thái biểu cảm. Việc chọn từ được đặt ra ở 2 mức độ. - Mức độ thứ nhất: chọn từ phù hợp với nội dung. Ví dụ: đi, chạy… - Mức độ thứ hai: Chọn từ mang sắc thái tư từ. Ví dụ: lật đật, lon ton, lom khom…Đây là một việc khó đối với trẻ, giáo viên cần hướng dẫn và làm mẫu cho trẻ bắt chước, đặc biệt là việc chọn từ mang sắc thái tư từ chủ yếu được dùng thông qua việc cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học. Ví dụ: câu chuyện: Cây khế: chim phượng hoàng chở người anh đi lấy vàng. Vừa đến nơi người anh đã vội vàng nhét đầu túi 6 gang. Cô cho trẻ làm quen từ “vội vàng” bằng cách giải thích từ khó, cho trẻ lặp lại, thể hiện bằng hành động, hướng dẫn cháu đặt câu. - Sự liên kết các câu nói lại với nhau tạo thành chuỗi lời nói nhằm diễn tả trọn vẹn một ý, một nội dùng nào đó để giúp người nghe hiểu được. Đây là sự sản xuất toàn bộ nội dung thông báo một cách có logic. - Để diễn tả một ý, một nội dung ngắn gọn nào đó thì việc sắp xếp cấu trúc lời nói là đơn giản đối với trẻ. Nhưng nếu yêu cầu trẻ kể lại truyện hay tự sáng tác miêu tả những hiện tượng sự kiện xảy ra trong đời sống thì trẻ gặp khó khăn cần phải luyện tập dần dần. - Khi trẻ diễn đạt phải ngừng nghỉ ngắt giọng đúng, để giọng nói của trẻ không ê a ậm ừ. Luyện cho trẻ tác phong khi nói thoải mái, tự nhiên, khi nói nhìn vào mặt người nói. Trong trường mầm non tôi muốn đề cập tới việc luyện cho trẻ ngôn ngữ mạch lạc thể hiện qua việc thực hiện hai nhiệm vụ dạy trẻ đối thoại giữa trò chơi và độc thoại qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện kể. Nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ mạch lạc được thực hiện ở mọi lúc mọi nơi trong sinh hoạt hằng ngày của trẻ. Đối ới trẻ lớp tôi đang phụ trách 4 – 5 tuổi: Tiếp tục dạy trẻ biết nghe - hiểu - trả lời câu hỏi của người lớn. Biết trò chuyện với những người xung quanh. Dạy trẻ kể chuyện về đồ chơi, đồ vật theo tranh, kể lại các tác phẩm văn học, kể có trình tự, diễn cảm. 3. Những nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng phương pháp tổ chức hoạt động phát triển ngôn ngữ mạch lạc của trẻ 5 tuổi góp phần hoàn thiện hệ thống phương pháp tổ chức hoạt động tạo hình nâng cao chất lượng giáo dục của hoạt động ngôn ngữ trong trường mầm non. 3. Đối tượng nghiên cứu: - Hoạt động phát triển ngôn ngữ mạch lạc ở lớp Mẫu giáo Lớn với 22 trẻ (độ tuổi 5) ở trường Mầm Non Hoa Chăm Pa - Sốp Cộp, Sơn La. - Tìm hiểu thực trạng phương pháp tổ chức hoạt động phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi. 5. Lịch sử nghiên cứu: Trong thời gian công tác tại trường Hoa Chăm Pa. Là một giáo viên trực tiếp tham gia công tác giảng dạy tôi nhận thấy sự cần thiết của việc bổ sung phương pháp giáo dục mới để đáp ứng nhu cầu học ngày càng phát triển của trẻ. Chính vì thế tôi quyết định làm sáng kiến nghiên cứu để nâng cao chất lượng dạy và học. 6. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu 22 trẻ ở lớp mẫu giáo Lớn (5 tuổi). 7. Kế hoạch thực hiện sáng kiến: - Từ ngày 01/12 đến 15/4/2016: Tổ chức nghiên cứu thực tiễn - Từ ngày 16/4 đến 1/5/2016: Viết sáng kiến - Từ ngày 5/5 đến 15/5/2016: Sửa chữa - bổ sung - Từ ngày 16/5 đến 18/5/2016: In sáng kiến - Từ ngày 20/5/2011 đến 25/5/2016: Báo cáo Hội đồng khoa học nhà trường. II: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1 THỰC TRẠNG: a. Thuận lợi: Được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu về chuyên môn xây dựng phương pháp đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục mầm non, tạo mọi điều kiện giúp tôi thực hiện tốt chương trình đổi mới. Phụ huynh quan tâm đến con em mình, nhiệt tình ủng họ cùng tôi trong việc dạy dỗ các cháu và thường xuyên ủng họ những nguyên vật liệu để làm đồ dùng dạy học và vui chơi cho các cháu. b. Khó khăn: Do trình độ nhận thức không đồng đều, gần 50% trẻ lớp tôi mới lần đầu đến trường, số trẻ nam nhiều hơn trẻ nữ, do đó gặp rất nhiều khó khăn. - Hơn 50% trẻ chưa phân biệt được sự khác nhau rất tinh tế trong cách phát âm mà chỉ tiếp nhận một cách chung chung. Ví dụ: tay – tai, muỗi – mũi, phân biệt l – n. - 45% khả năng chú ý của trẻ còn yếu, không đều, không ổn định, vì vậy nên trẻ chưa chú ý đều đến các thành phần torng câu, trong từ. Vì vậy những âm điệu được đọc lướt, những từ không nhấn mạnh trong câu trẻ dễ bỏ qua, không chú ý. - Trí nhớ của trẻ còn hạn chế, trẻ chưa biết hết khối lượng các âm tiếp thu cũng như trật tự các từ trong câu. Vì thế trẻ bỏ bớt từ, bớt âm khi nói. -70% kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn, nhận thức hạn chế dẫn đến tình trạng trẻ dùng từ không chính xác, câu lủng củng. - 35% trẻ nói, phát âm sai do ảnh hưởng ngôn ngữ của người lớn xung quanh trẻ (nói tiếng địa phương) - Đa số phụ huynh bận công việc hoặc mốt lí do khách quan nào đó ít có thời gian trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói. Trẻ được đáp ứng quá đầy đủ về nhu cầu mà trẻ cần. Ví dụ: Trẻ chỉ cần nhìn vào đồ dùng, đồ vật nào là được đáp ứng ngay mà không cần dùng lời để yêu cầu hoặc xin phép. Đây cũng là một trong những nguyên nhân của việc chậm phát triển ngôn ngữ. Với những khó khăn như thế tôi phải dần dần khắc phục, sửa đổi và hướng dẫn trẻ phát triển ngôn ngữ một cách đúng đắn nhất qua giao tiếp và tập cho trẻ làm quen văn học thể loại truyện kể. 2. GIẢI PHÁP HỮU ÍCH: a. Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của trẻ: * Đặc điểm phát âm: - Nói chung trẻ đã phát âm tốt hơn, rõ, ít ê a, ậm ừ. Trẻ vẫn còn phát âm sai những âm thanh khó hoặc những từ có 2 – 3 âm tiết như: lựu - lịu, hươu – hiu, mướp - mớp, chiêm chiếp – chim chíp, thuyền buồm - thiền bờm, rắn - dắn… Tuy nhiên lỗi sai đã ít hơn. * Đặc điểm vốn từ: - Vốn từ của trẻ tăng nhanh khoảng 1300 – 2000 từ . Danh từ và động từ ở trẻ vẫn chiếm ưu thế. Tính từ và các loại từ khác trẻ đã sử dụng nhiều hơn. - Trẻ đã sử dụng chính xác các từ chỉ tính chất không gian như: Cao - thấp, dài- ngắn, rộng - hẹp, các từ chỉ tốc độ như: nhanh - chậm, các từ chỉ màu sắc: Đỏ, vàng, trắng, đen. Ngoài ra các từ có khái niệm tương đối như: hôm qua, hôm nay, ngày mai…trẻ dùng còn chưa chính xác. Một số trẻ còn biết sử dụng các từ chỉ màu sắc như: Xám, xanh lá cây, tím, da cam. - 100% trẻ biết sử dụng các từ cao, thấp, dài, ngắn, rộng, hẹp. có 55% số trẻ đếm được từ 1 – 10. Tuy nhiên trẻ sử dụng một số từ còn chưa chính xác. Ví dụ: Mẹ có mót ngồi không? (muốn) * Đặc điểm ngữ pháp: - Câu trẻ dùng đã chính xác và dài hơn. Ví dụ: Cô ơi, con thấy có mấy cọng rác nè. Con đem bỏ thùng rác cô nhé! (Cháu Nhật Đăng) - Trẻ đã sử dụng các loại câu phức khác nhau. Ví dụ: Câu phức đẳng lập: Tích Chu đi chơi, Tích Chu không lấy nước cho bà. (Cháu Phước). Câu ghép chính phụ: Cháu thích chơi lắp ráp nhà thôi, xây được nhà đẹp thì bạn Phương lại gỡ ra rồi. (Cháu Quang). - Trẻ ít sử dụng câu cụt hơn. Tuy nhiên trong một số trường hợp trẻ dùng từ trong câu vẫn chưa thật chính xác: Ví dụ: Mẹ ơi! Con muốn cái dép kia! ( phụ huynh cháu Sơn kể lại). Chủ yếu trẻ vẫn sử dụng câu đơn mở rộng. - Trẻ có khả năng kể lại chuyện và kể chuyện có trình tự logic. Thế nhưng qua tìm hiểu quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ lớp chồi, tôi so sánh với lớp tôi thì đa phần trẻ vẫn chưa có khả năng kể chuyện và kể chuyện có trình tự logic. b. Một số biện pháp giúp trẻ học tố môn làm quen văn học thể loại truyện kể: *. Tạo môi trường học tập, rèn luyện cho trẻ: - Tôi luôn tận dụng diện tích phòng học, chú ý bố trí sắp xếp các học cụ, đội hình để tạo môi trường học và thải mái cho trẻ. Ví dụ: Khi thực hiện các hoạt động làm quen văn học thể loại truyện kể mà trọng tâm là dạy kể chuyện sáng tạo thì tôi luôn tận dụng không gian lớp học để bày dụng cụ kể chuyện, khung sân sấu, sắp đặt tranh và các con rối sao cho trẻ dễ sử dụng, kích thích trẻ hoạt động tích cực hơn. - Chú ý đến khả năng phát âm của trẻ để có sự điều chỉnh và sửa sai, rèn luyện khả năng ngôn ngữ cho trẻ. - Bản thân tôi trước khi tổ chức hoạt động cũng phải tự luyện giọng kể, cách sử dụng tranh, sách tranh, rối, mô hình… để giúp trẻ cảm thụ đước tác phẩm văn học đó một cách tốt nhất. *. Tổ chức tiết học nhẹ nhàng, linh hoạt: Toi vào bài một cách sinh động để thu hút sự chú ý của trẻ. Ví dụ: Chủ điểm: “ Các nghề phổ biến, ngày 22/12” khi dạy với đề tài nghề xây dựng. Kể chuyện: “Ba con lợn nhỏ”, tôi sử dụng mô hình rối để gây sự hứng thú cho trẻ. - Tổ chức hoạt động đa dạng dựa vào hoạt động trọng tâm. Ví dụ: Khi trọng tâm là kể chuyện sáng tạo, tôi cho trẻ lựa chọn cáh sử dụng trang phục, đồ dùng phù hợp với nội dung câu chuyện trẻ sẽ kể… dựa theo các hình thức khác nhau. *. Sử dụng các loại rối, trang phục, mô hình, học cụ thu hút sự chú ý của trẻ: - Tôi sử dụng các nguyên vật liệu mở như: Muỗng gỗ, thanh tre, ly nhựa, nắp thiếc, hộp sữa, lõi giấy vệ sinh… để làm thành những con rối xinh xắn. Trẻ cũng có thể sử dụng được để kể chuyện theo ý thích. Ví dụ: Từ lõi giấy vệ sinh ta kết hợp với quả banh làm phần đầu con rối, tóc làm bằng đất nặn, miếng xốp trái cây bọc ra ngoài lõi giấy làm áo đầm và chú ý trang trí đa dạng màu sắc để thu hút trẻ. Có thể hướng dẫn để cháu làm theo. - Để làm trang phục cho trẻ tôi dùng: Vải vụn, mút bitis, giấy, lá cây tạo nhiều kiểu dáng trang phục lạ mắt. *. Chú ý rèn nề nếp, rèn kỹ năng và kích thích sự sáng tạo của trẻ: - Trẻ biết chia nhóm kể chuyện, tạo cho trẻ cảm giác tự tin, mạnh dạn, nhanh nhẹn và linh hoạt qua việc trẻ biểu diễn hoặc đóng kịch. - Tạo điều kiện cho trẻ tự thỏa thuận và tự chọn vai kể theo ý thích về sự sáng tạo của trẻ. Có thể dùng lời để khuynế khích , động viên trẻ thực hiện các vai diễn sáng tạo. *. Làm quen văn học thể laọi truyện kể kết hợp với các bộ môn khác: - Theo phương pháp dạy học tích hợp các bộ môn làm quen văn học có thể lồng ghép, kết hợp với tất cả các bộ môn