Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm tình dục - Quá trình hình thành và phát triển

pdf
Số trang Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm tình dục - Quá trình hình thành và phát triển 8 Cỡ tệp Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm tình dục - Quá trình hình thành và phát triển 141 KB Lượt tải Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm tình dục - Quá trình hình thành và phát triển 0 Lượt đọc Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm tình dục - Quá trình hình thành và phát triển 14
Đánh giá Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm tình dục - Quá trình hình thành và phát triển
4.7 ( 19 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC - QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN Nguyễn Thị Ngọc Linh1 Tóm tắt: Các tội xâm phạm tình dục được quy định rất sớm ngay từ những bộ luật đầu tiên của Việt Nam như Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) và Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long). Qua quá trình phát triển, các quy định này được kế thừa, phát triển, thay đổi trong Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự năm 2015 cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử. Bài viết giới thiệu quá trình hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam về quy định các tội xâm phạm tình dục (XPTD); đồng thời phân tích sâu sắc quy định các tội XPTD ở từng giai đoạn lịch sử, qua đó có sự đối chiếu, so sánh để làm rõ sự kế thừa, tiến bộ và phát triển cũng như chỉ ra những hạn chế, bất cập của việc quy định về nhóm tội phạm này theo tiến trình của lịch sử lập pháp. Trên cơ sở đó tiếp tục rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về các tội xâm phạm tình dục trong thời gian tới. Từ khóa: xâm phạm tình dục, tội phạm xâm phạm tình dục Nhận bài: 05/05/2018; Hoàn thành biên tập: 13/06/2018; Duyệt đăng: 24/07/2018 Abstract: Sexual assault crimes are early regulated in the first codes of law of Vietnam such as Hong Duc code of Law and Gia Long code of Law. Through development process, those regulations have been inherited, developed, changed in the Criminal Code 1985, Criminal Code 1999 and Criminal Code 2015 to be suitable with social-economic conditions at each historical stage. The article introduces formation and development process of Vietnam’s criminal law on regulations regarding to sexual assault crimes and deeply analyzes regulations regarding to sexual assault crimes at each historical statge to clarify inheritance, advance and development as well as points out limitations, shortcomings in regulating this crime group under legislation process to get experience for finalizing criminal law regulations on sexual assault crimes in the coming time. Keywords: sexual assault, sexual assault crime. Date of receipt: 05/05/2018; Date of revision: 13/06/2018; Date of approval: 24/07/2018 Các tội XPTD là những hành vi nguy hiểm cho xã hội và gây ra những hậu quả đau lòng, đáng tiếc. Việc nghiên cứu, làm rõ quá trình phát triển những quy định về các tội XPTD hết sức cần thiết. Bởi, trên cơ sở kết quả nghiên cứu đó sẽ rút ra bài học, kinh nghiệm để hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành đối với loại tội này. 1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 Trải qua quá trình lập pháp lâu dài, bền bỉ, Việt Nam đã có một hệ thống pháp luật nói chung và Pháp luật hình sự (PLHS) nói riêng phát triển, tương đối hoàn thiện. Thời kì phong kiến, bên cạnh các văn bản như chiếu, dụ, điển …, các triều đại lớn của nước ta đều ban hành các bộ luật để quản lý xã hội. Điển hình là: bộ Hình thư thời Lý; Quốc triều hình luật (còn gọi là Bộ Luật Hồng Đức) thời Lê; Hình thư thời Trần; Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn. Tuy nhiên, việc khảo cứu chỉ giới hạn ở phạm vi bộ Quốc triều hình luật thời Lê và bộ Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn, do “bộ Hình Thư thời Lý, các bộ luật thời Trần cho đến nay cũng đều bị thất truyền”2. Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) Quốc triều hình luật gồm sáu quyển, chia thành 13 chương với 722 điều, trong đó các tội XPTD được quy định tại quyển thứ ba, chương Thông Gian bao gồm 3 điều (Điều 403, Điều 404, Điều 409)3, cụ thể như sau: 1 Tiến sỹ, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội Nguyễn Ngọc Nhuận, Nguyễn Tá Nhí (2003), Quốc triều hình luật- Luật hình triều Lê, Nxb Tp.Hồ Chí Minh, tr.9 3 Nguyễn Quang Thắng, Nguyễn Văn Tài (1994), Lê Triều hình luật, Nxb Văn hóa - Thông tin, tr.219, 221 2 23 HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP Điều 403 quy định: “Hiếp dâm thì xử tội lưu hay tội chết và phải nộp tiền tạ hơn tiền tạ về tội gian dâm thường một bậc; nếu làm người đàn bà bị thương thì bị xử tội nặng hơn tội đánh người bị thương một bậc. Nếu làm người đàn bà bị chết thì điền sản kẻ phạm tội phải trả cho nhà người bị chết”. Quy định này cho thấy đường lối xử lý đối với các tội XPTD nói chung và tội hiếp dâm nói riêng của thời Hậu Lê vô cùng nghiêm khắc. Mức hình phạt đối với tội danh này rất nặng, người phạm tội có thể phải bị xử chết. Tuy nhiên, không thể phủ nhận sự tiến bộ của thời kì này khi đã phân hóa TNHS bằng việc quy định thêm các trường hợp: khi nạn nhân bị thương hay chết, ngoài việc người phạm tội bị xử lưu hay chết thì còn bị phạt kèm theo các hình phạt khác; Điều 404 quy định: “Gian dâm với con gái nhỏ từ 12 tuổi trở xuống, dù người con gái thuận tình, cũng xử tội như tội hiếp dâm”. Sở dĩ, Quốc triều hình luật quy định như vậy vì tâm sinh lí của trẻ em dưới 12 tuổi chưa phát triển đầy đủ, nên nhận thức chưa hoàn thiện. Do đó, dù đứa bé gái này đồng ý thì vẫn xử tội và áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc như Điều 403. Đây là quy định bảo vệ trẻ em vô cùng tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức mà những BLHS sau này vẫn tiếp tục tiếp thu, kế thừa; Điều 409 quy định:“Ngục quan và ngục lại, ngục tốt gian dâm với những đàn bà, con gái có việc kiện thì xử tội nặng hơn tội gian dâm thường một bậc. Đàn bà con gái mà thuận tình thì giảm tội ba bậc; bị hiếp thì không xử tội”. Về cơ bản, đây là quy định về hành vi gian dâm, mặc dù đoạn cuối có đề cập đến hành vi hiếp dâm:“nếu họ bị hiếp thì không xử tội”. Tuy nhiên, theo quy định này, chủ thể thực hiện hành vi phạm tội chỉ có thể là quan coi ngục, lại ngục và ngục tốt còn nạn nhân là người đàn bà, con gái có chuyện thưa kiện. Đây cũng có thể coi là quy định tiến bộ, hướng tới bảo vệ nạn nhân là phụ nữ trong bộ luật này. Thông qua các quy định trên nhận thấy, các điều luật quy định về các tội XPTD trong Bộ luật Hồng Đức không mô tả các dấu hiệu phạm tội cụ thể mà chỉ nêu tên hành vi. Quy định hành vi 4 5 phạm tội còn ít, phạm vi xác định hành vi XPTD còn chưa mở rộng, mới dừng lại ở hành vi hiếp dâm. Hơn thế, Bộ luật còn không quy định mô tả cấu thành tội này. Tuy nhiên, khi đối chiếu với Điều 404, có thể hiểu hiếp dâm là hành vi gian dâm nhưng không có sự thuận tình của người phụ nữ. Hay nói cách khác sự thuận tình của người phụ nữ là yếu tố quyết định hành vi đó là hiếp dâm hay gian dâm. Điều đặc biệt, trong xã hội phong kiến mang nặng tư tưởng “trọng nam khinh nữ” nhưng Bộ luật đã có những tư tưởng tiến bộ nhằm bảo vệ trẻ em, phụ nữ. Có thể nói, đây là một bước phát triển rất lớn của PLHS thời kỳ này. Hoàng Việt Luật Lệ (Bộ luật Gia Long) Hoàng Việt Luật Lệ kế thừa, tiếp thu những điểm tiến bộ và khắc phục những hạn chế của pháp luật thời kì trước. Vì vậy, nó được xem là bộ luật “hoàn chỉnh và đầy đủ nhất của thư tịch luật pháp Việt Nam”. Hoàng Việt Luật Lệ Bộ gồm 398 điều, chia thành 22 quyển, trong đó các tội XPTD được quy định tại chương Phạm gian thuộc quyển 18, từ Điều 332 đến Điều 340. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu là các tội XPTD nên chúng tôi chỉ phân tích quy định về hành vi cưỡng gian và cưỡng dâm là hai hành vi xâm phạm tình dục trực tiếp. Trong Bộ luật Gia Long, “hành vi cưỡng gian được hiểu là người đàn ông dùng cường bạo, sức mạnh để giao cấu với người phụ nữ”4, “trường hợp cưỡng gian chưa thành thì bị phạt 100 trượng, lưu 3000 dặm”5. Điều này có nghĩa, hành vi hiếp dâm là người đàn ông dùng sức mạnh, vũ lực khiến người phụ nữ không thể chống trả, chạy thoát và bị giao cấu không theo ý muốn của họ; hình phạt người phạm tội phải chịu là treo cổ (Điều 332). Nếu việc hiếp dâm chưa thành