Quản lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị ở thành phố Hà Nội - góc nhìn từ cấu trúc thị trường

pdf
Số trang Quản lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị ở thành phố Hà Nội - góc nhìn từ cấu trúc thị trường 13 Cỡ tệp Quản lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị ở thành phố Hà Nội - góc nhìn từ cấu trúc thị trường 2 MB Lượt tải Quản lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị ở thành phố Hà Nội - góc nhìn từ cấu trúc thị trường 1 Lượt đọc Quản lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị ở thành phố Hà Nội - góc nhìn từ cấu trúc thị trường 43
Đánh giá Quản lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị ở thành phố Hà Nội - góc nhìn từ cấu trúc thị trường
5 ( 22 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 13 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN SINH HOẠT ĐÔ THỊ Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI - GÓC NHÌN TỪ CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG TS. Ngô Thanh Mai Trường ĐH Kinh tế Quốc dân Tóm tắt Tăng trưởng kinh tế ấn tượng, mở rộng quy mô dân số và đô thị hóa mạnh mẽ đang là bức tranh về Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng trong thời gian qua. Bối cảnh đó đã đặt hệ thống QLCTRSHĐT đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách trước áp lực phải quản lý khối lượng chất thải ngày càng gia tăng cả về số lượng và mức độ nguy hại. Nghiên cứu đã nhận diện và phác họa toàn cảnh hiện trạng QLCTRSHĐT ở thành phố Hà Nội qua 4 phân đoạn: thu gom, vận chuyển, xử lý và tái chế dưới góc nhìn cấu trúc thị trường. Trong đó, đặc điểm của các chủ thể tham gia, rào cản thị trường và kết quả thực thi ở từng phân đoạn được lựa chọn và phân tích một cách chi tiết. Trên cơ sở này, một số khuyến nghị chính sách được gợi mở để nâng cao hiệu quả, chất lượng và tính bền vững cho dịch vụ QLCTRSHĐT ở thành phố Hà Nội nói riêng và các đô thị khác nói chung. Từ khóa: chất thải rắn, chất thải rắn sinh hoạt đô thị, quản lý chất thải rắn. 1. Bối cảnh nghiên cứu Chất thải rắn (CTR - Solid Waste) là một bộ phận tất yếu, ‘đồng hành’ với quá trình sản xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế. Đối với các quốc gia đang phát triển, chất thải rắn sinh hoạt đô thị (CTRSHĐT- Municipal Solid Waste) ngày càng tăng nhanh cả về khối lượng phát sinh và mức độ nguy hại. Phát triển kinh tế, gia tăng dân số và đô thị hóa mạnh mẽ được xem là những nguyên nhân chính gây ra tình trạng này (UNEP, 2005). Năm 2016, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) trên cả nước là 24.7 triệu tấn/ năm. Tại các vùng đô thị, nơi chiếm khoảng 30% dân số cả nước, mỗi năm phát sinh gần 15 triệu tấn CTRSHĐT (Bộ TN&MT, 2017). Trong bối cảnh đó, quản lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị (QLCTRSHĐT) trở thành nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong hệ thống quản lý môi trường ở Việt Nam. Tuy nhiên, hệ thống này đang thực sự gặp nhiều khó khăn do sự hữu hạn về công nghệ, thiết bị, nguồn vốn và nhân lực (Bộ TN&MT, 2011). Vì vậy, khả năng cung cấp dịch vụ và kết quả hoạt động QLCTRĐT còn khá khiêm tốn. Tại các đô thị, khoảng 83 - 85% lượng chất thải phát sinh được thu gom, còn lại 15 - 17% CTR được thải bỏ ra môi trường, vứt vào bãi đất, ao hồ hoặc đốt lộ thiên gây ô nhiễm môi trường. Công nghệ xử lý CTRSHĐT phổ biến là chôn lấp, ủ phân hữu cơ và đốt. Tại khu vực đô 365 thị, tỷ lệ CTRSH được chôn lấp trực tiếp khoảng 34%. Phần lớn các bãi chôn lấp tiếp nhận CTRSH chưa được phân loại, có thành phần hữu cơ cao nên tính ổn định thấp, chiếm nhiều diện tích đất, phát sinh lượng lớn nước rỉ rác. Các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh đã và đang là nguồn gây ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí, sinh