khác và giúp cho các bộ môn khác trở nên sinh động hơn. Ví dụ: Môn Âm nhạc: Đề tài: Câu chuyện: “ Cây táo thần” có thể cho trẻ hát và vận động bài “ Gieo hạt, trồng cây” Đề tài: “Nhổ củ cải”, cho trẻ vận động theo bài: “Củ cải trắng”. Môn MTXQ: Đề tài: Động vật nuôi trong gia đình, câu chuyện “Gà trống, mèo con và cún con”, trẻ biết tên, đặc điểm, nơi sống của một số con vật nuôi trong gia đình. Môn Toán: Đề tài: “ Cao hơn - thấp hơn” Câu chuyện: “Cây khế”. Trẻ áp dụng được sự so sánh đặc điểm về ngoại hình của hai anh em. *. Tổ chức ôn luyện mọi lúc mọi nơi, ôn luyện thông qua lễ hội: - Ôn luyện mọi lúc mọi nơi cũng là một biện pháp giúp ổn định trẻ. Thông qua các hoạt động tổ chức lễ hội tôi tổ chức hoạt động kể chuyện, đóng kịch theo một chương trình biểu diễn văn nghệ mà 100% trẻ được tham gia nhằm giúp trẻ hứng thú với bộ môn làm quen văn học thể loại truyện kể cho trẻ. Ví dụ: Lễ hội 22/ 12 trẻ kể chuyện sáng tạo về chú bộ đội, tết dương lịch, các hội thi bé kể chuyện giỏi. *. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền với phụ huynh: - Làm bảng tin về chương trình dạy theo chủ đề và thay tin hàng tuần để phụ huynh biết và phối hợp với giáo viên rèn luyện thêm cho trẻ ở nhà. - Vận động phụ huynh hỗ trợ vật liệu mở: Thùng giấy, sách báo cũ, chai nhựa, quần áo cũ, dụng cụ hóa trang… *. Xây dựng kế hoạch: Tôi xây dựng kế hoạch phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ theo từng quý xuyên suốt trong một năm học: Tháng 9 + 10: Tôi chú ý chọn những bài tập luyện tai nghe cho trẻ nhằm phát triển thính giáng âm vị ( cho trẻ nghe những bài hát, những câu chuyện, những bài đồng dao…). Tôi tạo mọi điều kiện để trẻ tập trung chú ý luyện khả năng chú ý thính giác cho trẻ thông qua các bài tập, trò chơi (tai ai thính, ai đoán giỏi…), Cố gắng phát âm đúng, không phát âm sai vì trẻ hay bắt chước. Sửa lỗi phát âm cho trẻ khi phát âm sai mọi lúc mọi nơi trong các hoạt động hàng ngày. Tháng 11 + 12: Tôi tập trung vào việc làm thế nào để tăng vốn từ cho trẻ? Giáo viên cần nói diễn cảm, rõ ràng, giải thích nghĩa của từ khó giúp cho trẻ nhiểu, nhớ và vận dụng được từ để đặt câu. Để đẩy mạnh sự phát triển khả năng vận động cảu cơ quan phát âm cần tập cho trẻ các bài tập luyện cơ quan phát âm thích hợp: Con có cái ca, cô cắt quả cà, con cầm cái ca, cùng cười ha ha. Có con ba ba, đội nhà đi trốn, bì bà bì bõm, bé bắt ba ba. Bà bảo bé, bé búp bê, bé bồng, bé bé, búp bê ngoan nào. Có những trò chơi phát triển vốn từ cho trẻ. Ví dụ: Trò chơi đố con gì kêu, đố ai kể được nhiều nhất, đố ai nhanh , đố ai nói giỏi, đố ai nói ngược. Tháng 1 + 2: Vẫn xuyên suốt hai nhiệm vụ ở trên nhưng tôi đào sâu vấn đề luyện trí nhớ cho trẻ qua các bài thơ, đồng dao đặc biệt là những câu chuyện kể đầy lôi cuốn và hấp dẫn. Gợi ý cho trẻ sử dụng những loại câu đơn giản, đủ nghĩa. Tháng 3 + 4 + 5: Tôi xây dựng những trò chơi giúp trẻ nói đúng ngữ pháp, nói mạch lạc. Ví dụ: Trẻ “ nói theo mẫu câu” của một câu chuyện nào đó: “Người anh tham lam chiếm hết ruộng vườn, nhà cửa, trâu bò của cha mẹ để lại” ( Truyện cây khế) hoặc “nói nốt câu” Ví dụ: Cô nói: Bà biến thành chim vì…Trẻ nói: bà muốn ba đi tìm nước uống, hoặc vì Tích Chu ham chơi không lyấ nước cho bà… Cô lưu ý thay đổi các mẫu câu khác nhau tùy theo lứa tuổi, cho trẻ chơi từ dễ đến kh1, các mẫu câu phức tạp dần lên hoặc “đặt câu với từ”, “kể nốt truyện”, “kể chuyện”…để củng cố kỹ năng nói đúng ngữ pháp, phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo của trẻ. Một khi đã có một số lượng vốn từ phong phú trẻ sẽ tự tin kể chuyện, đóng kịch… một cách hứng thú và tự tin nhất. c. Làm đồ dùng đồ chơi: - Tôi tận dụng tất cả những nguyên vật liệu có thể sử dụng làm đồ chơi: Sách báo, lịch cũ, lõi giấy vệ sinh, ống lon, chai nhựa, xốp, vải vụn, cành cây khô, quần áo cũ nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ. - Dựa vào từng chủ đề tôi triển khai kế hoạch làm đồ dùng đồ chơi một cách cụ thể mỗi chủ đề đều có một bộ đồ dùng đồ chơi phục vụ cho quá trình giảng dạy và vui chơi của trẻ.Hàng tháng tôi và các cháu đều sử dụng những vật liệu có sẵn như giấy vụn, các laọi lá, các màu, hạt bột… để xé dán thành những cuốn tranh truyện do trẻ tự làm bằng những hình ảnh sưu tẩm được, gọi ý cho trẻ tự kể chuyện theo trí tưởng tượng của trẻ. - Từ những quần áo, vải vụn, ống giấy… Tôi hướng dẫn trẻ làm các con rối thật xinh xắn từ những câu chuyện cổ tích trẻ được học hoặc được nghe hoặc làm các nhân vật theo sự sáng tạo của trẻ. - Khi kể chuyện tôi thường sử dụng những loại sách tranh truyện do đó việc vẽ trang trí cũng góp phần làm cho trẻ hứng thú khi nghe, xem hoặc muốn được sử dụng sách. Trẻ sẽ biết cách sử dụng sách và giữ gìn sách, tranh truyện hơn. d. Phối hợp với phụ huynh: - Tôi thường trao đổi, động viên phụ huynh cố gắng dành thời gian để tâm sự với trẻ và lắng nghe trẻ nói. Khi trò chuyện với trẻ phải nói rõ ràng mạch lạc, tốc độ vừa phải để trẻ nghe cho rõ. - Cha mẹ, người thân cố gắng phát âm đúng để trẻ bắt chước. - Khuyến khích hoặc tuyên truyền với phụ huynh cung cấp kinh nghiệm sống cho trẻ. Tránh không nói tiếng địa phương, cần tránh cho trẻ nghe những hình thái ngôn ngữ không chính xác. 2. TỔ CHỨC THỰC HIỆN: a. Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện kể, tôi cho trẻ kể lại truyện, chơi đóng kịch và đóng vai theo chủ đề: * Dạy trẻ kể lại truyện: - Trẻ tái hiện lại một cách mạch lạc, diễn cảm tác phẩm văn học mà trẻ đã được nghe. Trẻ sử dụng nội dung, hình thức ngôn ngữ đã có sẵn của các tác giả và của giáo viên. Tuy nghiên yêu cầu trẻ không học thuộc lòng câu chuyện. Trẻ phải kể bằng ngôn ngữ của chính mình, truyền đạt nội dung câu chuyện một cách tự do thoải mái nhưng phải đảm bảo nội dung cốt truyện. - Yêu cầu đối với trẻ: + Kể nội dung chính của câu chuyện, không yêu cầu trẻ kể chi tiết toàn bộ nội dung tác phẩm. Lời kể phải có các cấu trúc ngữ pháp. Khuyến khíc trẻ dùng ngôn ngữ của chính mình kể lại. Giọng kể diễn cảm, to, rõ, không ê a ấp úng, cố gắng thể hiện đúng ngôn ngữ đối thoại hay độc thoại. + Chuận bị: Tiến hành trước giờ học, kể chuyện cho trẻ nghe. Trước khi kể cô giao nhiệm vụ ghi nhớ và kể lại. + Tiến hành: Đàm thoại với trẻ về nội dung câu chuyện. Đàm thoại nhằm mục đích giúp trẻ nhớ lalị nội dung câu chuyện, giúp trẻ xây dựng dàn ý câu chuyện kể, lựa chọn hình thức ngôn ngữ (cách dùng từ đặt câu). Ví dụ: Truyện cây khế: Theo con tính cách người em như thế nào? + Yêu cầu với câu hỏi: Đặt câu hỏi về tên nhân vật, thời gian, không gian, hành động chính, lời nói, cá tính nhân vật, không nên đặt quá nhiều câu hỏi chi tiết vụn vật. Ví dụ: Truyện: Dê con nhanh trí: Dê mẹ dặn dê con như thế nào? Câu hỏi phải phù hợp với trẻ cả về hình thức ngữ pháp và nhận thức. Khi đàm thoại cô cần lưu ý giới thiệu cho trẻ biết thêm các từ đồng nghĩa những cụm từ thay thế để tạo điều kiện cho trẻ lựa chọn từ để kể. Tôi dùng ngôn ngữ ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với nhận thức của trẻ kể lại nội dung tác phẩm: Cô kể diễn cảm, lời kể có các mẫu câu cần luyện cho trẻ (mới). Mẫu truyện của cô có tác dụng chỉ cho trẻ thấy trước kết quả trẻ cần đạt được: Về nội dung, độ dài, trình tự câu chuyện. Ví dụ: Câu chuyện cây khế: Ngày xửa ngày xưa có hai anh em nhà kia cha mẹ mất sớm. Khi người anh lấy vợ, người anh không muốn ở chung với người em nữa. Người anh tham lam chiếm hết ruộng vườn, trâu bò, nhà cửa cảu cha mẹ để lại, chỉ cho người em một cây khế và một túp lều nhỏ. + Thời gian đầu khi chưa quen trẻ kể theo mẫu cảu cô (hoặc đối với trẻ kém). Khi trẻ đã quen cô khuyến khích trẻ kể bằng ngôn ngữ của mình. Tôi đặc biệt lưu ý khi trẻ kể: Trẻ phải quay mặt xuống các bạn, kể với tốc độ vừa phải, giọng rõ ràng, tư thế tự nhiên. Trong quá trình kể, trẻ đứng sai tư thế, phát âm sai cô nên để trẻ kể xong mới sửa cho trẻ. Khi cô gọi trẻ lên, trẻ không kể, cô nên đặt câu hỏi gợi ý để trẻ trả lời giúp trẻ mạnh dạn, có thói quen giao tiếp tốt. Nếu trẻ quên, cô có thể nhắc hoặc đặt câu hỏi cho trẻ nhớ. Trẻ kể xong, cô nhận xét, đánh giá truyện kể của trẻ, không nên để đến cuối giờ trẻ sẽ quên mất những ưu nhược điểm của mình hay của bạn. Cô cần nhận xét đúng, chính xác để có tác dụng khuyến khích, động viên trẻ, nhận xét cả về nội dung, ngôn ngữ tác phong. * Chơi đóng vai theo chủ đề: - Khi chơi đóng vai theo chủ đề, trẻ phải tham gia vào cuộc nói chuyện với bạn để phan vai, trao đổi với nhau trong khi chơi, trẻ bắt chước các nhân vật mà trẻ đóng vai, làm cho ngôn ngữ đối thoại của trẻ thêm phong phú và đa dạng. Ví dụ: Chủ đề: Giai đình: Nấu ăn: Trẻ tự phân vai chơi của mình: Mẹ đi chợ, nấu ăn, chăm sóc các con, ba đi làm, ông bà kể chuyện cho các cháu nghe. * Chơi đóng kịch: - Tổ chức cho trẻ chơi đóng kịch là một phương pháp tốt để phát triển ngôn ngữ đối thoại cho trẻ. Nội dung kịch được chuyển thể từ tác phẩm văn học mà trẻ đã được làm quen. Trẻ làm quen với các mẫu câu văn học đã được gọt giữa chọn lọc. Khi đóng trẻ cố gắng thể hiện đúng ngữ điệu, tính cách nhân vật mà trẻ đóng, giúp cho ngôn ngữ của trẻ mang sắc thái biểu cảm rõ rệt. Ví dụ: Chủ đề: Gia đình, câu chuyện Tích Chu. Cháu Quốc Tuấn đóng vai Tich Chu ( lúc đầu ham chơi, thái độ không vâng lời), sau biết lỗi (tỏ thái độ biết nhận lỗi, giọng trầm): Bà ơi, bà ở đâu? Bà ở lại với cháu. Cháu sẽ mang nước cho bà, bà ơi! Cháu Cẩm Tú đóng vai bà (giong run run, dứt khoát): Bà đi đây! Bà không về nữa đâu! Cháu Phương Anh đóng vai Bà Tiên (tính cách hay giúp đỡ mọi người, giọng dịu dàng, nhỏ nhẹ): Nếu cháu muốn bà cháu trở lại thành người thì cháu phải đi lấy nước suối tiên cho bà cháu uống. Đương lên suối tiên xa lắm, cháu có đi được không? b. Ở các hoạt động khác dạy trẻ kể lại những sự vật hiện tượng trẻ quan sát được. *. Hoạt động ngoài trời: Dạy trẻ kể về những hiện