thì sẽ áp dụng hình phạt nhẹ hơn – “phạt 100 trượng, lưu 3000 dặm”. Không chỉ quy định về tội hiếp dâm nói chung, Hoàng Việt Luật lệ còn quy định cả hiếp dâm trẻ em. Đoạn 3 Điều 332 quy định:“cưỡng gian bé gái dưới 12 tuổi, nhân đó đưa đến chết và dụ dỗ bé gái dưới 10 tuổi rồi cưỡng hành dâm ô thì chiếu lệ quang Trương Quang Vinh (Chủ biên) (2008), Tội phạm và hình phạt trong Hoàng Việt luật lệ, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội, tr.176 Nguyễn Quang Thắng, Nguyễn Văn Tài (1994), Hoàng Việt Luật Lệ, Nxb Văn hóa - thông tin, tr.903 24 Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba côn chém ngay, còn cưỡng gian bé gái 12 tuổi trở xuống, 10 tuổi trở lên thì chém (giam chờ), hòa gian thì vẫn chiếu hòa đồng cưỡng mà luận tội, phạt treo cổ (giam chờ)”. Qua đó cho thấy, quan điểm, đường lối xét xử của thời kì này rất nghiêm khắc đối với tội hiếp dâm, đặc biệt đối với hiếp dâm bé gái dưới 12 tuổi. Mọi hành vi giao cấu với bé gái dưới 12 tuổi đều phạm tội hiếp dâm, bởi “bé gái 12 tuổi trở xuống, tình chưa phát, vốn không có lòng dâm, lại dễ bị lừa, lại bị khống chế, tức cũng có hòa tình nhưng do bị dối gạt cho nên hòa gian cũng đồng kẻ cưỡng gian”6. Đây là điểm kế thừa, tiến bộ Quốc triều hình luật của Bộ luật Gia Long. Bên cạnh đó, việc phân hóa hình phạt cũng được thể hiện rõ trong đoạn 3 Điều 332. Căn cứ vào các trường hợp có tính nguy hiểm khác nhau, Hoàng Việt Luật lệ quy định cách thức xử lý khác nhau, có trường hợp chém ngay, có trường hợp chém (giam chờ), treo cổ (giam chờ). Tuy nhiên, hình phạt trong các trường hợp này đều rất nghiêm khắc, người phạm tội đều bị xử chết. Đoạn 2 Điều 332 Hoàng Việt Luật lệ quy định “nếu dùng cường mà hòa hợp thành thì không phải là cưỡng. Như một người bắt một người để dâm thì kẻ gian dâm đó bị treo cổ”. Đây là hành vi một người dùng sức mạnh bắt người khác phải miễn cưỡng giao cấu, hành vi này thực chất là hành vi cưỡng dâm trong BLHS hiện hành. Tuy nhiên, mức hình phạt Bộ luật Gia Long quy định đối với hành vi này rất nghiêm khắc, đó là xử chết bằng hình thức treo cổ. Hoàng Việt Luật lệ ra đời sau nên có nhiều điểm tiến bộ hơn Bộ luật Hồng Đức: phân hóa hình phạt cụ thể hơn trong tội hiếp dâm (quy định mức hình phạt trong trường hợp hiếp dâm chưa hoàn thành thấp hơn trường hợp tội phạm đã hoàn thành, Điều 332:“gian thành treo cổ”, “chưa gian thành phạt trăm trượng, lưu 3000 dặm”; bổ sung thêm hành vi cưỡng dâm là hành vi XPTD. Những điểm tiến bộ này của Hoàng Việt Luật lệ, được các nhà làm luật sau này tiếp thu và tiếp tục hoàn thiện. Bên cạnh ưu điểm, quy định về các tội XPTD trong Hoàng Việt Luật lệ vẫn còn hạn chế nhất định, như: quy định dài 6 dòng, câu chữ nhiều chỗ khó hiểu; chỉ quy các hành vi tội phạm cụ thể nên không có tính khái quát cao, không nêu được đầy đủ bản chất của tội phạm; việc quy định tội danh chưa khoa học khi quy định các hành vi phạm tội khác nhau trong cùng một điều luật (ví dụ như Điều 332 quy định tới 3 hành vi phạm tội đó là ngoại tình, hiếp dâm và cưỡng dâm)... Do chịu sự tác động to lớn của tư tưởng phong kiến và điều kiện kinh tế, xã hội thời kì đó, quy định về các tội XPTD trong Bộ luật Hồng Đức, Hoàng Việt Luật lệ còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên, không thể phủ nhận vai trò và những điểm tiến bộ của hai bộ luật này vẫn đang được tiếp thu, kế thừa. Nghiên cứu hai bộ luật tiêu biểu nói trên là một việc làm vô cùng cần thiết, giúp chúng ta có cái nhìn khái quát về các tội XPTD trong PLHS phong kiến. Đồng thời, đúc rút kinh nghiệm để các quy định về các tội XPTD ngày càng một hoàn thiện, góp phần vào công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu nổ súng xâm lược nước ta. Đất nước chia thành ba miền và ở mỗi nơi các tội XPTD được áp dụng khác nhau. Tại Bắc kỳ, áp dụng bộ Luật hình An Nam ban bố do Dụ ngày 25/8/1921 và nghị định của nguyên Toàn quyền Đông Dương ngày 02/12/1921; Tại Trung kỳ, do đang chịu hai ách đô hộ là chính quyền thực dân và Nhà nước Phong Kiến nên áp dụng song song bộ Hoàng việt Hình luật và nghị định của nguyên Toàn quyền Đông dương ban hành ngày 4/7/1933. Trong đó, Điều 303 của Hoàng Việt Hình luật quy định: “Phạm gian với con gái chưa