tưởng, sự kiện trong cuộc sống hàng ngày, những điều trẻ đã biết, tưởng tượng… Trẻ phải tự chọn nội dung, hình thức ngôn ngữ sắp xếp chúng theo một trật tự nhất định. Tôi chủ yếu tập cho trẻ kể theo hai dạng: Kể chuyện miêu tả, kể chuyện theo chủ đề. * Kể chuyện miêu tả: Tôi dạy trẻ nêu tên, đặc điểm theo thứ tự khảo sát, tính liên hệ, kết thúc nêu ý nghĩa hoặc hành động. Ví dụ: miêu tả hiện tượng thời tiết: trời âm u, may đen, gió thổi mạnh sắp mưa. trời * Kể chuyện theo chủ đề: Tôi chủ yếu rèn cho trẻ truyền đạt lại những sự kiện xảy ra trong một thời gian nhất định của nhân vật nào đó. Ví dụ: Truyện: Dê con nhanh trí : Con cáo giả làm dê mẹ lúc dê mẹ đi vắng, nó giả giọng dê mẹ, nó nhúng chân vào bột cho chân trắng giống dê mẹ. Nhưng cáo vẫn bị dê con phát hiện ra và đuổi cáo đi. b. Hoạt động góc: * Dạy trẻ kể chuyện theo tri giác: Không ngừng phát triển ở trẻ ngôn ngữ độc thoại, nên cho trẻ nói đúng ngữ pháp, tư thế tác phong khi nói mà còn góp phần phát triển tốt các cơ quan cảm giác của trẻ. Bởi vì trẻ có quan sát tốt mới kể miêu tả được chính xác. - Mục đích: phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ, phát triển tư duy logic, khả năng quan sát. Tôi tập trung dạy cho trẻ kể chuyện tri giác theo 3 loaọi: Kể về đồ chơi, kể về vật thật, kể chuyện theo tranh. - Chuẩn bị: + Chọn đồ chơi: Đồ chơi đẹp, màu sắc rõ rangà, tươi sáng, hấp dẫn về hình thức để làm cho trẻ thích thú, rung động khi kể. + Chọn vật thật: Có thể là đồ dùng hàng ngày: Gương, lược, khăn, ly, chén, váy áo, tàu xe, xe máy, túi sách…Những công cụ lao động: Cuốc, xẻng, máy giặt… Súc vật nuôi trong nhà: Mèo, chó, gà… Cây trồng, hoa, thiên nhiên, phong cảnh…cho trẻ kể về những đồ vật từ đơn giản đến phức tạp. + Chọn tranh: Nên chọn tranh có màu sắc tươi sáng, bố cục rõ ràng, không có quá nhiều chi tiết rườm rà. Có thể là tranh đơn hoặc tranh liên hoàn. - Tổ chức cho trẻ làm quen với tranh hoặc vật thật trước một vài hôm để trẻ quan sát, xác định màu sắc, đặc điểm, cách chơi, cách sử dụng. -Thời gian đầu trẻ kể theo mẫu của cô. Dau đó có thể là trẻ yếu kể theo mẫu của cô. Để tập cho trẻ kể, cô có thể cầm con rối để kể từng câu một. Sau đó đặt câu hỏi để trẻ kể về con rối của trẻ. Ví dụ: Búp bê của cô là người anh nhé, còn của con là gì? Người anh có nhà to, nhiều trâu bò, ruộng vườn. Còn người em có gì? Khi trẻ kể thạo, trẻ tự kể mà không cần mẫu của cô. Khi trẻ kể tôi thường nhắc trẻ: Trẻ phải đứng quay mặt về phía các bạn. Giọng kể rõ ràng, tốc độ hợp lí, tư thế tự nhiên thoải mái. Khi trẻ kể tác phong không đúng, trẻ kể sai, phát âm ngọng… cô nên để trẻ kể xong rồi mới sửa, nhận xét nhưng không nên dừng lại quá lâu. Nếu trẻ quên hoặc không nói, cô đặt câu hỏi gợi ý giúp trẻ. Sau khi trẻ kể, cô nhận xét đánh giá truyện kể của từng trẻ ngay, không nên để cuối giờ học. * Dạy trẻ kể chuỵên theo trí nhớ: - Mục đích: Phát triển ngôn ngữ mạch lạc, ghi rõ mẫu câu cần luyện. - Chọn đề tài phù hợp với nhận thức và kinh nghiệm của trẻ. Để trẻ nghi nhớ một cách có chủ đích chuẩn bị kể được tốt, tôi thường giao nhiệm vụ trước cho trẻ. Ví dụ: Ngày mai là ngày cuối tuần, các con ở nhà làm gì? Các con chú ý nhớ những việc đã làm hoặc được đi chơi thế nào để kể lại cho cô nhé. Trước tiên tôi chọn những đề tài chung (hoạt động mà cả lớp cùng tham gia) khi trẻ đã quen với cách kể, cô cho trẻ kể theo kinh nghiệm của trẻ. * Dạy trẻ kể chuyện sáng tạo: - Yêu cầu: truyện kể mạch lạc, logic, các câu nói đúng ngữ pháp, thể hiện rõ ngôn ngữ đàm thoại hay độc thoại trong khi kể. Các dạng kể chuyện sáng tạo: Kể nốt truyện, kể theo đề tài và dàn ý cho trước, kể theo chủ đề tự chọn, kể theo mô hình. - Chuẩn bị: Cô kể một đoạn truyện rồi yêu cầu trẻ suy nghĩ kết thúc câu chuyện (giao nhiệm vụ). Cô cho trẻ xem mô hình trước một ngày, đàm thoại gợi ý. Gợi ý trước đề tài để trẻ tự suy nghĩ. - Tổ chức sinh động để phát huy trí tưởng tượng của trẻ, giúp trẻ xây dựng câu chuyện một cách hoàn chỉnh theo ý của từng cá nhân. - Một số cháu đã kể chuyện được khi sử dụng mô hình, sách tranh, con rối, tranh ảnh sưu tầm… Sau mỗi lần kể tôi chú ý nhận xét kĩ lời kể của trẻ và tạo mọi cơ hội cho trẻ được kể chuyện sáng tạo. *. Thông qua tuyên truyền với phụ huynh: Tuyên truyền dưới nhiều hình thức, bảng tuyên truyền đẹp, thay đổi nội dung hình ảnh phù hợp với chủ đề. Ví dụ: Chủ đề: Thế giới thực vật - Tết nguyên đán: Bảng tuyên truyền nên có hình ảnh phù hợp, những bài thơ, câu chuyện, bài hát, đồng dao… có phần giao lưu giữa lớp với phụ huynh. - Tuyên truyền phát thanh: Bài phát thanh có nội dung theo chủ đề, những câu chuyện hấp dẫn lôi cuốn. Phát thanh vào giờ đón, trả trẻ để phụ huynh và cháu được nghe. - Tuyên truyền qua các góc chơi, đặc biệt qua góc học tập sách: Có kệ để sách, treo tranh, hình ảnh xinh xắn… thay đổi thường xuyên để lôi cuốn trẻ. - Giáo viên tích cực giao lưu với phụ huynh vào giờ đón, trả trẻ: động viên phụ huynh dành thời gian kể chuyện, độc truyện cho cháu nghe trước khi đi ngủ, lắng nghe trò chuyện với con giúp con phát triển ngôn ngữ mạch lạc. Từ đó nhận ra sự phát triển ngôn ngữ, tình cảm của trẻ như thế nào theo từng tháng. Vận động phụ huynh đóng góp đồ dùng học tập phù hợp với chủ đề. Kết quả: Qua một số biện pháp hữu ích tôi thấy đạt được kết quả như sau: - 95% vốn từ của trẻ phát triển rõ rệt. Trẻ nói rõ ràng mạch lạc hơn, nói nhiều câu có nghĩa đầy đủ. Trẻ đã phân biệt được ý nghĩa một số từ. - 85% Kinh nghiệm sống của trẻ đã phong phú hẳn lên, trẻ hứng thú tham gia học, phát biểu, kể chuyện và đóng kịch. - 80% đối với trẻ mới yếu chậm đã mạnh dạn tham gia vào các hoạt động: Đóng kịch, kể chuyện. - 85% Trẻ biết kể chuyện sáng tạo và phát huy khả năng tưởng tượng tốt. - 85% trẻ kể chuyện theo trí nhớ tốt. - 90% Trẻ tham gia đóng kịch thể hiện tốt vai diễn. - 90% Trẻ đã phát âm chính xác hơn, ít sử dụng ngôn ngữ địa phương. - 100% Phụ huynh ủng hộ cho trẻ mang thêm đồ dùng, đồ chơi, tranh ảnh, sách báo sưu tầm, truyện tranh phù hợp với chủ đề, góp phần phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ, trẻ hứng thú hơn khi học môn làm quen văn học thể loại truyện kể. B: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Thực trạng nghiên cứu Để đưa ra được giải pháp tốt nhất nhằm nâng cao chất lượng cho bộ phát triển ngôn ngữ mạch lạc để nghiên cứu đối tượng trẻ trong trường, hầu hết các cháu nhà đều ở xa trường, điều kiện kinh tế khó khăn, phương tiện giao thông chưa thuận lợi, trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi chưa đáp ứng được nhu cầu học tập cho trẻ. Do vậy ảnh hướng lớn đến các môn học nói chung và môn phát triển ngôn ngữ mạch lạc nói riêng. Trẻ 5 tuổi mới bước lên bậc học mẫu giáo cơ tay rất non nớt, hoạt động rất kém, mặt khác đa số các cháu chưa có sự kèm cặp ở nhà, nhiều gia đình chưa quan tâm đến việc học của con cũng như tạo môi trường thuận lợi cho trẻ làm quen với bộ môn, kích thích về mặt ngôn ngữ còn hạn chế. Chính vì sự phát âm chưa chuẩn của trẻ 5 tuổi khiến tôi băn khoăn suy nghĩ nghiên cứu một số biện pháp để nâng cao chất lượng học tập môn “Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện kể”. 2. Điều tra khảo sát: Khảo sát đối tượng mà sáng kiến đưa ra trên thực tế của trẻ mẫu giáo 4 - 5 là lớp Huổi Dương của trường Mầm Non Hoa Chăm Pa - Sốp Cộp. Tổng số Giớit tính Tuổi Dân tộc 22 Nam Nữ 10 13 Lớn Kinh Thái Mông Khơ mú 0 0 0 22 * Năm học 2009 - 2010: Lớp Mẫu giáo A trước khi áp dụng sáng kiến. + Điều tra chất lượng học sinh: TỔNG SỐ ĐẠT CHƯA ĐẠT 22 8/22 (42,3%) 15/26 (57,7%) 3. Cách thức áp dụng - Biện pháp 1: Thử nghiệm lần 1: BÀI: VÌ SAO HƯƠU CÓ SỪNG I. Mục đích yêu cầu: 1. Kiến thức: - Trẻ biết tên truyện, hiểu được nội dung câu truyện, nhớ tên nhân vật trong truyện, trẻ đọc được 1 số từ mạch lạc theo yêu cầu của cô. - Trả lời được các câu hỏi của cô. 2. Kĩ năng: - Rèn kỹ năng trả lời câu hỏi, diễn đạt câu hỏi mạch lạc. - Phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 3. Giáo dục: - Giáo dục cho trẻ biết yêu quý, chăm sóc các con vật. II. Chuẩn bị: - Cô: Tranh minh họa nội dung của câu chuyện. Tranh các con vật để trẻ chơi ghép tranh. - Trẻ: Ngồi chiếu, tâm thế thoải mái. III. Cách tiến hành: Hoạt động của cô 1. Hoạt động 1: Bé yêu âm nhạc - Cô cho trẻ hát bài “ong và bướm” - Các con vừa nghe bài hát gì? - Trong bài hát nhắc đến những con gì? - Ngoài con ong và bướm ra con còn biết những Hoạt động của trẻ - Trẻ nghe bài hát. - Trẻ trả lời. - Trẻ trả lời. - Trẻ trả lời. con côn trùng nào?? - Ong và bướm có lợi ích gì? - Chúng sống ở đâu? => Ong và bướm đều là những loài côn trùng vừa có ích lại vừa có hại, Ong cho mật rất tốt đối với sức khoẻ con người có thể dùng làm thuốc chữa bệnh nhưng nếu vô tình sờ vào nó thì rất dễ bị đốt, con bướm có phấn rất ngứa. - Chúng sống ở đâu? Ở trong rừng có rất nhiều loài động vật và côn trùng có một câu truyện bạn hươu hay giúp đỡ mọi người nhưng lại nhút nhát lần này bạn giúp đỡ bác gấu không biết có được không các con cùng chú ý lắng nghe nhé. 2. Hoạt động 2: Bé nghe kể chuyện * Cô kể chuyện - Cô kể lần 1: Diễn cảm kèm cử chỉ điệu bộ. - Cô nhắc tên truyện, tên tác giả. * Giảng nội dung: Nội dung câu chuyện muốn nói về Hươu rất nhút nhát. Cái gì Hươu cũng sợ, nhưng bạn bè rất quý Hươu vì Hươu nhanh nhẹn, chăm chỉ và tốt bụng. Hươu biết kính trọng yêu thương giúp đỡ mọi người, như bác Gấu bị ốm nặng Hươu vào rừng lấy thuốc giúp bác Gấu. Hươu có tấm lòng nhân hậu, mọi người ai cũng rất quý hươu, từ đó hươu trở thành người mạnh mẽ can đảm. - Cô kể lần 2: Kèm tranh minh hoạ nội dung truyện. - Cho trẻ đọc từ “ Vì sao hươu có sừng” * Đàm thoại: - Cô vừa kể cho các con nghe chuyện gì? - Trong câu chuyện có những con vật gì? - Hươu là con vật như thế nào? - Hươu nghe tin bác Gấu ốm thì Hươu đã làm gì? - Bác Gấu đã nói gì với Hươu? - Hươu đã làm gì? - Trẻ trả lời - Trẻ lắng nghe. - Trẻ chú ý - Trẻ lắng nghe cô kể chuyện. - Trẻ chú ý - Trẻ chú ý lắng nghe. - Trẻ đọc. - “ Vì sao hươu có sừng” - Hươu, bác Gấu, thần cây - Hươu rất nhút nhát. Cái gì Hươu cũng sợ, nhưng bạn bè rất quý Hươu vì Hươu nhanh nhẹn, chăm chỉ và tốt bụng. - Hươu xin phép mẹ đến thăm bác Gấu. - Bệnh của bác nặng lắm. Chỉ có Thảo Huyền mọc trong khe núi sâu mới chữa khỏi được. - Hươu chạy nhanh như tên bay, để cháu vào rừng lấy lá thuốc cho bác. - Khi bóng tối tràn xuống, Hươu cảm thấy sợ và - Thần cây hiện lên và hỏi: núp vào gốc cây khóc thì ai xuất hiện? - Ta cho cháu những cành - Thần cây đã cho Hươu cái gì? cây khỏe khoắn của ta. Cháu hãy đội lên đầu để có thêm sức mạnh! - Hươu đã mang được lá thuốc về chữa bệnh cho - Khi thấy trên đầu Hươu có những cành cây vững chắc. bác Gấu. Trên đầu Hươu xuất hiện gì? - Hươu rở nên can đảm và - Hươu trở nên như thế nào? luôn mang những cành cây trên đầu để tự vệ, chống lại thú dữ . - Những cành cây trên đầu - Mọi người gọi cành cây trên đầu Hươu là gì? Hươu là những chiếc sừng hươu. - Trẻ kể chuyện. * Cho trẻ kể chuyện. - Cho 2 - 3 kể chuyện - Trẻ nhắc lại tên truyện. - Cho trẻ nhắc lại tên truyện. => Giáo dục: Qua câu truyện này muốn nói lên, - Trẻ chú ý lắng nghe. Hươu con rất tốt bụng, hay giúp đỡ mọi người những lúc ốm đâu, nhưng chú lại rất nhút nhát, mà lại chăm chỉ. Có tấm lòng nhân hậu, mọi người ai cũng rất quý hươu. 3. Hoạt động 3: Trò chơi “Ghép tranh” - Cô chia trẻ làm 2 đội thi đua nhau ghép 2 bức - Trẻ chơi trò chơi. tranh về các con vật sống trong rừng. Đội nào ghép bức tranh đúng và xong trước sẽ là đội thắng cuộc. - Trẻ chú ý - Nhận xét, tuyên dương trẻ. * Kết quả thử nghiệm lần 1: TỔNG SỐ 22 ĐẠT CHƯA ĐẠT 16/22 = 72 % 6/22 = 28% Kết quả trên cho thấy chất lượng có tăng lên đáng kể, nhưng chưa được cao lắm nên tôi quyết định thử lại lần 2: - Biện pháp 2: Thử nghiệm lần 2: BÀI: GIỌT NƯỚC TÍ XÍU I. Mục đích yêu cầu: 1. Kiến thức: Trẻ biết tên câu chuyện, nhớ tên nhân vật và hiểu nội dung câu chuyện, biết kể tóm tắt theo cô. 2. Kỹ năng: - Rèn kỹ năng quan sát, chú ý, ghi nhớ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. - Phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 3. Giáo dục: Giáo dục trẻ ngoan chú ý học bài, biết yêu quý và bảo vệ nguồn nước. II. Chuẩn bi: - Cô: Tranh minh hoạ câu chuyện, giõy, bút. - Trẻ: Trang phục gọn gàng, tâm lý thoải mái III. Cách tiến hành: Hoạt động của cô Hoạt động của trẻ 1. Hoạt động 1: Trò chuyện về chủ điểm - Cho trẻ đọc bài thơ “Nắng bốn mùa” - Trẻ đọc - Chúng mình vừa đọc bài thơ gì? - Trẻ trả lời. - Trong bài thơ nói về những mùa gì? - Trẻ trả lời. - Trong một năm có mấy mùa? - Trẻ trả lời. - Các con ạ trong một năm có 4 mùa, xuân, - Trẻ chú ý lắng nghe. hè, thu, đông, thời tiết của mỗi mùa cũng khác nhau, mùa nào cũng có lợi ích riêng của nó. Vì vậy các con phải biết ăn mặc phù hợp với thời tiết, yêu quý các mùa trong năm. - Trẻ lắng nghe. - Các con ạ! Nước rất cần cho đời sống hàng ngày đối với con người và động, thực vật. Vì vậy để biết được sự tích về nước thì giờ học hôm nay cô sẽ kể cho các con nghe một câu chuyện để biết được chuyện gì các con hãy chú ý lắng nghe cô kể nhé. 2. Hoạt động 2: - Cô kể lần 1 bằng cử chỉ, điệu bộ. - Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện: "Giọt nước tý xíu" của tác giả Nguyễn Linh. - Trẻ chú ý nghe cô kể. - Trẻ chú ý lắng nghe. - Cô kể diễn cảm lần 2: Theo tranh minh - Trẻ chú ý lắng nghe. họa. * Giảng nội dung: Từ một giọt nước biển cả Tí xíu đã được ông trời chiếu những tia nắng ấm biến thành hơi bay lên trời, gặp cơn gió lạnh tí xíu trở thành những đám mây, một tia sáng vạch ngang bầu trời, một tiếng sét inh tai, tí xíu lại trở thành những giọt nước mưa rơi xuống mặt đất, ao, hồ, sông suối, rồi theo dòng lại chạy ra biển. * Đàm thoại. - Giọt nước ti xíu. - Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện - Trẻ trả lời. gì? - Trong câu chuyện có những ai? - Trẻ trả lời. - Tí xíu là ai? - Trẻ trả lời. - Tí xíu đến từ đâu? - Trẻ trả lời. - Ai rủ ti xíu đi chơi? - Trẻ trả lời. - Tí xíu có đi chơi không? - Thành hạt mưa. - Ông mặt trời đã làm thế nào để tí xíu bay - Trẻ trả lời. lên được? - Trẻ trả lời. - Tí xíu cùng các bạn đi những đâu? - Cuối cùng tí xíu và các bạn đã biến thành - Trẻ chú ý lắng nghe. gì? - Giáo dục: Phải trải qua rất nhiều quá trình như vậy mới tạo ra được hạt mưa, mưa rất cần cho đời sống hàng ngày đối với con người và động, thực vật, mưa giúp ích cho - Trẻ chú ý cây cỏ hoa lá đâm chồi nảy lộc, cho sinh hoạt hàng ngày của con người vì vậy chúng mình phải biết tiết kiệm nước, không vứt rác xuống sông, kênh mương gây ô nhiễm nguồn nước, vứt rác đúng nơi quy định, giữ gìn bảo vệ môi trường nhé. * Dạy trẻ kể truyện: - Cô cho cả lớp kể đồng thanh (Cô là người dẫn chuyện) - Cho tổ thi đua nhau kể, mỗi tổ 1 đoạn luôn phiên nhau. - Lớp