đến 15 tuổi sẽ bị phạt giam trong ngục tù từ 5 năm đến 10 năm”. Cơ bản, “tội danh và nội dung của các điều luật về các tội phạm gian trong Hoàng Việt Hình luật có sự tương đồng và khá phù hợp với các tội tương ứng trong Hoàng Việt luật lệ”. Tại Nam kỳ áp dụng Hình luật Pháp tu chính (hình luật canh cải) do sắc lệnh ngày 31/12/1912 và sắc lệnh sửa đổi của chính quyền thực dân ban hành. Quy định của PLHS về các tội XPTD ở giai đoạn này chủ yếu phục vụ cho sự cai trị của tầng Nguyễn Quang Thắng, Nguyễn Văn Tài (1994), Hoàng Việt Luật Lệ, Nxb Văn hóa - thông tin, tr.904 25 HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP lớp thống trị trong xã hội, nhưng đã có sự ghi nhận, bảo vệ một trong những quyền cơ bản của con người là quyền được tôn trọng và bảo vệ về tình dục; đồng thời, góp phần vào việc đấu tranh phòng và chống các tội XPTD. 2. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 Sau Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, cùng với sự ra đời của Hiến pháp năm 1946, các quyền cơ bản của công dân bước đầu hình thành. Giai đoạn này: Bắc kỳ vẫn tiếp tục áp dụng Hình luật An Nam; Trung Kỳ vẫn áp dụng Hoàng Việt Hình luật; Nam Kỳ vẫn áp dụng Hình luật pháp tu chính. Vì lẽ đó, quy định về các tội XPTD hầu như không có sự thay đổi so với giai đoạn trước. Năm 1954, việc xét xử các tội phạm nói chung và các tội XPTD nói riêng cơ bản vẫn áp dụng theo luật cũ. Tuy nhiên, từ ngày 10/7/1959, TANDTC ban hành Chỉ thị số 772/TATC, “các cơ quan tư pháp Việt Nam không còn áp dụng pháp luật của chế độ cũ nữa, các tội XPTD được xét xử theo theo án lệ và theo đường lối của Đảng và Nhà nước”7; Năm 1960, TANDTC ra chỉ thị số 1024 ngày 15/06/1960 hướng dẫn xử lý tội hiếp dâm; năm 1967, TANDTC thông qua Bản tổng kết và hướng dẫn số 329- HS2 ngày 11/5/1967 về đường lối xét xử tội hiếp dâm và các tội khác về tình dục. Đây là văn bản toàn diện nhất trong thời gian này, đã đề cập đến cả bốn tội phạm: hiếp dâm, cưỡng dâm (cưỡng bách giao cấu), giao cấu với người dưới 16 tuổi và dâm ô (trái ý muốn và không có giao cấu). Sau khi đất nước thống nhất, các tội XPTD được quy định tại điểm c, điểm d Điều 5 của Sắc luật 03, ngày 15/03/1976 Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam: “c) Phạm tội hiếp dâm thì bị phạt tù từ 2 năm đến 5 năm, hiếp dâm vị thành niên thì bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm. Trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm, chung thân hoặc tử hình. d) Phạm các tội khác xâm phạm thân thể và nhân phẩm của công dân thì bị phạt tù từ 3 7 tháng đến 10 năm”. Ngày 15/4/1976, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 03/BTP-TT hướng dẫn thực hành Sắc luật số 03/SL – 76, trong đó các tội XPTD bao gồm: hiếp dâm, cưỡng dâm, thông gian với gái vị thành niên, dâm ô. Nhìn chung, quy định về các tội XPTD trong giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1985 đã được quy định rải rác trong một số văn bản pháp luật cũng như việc xác định hành vi nào là hành vi XPTD cũng đã được quy định rõ ràng hơn so với thời kỳ phong kiến. Tuy nhiên, do thời kỳ này, cả nước tập trung kháng chiến chống đế quốc Mỹ và khi thống nhất thì sức người, của cải cạn kiệt, điều kiện kinh tế lạc hậu, đời sống nhân dân đói, khổ nên công tác lập pháp nói chung và quy định về các tội XPTD chưa được quan tâm. Quy định các tội XPTD rời rạc, chưa tập trung, thống nhất tại một văn bản và đảm bảo về mặt hiệu lực pháp lý; việc xét xử dựa theo nguyên tắc tương tự nên không tránh khỏi tồn tại, tùy tiện trong việc áp dụng pháp luật. Do đó, nhu cầu cần có văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh quy định về tội phạm nói chung và các tội XPTD nói riêng là một tất yếu. 3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 Năm 1985, BLHS đầu tiên của nước ta được Quốc hội thông qua ngày 27/6/1985 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1986, đánh dấu một bước phát triển quan trọng của Luật hình sự (LHS) Việt Nam. Các tội XPTD được quy định tại Chương 2, gồm: tội hiếp dâm (Điều 112), tội cưỡng dâm (Điều 113), tội giao cấu với người dưới 16 tuổi (Điều 114). Sau đó, các tội XPTD được sửa đổi bổ sung vào năm 1989, năm 1991 và năm 1997. Lần sửa đổi, bổ sung đầu tiên vào năm 1989, các tội XPTD không có gì thay đổi mà chỉ bổ sung thêm khoản 2 vào tội giao cấu với người dưới 16 tuổi đó là “giao cấu với nhiều người hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm” (Điều 114 BLHS). Đây được coi là cấu thành tăng nặng của tội danh này. Đến năm 1991, BLHS năm 1985 tiếp tục sửa đổi, bổ Thủ tướng Chính phủ (1955), Thông tư số 442/TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 19 tháng 1 năm 1955 về việc trừng trị một số tội phạm, Hà Nội 26 Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba sung lần 2, trong đó các tội XPTD chỉ sửa đổi tội hiếp dâm (Điều 112 BLHS), theo hướng tăng nặng hình phạt và quy định các trường hợp cụ thể tại khoản 4: “Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi đều phạm tội hiếp dâm và người phạm tội bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 2 và khoản 3 điều này thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình”. Năm 1997, trước sự diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm cũng như điều kiện kinh tế xã hội cũng có nhiều sự thay đổi, BLHS năm 1985 được sửa đổi lần thứ tư về các tội XPTD theo hướng bổ sung thêm số lượng các tội XPTD: từ 3 tội danh lên 7 tội danh, đồng thời thay đổi tên tội danh ở Điều 114 từ “tội giao cấu với người dưới 16 tuổi” thành “tội giao cấu với trẻ em”; phân hóa TNHS đối với các hành vi XPTD với đối tượng là trẻ em (trước đó chỉ xem là tình tiết định khung tăng nặng) và yêu cầu hình sự hóa trước sự nguy hiểm của một số hành vi mới; bổ sung một số tình tiết định khung tăng nặng, điều chỉnh hình phạt theo hướng tăng nặng. Hình phạt áp dụng với các hành vi XPTD trong BLHS năm 1985 mang tính nghiêm khắc, răn đe rất cao. Loại hình phạt thấp nhất được quy định là hình phạt tù có thời hạn, trong đó mức thấp nhất của loại hình phạt này là 6 tháng tù và mức cao nhất là 20 năm tù. Loại hình phạt nghiêm khắc nhất được quy định là hình phạt tử hình, được quy định trong tội hiếp dâm (Điều 112 BLHS) và tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112a BLHS). Trong BLHS năm 1985, các nhà làm luật không quy định hình phạt bổ sung đối với các tội XPTD. Tóm lại, sau các lần sửa đổi, bổ sung này, quy định về các tội XPTD trong BLHS năm 1985 gồm 7 điều: Điều 112 (tội hiếp dâm), Điều 112a (tội hiếp dâm trẻ em), Điều 113 (tội cưỡng dâm), Điều 113a (tội cưỡng dâm người chưa thành niên), Điều 114 (tội giao cấu với trẻ em). Trong đó, lần sửa đổi thứ tư (năm 1997) là có phạm vi rộng nhất, được xem là dấu mốc quan trọng trong quá trình hoàn thiện quy định về các tội XPTD. 4. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 2015 được Quốc hội thông qua Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời thay thế cho BLHS năm 1985 sau 14 năm triển khai, thi hành. Tại bộ luật này, các tội XPTD được quy định tại Chương XII với 6 điều luật là: Điều 111 (tội hiếp dâm), Điều 112 (tội hiếp dâm trẻ em), Điều 113 (tội cưỡng dâm), Điều 114 (tội cưỡng dâm trẻ em), Điều 115 (tội giao cấu với trẻ em), Điều 116 (tội dâm ô đối với trẻ em), trong đó có một số điểm mới, thay đổi nhất định. Thứ nhất, dấu hiệu định tội của một số tội phạm được quy định chi tiết, cụ thể hơn so với BLHS năm 1985; bổ sung thêm hai hành vi khách quan của tội hiếp dâm:“hành vi đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân” nhằm làm rõ và thống nhất trong thực tiễn áp dụng; đồng thời, giới hạn về phạm vi chủ thể phải là “người đã thành niên” ở tội dâm ô. Thứ hai, về mặt tội danh, BLHS năm 1999 bỏ tội cưỡng dâm người chưa thành niên, thay vào đó tội cưỡng dâm trẻ em (hành vi cưỡng dâm đối tượng là người chưa thành niên từ đủ mười sáu (16) tuổi đến dưới mười tám (18) tuổi được chuyển thành tình tiết định khung tăng nặng của tội cưỡng dâm) với hình phạt nghiêm khắc hơn; chuyển tội dâm ô đối với trẻ em về chương XII (xâm phạm danh dự, nhân phẩm) thay vì quy định ở chương XIX (xâm phạm trật tự công cộng), qua đó xác định đúng hơn khách thể của tội này. Bởi về bản chất tội dâm ô là tội phạm tình dục và cùng tính chất với tội cưỡng dâm, hiếp dâm, do đó BLHS năm 1999 quy định tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 116) là tội XPTD ở Chương XII của bộ luật là