kể. - Trẻ kể theo tổ. - Trẻ kể theo nhóm. - Cho kể kể theo nhóm, mỗi nhóm kể 1 đoạn - Cá nhân kể. (Cô là người dẫn chuyên) - Gọi 1 cá nhân kể hết toàn bộ câu chuyện. - Cô chú ý nhận xét tuyên dương trẻ. - Trẻ vẽ. 3. Hoạt động 3: - Cô cho trẻ vẽ mưa.. - Cô phát giấy, bút cho trẻ, gợi ý trẻ vẽ - Trẻ ra chơi. đúng, đẹp. - Hết giờ cho trẻ ra chơi. * Kết quả thử nghiệm lần 2: TỔNG SỐ ĐẠT CHƯA ĐẠT 22 21/22 (95%) 1/22 (5%) 4. KẾT QUẢ VIỆC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VÀO GIẢNG DẠY SO VỚI TRƯỚC KHI ÁP DỤNG, KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT. a. Trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Điều tra chất lượng học của trẻ: TỔNG SỐ ĐẠT CHƯA ĐẠT 22 8/22 (42,3%) 15/26 (57,7%) b. Kết quả sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: * Lần 1: TỔNG SỐ 22 ĐẠT CHƯA ĐẠT 16/22 = 72 % 6/22 = 28% * Lần 2: TỔNG SỐ ĐẠT CHƯA ĐẠT 22 21/22 (95%) 1/22 (5%) Qua so sánh kết quả đầu năm và cuối năm có nâng cao rõ rệt. Điều đó chứng tỏ sáng kiến kinh nghiệm khá phù hợp với trẻ, dễ thực hiện, hiệu quả áp dụng khá cao, phù hợp với điều kiện học tập tại trường và ở nhà của trẻ. c. Kết luận chung: Như chúng ta đã biết: “Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện kể” là môn học rất khó đối với trẻ nhưng để trẻ học được và hứng thú học thì người giáo viên phải biết vận dụng tích cực các phương pháp dạy học tìm ra cách truyền thụ kiến thức cho trẻ giúp trẻ dễ hiểu và nhằm nâng cao kiến thức cho trẻ nhận biết một cách dễ dàng hơn. Qua những nội dung phương pháp mà tôi đưa ra đối với các môn học khác nói chung và môn “Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện kể”, tôi thấy nhận thức của trẻ trong giờ học đạt được hiệu quả cao hơn sao với cách làm cũ. d. Bài học kinh nghiệm: Qua thực tế vận dụng sáng kiến kinh nghiệm và giảng dạy tôi nhận thấy để có tiết học sinh động, hấp dẫn lôi cuốn trẻ tích cực tham gia hoạt động một cách tự nhiên thoải mái giúp trẻ tiếp thu tốt kiến thức về môn phát triển ngôn ngữ mạch lạc giáo viên cần: - Nắm chắc phương pháp của bộ môn, tích cực tìm tòi, vận dụng linh hoạt phương pháp giáo dục mới, đồ dùng sáng tạo hợp với bài dạy, câu hỏi đưa ra hợp lý kích thích tính hứng thú, đồng thời khuyến khích trẻ đưa ra những câu hỏi thắc mắc của mình trong hoạt động sẽ đem lại kết quả cho giờ học. - Thực sự yêu nghề có lòng nhiệt huyết, tận tâm với nghề. - Phải gần gũi thân mật với trẻ, nắm bắt được tâm sinh lý của trẻ để có biện pháp phù hợp. - Biết tận dụng những nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để tạo ra những đồ dùng đồ chơi gây hứng thú cho trẻ. - Luôn học hỏi nghiên cứu về chuyên môn đồng thời áp dụng công nghệ thông tin vào tiết dạy. - Biết lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp về chuyên môn. - Thường xuyên kết hợp với gia đình có biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ ngày càng đạt kết quả cao. e. Kiến nghị, đề xuất: * Với phòng GD&ĐT Sốp Cộp: Quan tâm, cung ứng đầy đủ trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi nhất là tranh ảnh, dụng cụ vẽ liên quan tới bộ phát triển ngôn ngữ để giáo viên của trường nói chung, bản thân tôi nói riêng thực hiện tốt sáng kiến, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Cung ứng các sách tham khảo, tài liệu liên quan tới đổi mới phương pháp dạy học để bản thân tôi nói riêng, giáo viên bậc học mầm non trong huyện nói chung có điều kiện học tập, tiếp thu kinh nghiệm hay để vận dụng vào thực tế giảng dạy. Tổ chức đánh giá hiệu quả của sáng kiến, triển khai áp dụng trong toàn ngành, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục nói chung. g. Với trường Hoa Chăm Pa: Tiếp tục giúp đỡ tôi hoàn thiện sáng kiến, tạo mọi điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến vào thực tế nhà trường, góp phần đưa sự nghiệp giáo dục của nhà trường trở thành lá cờ đầu cho phong trào thi đua “dạy tốt học tốt”. Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu, giảng dạy ở lớp, ở trường mà tôi đã áp dụng vào trong thực tế trong suốt thời gian qua. Từ những sáng kiến này rất mong có được nhưng ý kiến đóng góp chân thành của Ban Giám hiệu nhà trường, các bạn đồng nghiệp cùng tất cả các cấp lãnh đạo có liên quan giúp tôi hoàn thiện hơn, vững vàng hơn trên con đường truyền thụ kiến thức của mình đến với trẻ. C. TÀI LIỆU THAM KHẢO: Phương pháp dạy trẻ học nói thế nào – Tác giả: Kha - Hai- Nơ -Đich. NXBGD1990 - Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ 5 - 6 tuổi. Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua bộ môn làm quen văn học. Website hỗ trợ giảng dạy và chăm sóc trẻ em: - Tâm lí học trẻ em. ******************************** XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG Sốp cộp ngày tháng năm 2016 KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG Người viết TM: Hiệu trưởng Lò Thị Chinh
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.