hoàn toàn hợp lý. Thứ ba, về dấu hiệu định khung hình phạt: tội hiếp dâm (Điều 111 của BLHS năm 1999) tách đoạn 2 khoản 1 Điều 112 BLHS năm 1985 thành khoản 4 Điều 111 BLHS năm 1999 và bổ sung hai tình tiết định khung tăng nặng: “đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh” (điểm b); “đối với nhiều người” (điểm đ); đồng thời, bỏ tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 điều này” và bổ sung tình tiết 27 HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP “biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội” (điểm b) tại khoản 3. Bổ sung tỷ lệ thương tật với tội hiếp dâm trẻ em, cưỡng dâm trẻ em là tình tiết định khung tăng nặng. Đáng lưu ý, việc bổ sung tình tiết “Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội” phản ánh yêu cầu của tình hình xã hội; đồng thời, làm rõ tình tiết “Gây tổn hại sức khỏe nặng, rất nặng” ở BLHS năm 1985 thông qua việc lượng hóa theo tỷ lệ phần trăm thương tật cụ thể. Điều 114 BLHS năm 1999 đã thay cụm từ “người chưa thành niên” bằng cụm từ “trẻ em” để nhấn mạnh rằng đối tượng được bảo vệ ở đây là trẻ em, nhằm đảm bảo pháp luật được áp dụng chuẩn xác, loại trừ yếu tố định tính, vô hình chung có thể tạo ra sự tùy tiện trong áp dụng pháp luật ở các tội có xảy ra hành vi giao cấu. Cuối cùng là quy định hình phạt. Về cơ bản, loại hình phạt và mức độ nghiêm khắc của hình phạt chính không có sự thay đổi, tiếp tục thể hiện sự nghiêm trị với những hành vi XPTD, nhất là đối với các trường hợp nạn nhân là trẻ em, người chưa thành niên; tuy nhiên, hình phạt bổ sung lại thay đổi căn bản khi quy định“cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm” là hình phạt bổ sung cho cả sáu tội danh (từ Điều 111 đến Điều 116) và được thiết kế thành một khoản trong từng điều luật. Trong quá trình triển khai, thực hiện, các tội XPTD trong BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung một lần duy nhất vào năm 2009, như sau: bỏ quy định hình phạt tử hình đối với tội hiếp dâm (khoản 3 Điều 111). Sự thay đổi này xuất phát từ quan điểm, hiếp dâm là “Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, nhưng quy định hình phạt tù chung thân đối với tội này là đủ nghiêm khắc và vẫn bảo đảm đế trừng trị, răn đe, phòng ngừa chung”8. Đối chiếu quy định của các BLHS (BLHS năm 1985, đặc biệt là BLHS năm 1999) với các văn bản thời kỳ những năm 1945 - năm 1985, cho thấy: về cơ bản, dấu hiệu pháp lý của hành vi hiếp dâm hay cưỡng dâm không có nhiều khác biệt, nhưng BLHS năm 1999 đã có sự phân hóa rõ ràng hơn khi phân tách tội danh giữa hiếp dâm và hiếp dâm trẻ em, cưỡng dâm và cưỡng dâm trẻ em; đồng thời, hoàn thiện hơn các tình tiết định khung tăng nặng và hình phạt áp dụng. Sau hơn 15 năm thi hành, BLHS năm 1999 có tác động tích cực đối với công tác phòng, chống tội phạm, bảo vệ, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN Việt Nam, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng, BLHS năm 1999 đã không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, bộc lộ những bất cập hạn chế, như: bất cập về kỹ thuật lập pháp liên quan đến sự thống nhất giữa các tội trong nhóm tội; dấu hiệu định tội, định khung của các tội danh trong nhóm; cách thiết kế khung hình phạt cũng như khoảng cách khung hình phạt của một số tội danh; chưa có sự nhất quán trong cách phân chia các giữa các tội phạm... Do vậy, BLHS năm 2015 ra đời thay thế cho BLHS năm 1999, đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập pháp hình sự nói chung và với các tội XPTD nói riêng. Trong Bộ luật này các quy định về nhóm tội XPTD đã được điều chỉnh, bổ sung, thay đổi đáng kể. 5. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về các tội xâm phạm tình dục Trong BLHS năm 2015, các tội XPTD được quy định tại 7 Điều, từ Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146 và 147 của chương XIV. Mặc dù về mặt hình thức chỉ tăng 01 điều luật, nhưng về nội dung quy định các tội XPTD trong BLHS năm 2015 đã kế thừa, có nhiều điểm mới tiến bộ, phù hợp với điều kiện phát triển xã hội và diễn biến phức tạp của nhóm tội phạm này so với BLHS năm 1999. Cụ thể như sau: Thứ nhất, độ tuổi nạn nhân được cụ thể hóa ngay từ tên tội danh Tội danh của nhóm tội XPTD quy định trong BLHS năm 1999 đã được thay đổi trong BLHS 8 Ủy ban thường vụ quốc hội (2009), Báo cáo số 251/BC-UBTVQH12 của ủy ban thường vụ Quốc hội về giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự (ngày 23 tháng 4 năm 2009), Hà Nội, tr.15 28 Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba năm 2015: tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112) thành tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114) thành tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144); tội giao cấu với trẻ em (Điều 115) thành tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145); tội dâm ô trẻ em (Điều 116) thành tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146). Sự thay đổi tội danh như trên là do các nhà làm luật đã cụ thể hóa đối tượng tác động (nạn nhân) của nhóm tội này, đặc biệt là cụ thể hóa về độ tuổi nạn nhân cho phù hợp với quy định của Luật trẻ em năm 2016 và tương thích với Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em so với việc việc sử dụng cụm từ “trẻ em” trong các tội XPTD của BLHS năm 1999. Thứ hai, mở rộng nội hàm khái niệm “giao cấu” trong các tội XPTD BLHS năm 2015 mở rộng nội hàm khái niệm “giao cấu” so với BLHS năm 1999 tại các tội: tội hiếp dâm (Điều 111), tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112), tội cưỡng dâm (Điều 113), tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114) và tội giao cấu với trẻ em (Điều 115) thành “giao cấu hoặc có hành vi quan hệ tình dục khác” ở các điều luật tương ứng, phù hợp với diễn biến thực tế của các hành vi XPTD và quy định chung của các quốc gia trên thế giới. Thứ ba, mở rộng chủ thể và nạn nhân của tội phạm Về hình thức, BLHS năm 2015 không thay đổi quy định chủ thể của nhóm tội XPTD so với BLHS năm 1999. Bởi, cả hai BLHS này đều dùng thuật ngữ “người nào” để quy định chủ thể các tội XPTD. Nếu chỉ xét nguyên nghĩa, cụm từ “người nào” được hiểu khá rộng, đó có thể là nam giới hay nữ giới, thậm chí bất kì ai đạt độ tuổi luật định và có năng lực trách nhiệm hình sự. BLHS năm 2015 đã mở rộng nội hàm khái niệm “giao cấu”. Như đã phân tích ở trên, xuất phát từ thực tiễn hành vi XPTD ngày một gia tăng, phức tạp, dưới nhiều hình thức phong phú (không chỉ dừng ở giao cấu đơn thuần theo nghĩa truyền thống. Bên cạnh việc thực hiện hành vi giao cấu, BLHS năm 2015 quy định bổ sung thêm trường hợp nếu người phạm tội “thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác” cũng bị coi là thực hiện các tội phạm này. Thông qua sự thay đổi quy định này cho thấy không chỉ nội hàm khái niệm giao cấu đã dược mở rộng mà chủ thể, nạn nhân của nhóm tội XPTD cũng được mở rộng hơn. Cụ thể, chủ thể của tội hiếp dâm không chỉ là nam giới và nạn nhân là nữ mà chủ thể có thể là nam giới, nữ giới hoặc người đồng tính, còn nạn nhân có thể là nam, nữ và người đồng tính. Thứ tư, cụ thể hóa và thay thế một số khái niệm Xuất phát từ thực tiễn, khi áp dụng BLHS năm 1999 để xét xử nhóm tội XPTD, một số khái niệm như người thành niên, nhiều người, nhiều lần… chưa được hiểu và áp dụng thống nhất. Vì vậy, BLHS năm 2015 đã cụ thể hóa và thay thế một số khái niệm, cụm từ trên trong các tình tiết định khung của các tội phạm này. Cụ thể: Người đã thành niên được thay bằng: người đủ 18 tuổi trở lên; Nhiều người được thay bằng: từ 02 người trở lên; Nhiều lần được thay bằng: từ 02 lần trở lên; Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật được thay thế bằng: Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể. Với quy định như trên, về bản chất không thay đổi gì so với trước nhưng việc cụ thể hóa số lượng “nhiều lần” và độ tuổi của người phạm tội theo BLHS năm 2015 sẽ đảm bảo tính thống nhất trong cách hiểu; đồng thời, đánh dấu một bước tiến mới về kỹ thuật lập pháp, đảm bảo rõ ràng, cụ thể, thống nhất và không bị ảnh hưởng nếu thuật ngữ “nhiều lần” hay “người đã thành niên” có sự thay đổi về cách hiểu sau này. Bên cạnh đó, cũng xuất phát từ việc mở rộng nội hàm khái niệm “giao cấu” và cụ thể hóa độ tuổi nạn nhân, các nhà làm luật đã thay thế khái niệm một số tội của nhóm tội XPTD như: thay thế khái niệm hiếp dâm trẻ em, khái niệm cưỡng dâm trẻ, khái niệm cưỡng dâm trẻ em, khái niệm giao cấu với trẻ em, khái niệm dâm ô với trẻ em ... Việc cụ thể hóa và thay thế một loạt các khái niệm, cụm từ sẽ tạo sự thống nhất, ổn định trong 29 HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP cách hiểu những vấn đề trên. Từ đó, hạn chế và tránh được cách áp dụng, thực hiện không thống nhất, đồng bộ dẫn đến hiện tượng bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, gây bức xúc trong dư luận nhân dân. Thứ năm, nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong các tội XPTD Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật được thực hiện tiến bộ, nổi bật trong các điều luật của các tội XPTD, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc cá thể hình phạt trong thực tiễn áp dụng LHS để đấu tranh phòng chống các tội XPTD. Đó là, cụ thể hóa tối đa các tình tiết định khung của từng tội trong nhóm tội XPTD, như: Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45% (từ Điều 142,144, 145,146); Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên (từ Điều 142,144, 145,146); Phạm tội đối với người dưới 10 tuổi (Điều 142); Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh (Điều 145); Làm nạn nhân tự sát (Điều 146) ; cụ thể hóa và chi tiết hơn những tình tiết định khung tăng nặng như: phạm tội nhiều người thành phạm tội từ 02 người trở lên hay phạm tội nhiều lần thành phạm tội từ 02 lần trở lên; khoản 3, Điều 116 BLHS năm 1999 quy định chung chung:“Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” thì được khắc phục, quy định cụ thể hơn tại khoản 3 Điều 146 BLHS năm 2015“Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm: a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên; b) Làm nạn nhân tự sát. Thứ sáu, về khung hình phạt và hình phạt bổ sung Về khung hình phạt, BLHS năm 2015 có sự thay đổi về khung hình phạt của tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (điều 143), như sau: “phạt tù từ 10 năm đến 18 năm”, thay cho mức phạt “từ bảy năm đến mười tám năm” của khoản 3 Điều 113 trong BLHS năm 1999. Về hình phạt bổ sung, Điều 145 của BLHS năm 2015 bổ sung thêm khoản 4 quy định về hình phạt bổ sung là “người phạm tội còn có thể 30 bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”. Sự thay đổi này cho thấy các nhà làm luật đã đánh giá mức độ nguy hiểm của những hành vi phạm tội trên nghiêm khắc hơn so với luật cũ, nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng và chống những tội phạm này. Thứ bảy, bổ sung tội mới là tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm BLHS năm 1999 chưa quy định hành vi sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm là tội phạm nhưng BLHS năm 2015 đã bổ sung tội này. Sự bổ sung này là cần thiết, xuất phát từ cơ sở thực tế sau: các hình thức khiêu dâm bùng nổ và gia tăng mạnh mẽ trên khắp các châu lục, tình trạng khiêu dâm ở Việt Nam ngày một phát triển và đáng báo động. Xuất hiện cả những hiện tượng sử dụng trẻ em, người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm. Hơn thế nữa tính nguy hiểm của hành vi này không nhỏ và để lại hậu quả đau lòng cho các nạn nhân, gia đình và xã hội. Bên cạnh đó, mặc dù, BLHS năm 1999 đã quy định tội dâm ô với trẻ em tại Điều 116. Tuy nhiên, việc quy định tội dâm ô với trẻ em chưa bao quát hết các hành vi xâm hại tình dục trẻ em xảy ra trên thực tiễn trong thời gian qua. Nhiều trường hợp, người phạm tội ép buộc trẻ em phải biểu diễn các hành vi khiêu dâm, đóng phim khiêu dâm hoặc buộc trẻ em phải xem những hình ảnh khiêu dâm... Đây đều là những hành vi nguy hiểm, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển của trẻ em. Chính vì những lý do trên mà BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm Điều 147 quy định về sử dụng trẻ em dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm. Từ những phân tích ở trên, cho thấy, quy định của PLHS về các tội XPTD ngày càng được hoàn thiện qua các lần pháp điển hóa, thể hiện ở nhiều phương diện. Những quy định này, tạo cơ sở vững chắc cho công tác đấu tranh phòng chống các hành vi XPTD, góp phần hình thành cơ chế hữu hiệu để bảo vệ quyền bất khả xâm phạm tự do về tình dục mà rộng hơn là nhân phẩm, danh dự của con người./. (Xem tiếp trang 35)
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.