thái và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, hoạt động sản xuất của cộng đồng xung quanh (Bộ TN&MT, 2017). Những chỉ báo không mấy khả quan về kết quả QLCTRSHĐT đang đặt ra những yêu cầu cấp bách cần thay đổi cách đánh giá hệ thống QLCTRSHĐT. Đã đến lúc, dịch vụ QLCTRSH cần phải được xem xét như một hàng hóa công cộng đặc biệt mà ở đó việc cung ứng hàng hóa này phải được đa dạng hóa bởi nhiều chủ thể với chất lượng cung ứng tốt hơn và hiệu quả hơn. Để đạt mục tiêu này, các phân tích về cấu trúc thị trường của dịch vụ QLCTRSHĐT là hết sức cần thiết nhằm đề xuất các giải pháp vận hành và hoàn thiện dịch vụ QLCTRSHĐT theo hướng bền vững. 2. Khung lý thuyết nghiên cứu Nghiên cứu được phân tích dựa trên mô hình về Cấu trúc - Hành vi - Kết quả (SCP – Stucture, Conduct, Peformance) trong lý thuyết ngành. Đây là một trong những khung tiếp cận chuẩn mực được áp dụng trong phân tích thị trường. Điểm then chốt của mô hình này là hiệu quả kinh doanh phụ thuộc chủ yếu vào cơ cấu ngành mà các doanh nghiệp đang cạnh tranh với nhau. Mô hình có 3 yếu tố cấu thành: cấu trúc thị trường, thực hiện thị trường và kết quả thị trường. Trong đó, yếu tố đầu tiên (1) được định hình bởi số lượng các chủ thể kinh tế tham gia mua, bán trên thị trường. Nếu có ít người bán, thị trường sẽ có dấu hiệu độc quyền bán và ngược lại. Người bán sẽ có nhiều quyền lực để áp đặt giá lên người mua. Thị trường chỉ thực sự cạnh tranh khi có nhiều người mua và người bán. Các rào cản gia nhập ngành, khả năng đa dạng hoá, mức độ liên kết dọc cũng ảnh hưởng đến cấu trúc thị trường. Nếu rào cản gia nhập ngành lớn, các doanh nghiệp đang chiếm lĩnh thị trường sẽ có nhiều quyền lực áp đặt giá cao hơn mà không sợ bị đe doạ cạnh tranh bởi các doanh nghiệp mới, sẵn sàng gia nhập ngành. Khả năng đa dạng hoá sản phẩm trong ngành cũng là yếu tố hạn chế quyền lực thị trường của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp yếu thế hơn có thể chuyển sang cung ứng các sản phẩm khác và có vị thế thị trường tốt hơn. Yếu tố thứ hai (2) liên quan đến cơ chế phối hợp của thị trường và chính sách giá cả được áp dụng bởi các tác nhân trong chuỗi cung ứng. Cả hai yếu tố này có thể tác động đến kết quả thị trường. Kết quả này sẽ quyết định liệu mức giá trên thị trường, quá trình sản xuất và phân bổ nguồn lực có hiệu quả hay không, cũng như mức lợi nhuận mà các chủ thể được hưởng sẽ như thế nào (Panagiotou, 2006). Áp dụng lý thuyết này cho dịch vụ CTRSHĐT ở thành phố Hà Nội, toàn bộ chu trình quản lý được tác giả chia thành các phân đoạn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bao gồm: phân đoạn thu gom, vận chuyển, xử lý và tái chế CTRSHĐT. 366 Trong từng phân đoạn, nghiên cứu sẽ phân tích và đánh giá: đặc điểm của các chủ thể tham gia, rào cản thị trường và kết quả thực thi của dịch vụ QLCTRSHĐT. Căn cứ vào những phân tích này, một số khuyến nghị chính sách sẽ được đề xuất nhằm cải thiện chất lượng dịch vụ QLCTRSHĐT. 3. Tổng quan về chất thải rắn sinh hoạt đô thị ở thành phố Hà Nội 3.1. Khối lượng phát sinh chất thải rắn sinh hoạt đô thị Số liệu thống kê của Sở Xây dựng và URENCO Hà Nội cho thấy khối lượng CTRSHĐT phát sinh tại Hà Nội giai đoạn 2006 - 2016 đã gia tăng nhanh chóng trên phương diện quy mô và bình quân đầu người. Hình 1: Khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh ở thành phố Hà Nội Nguồn: Sở Xây dựng và URENCO Hà Nội Về quy mô, trong năm 2016, khối lượng CTRSHĐT ở thành phố là xấp xỉ 2,5 triệu tấn/ năm, tương đương với lượng thải 6400 tấn/ ngày, tăng 3 lần so với so với năm 2006. Tốc độ tăng trung bình hàng năm CTRSHĐT là 11,2%/ năm, trong khi số liệu này trên cả nước là 10%/ năm. Hiện trạng đó bắt nguồn từ 3 lý do cơ bản. Một là, tăng trưởng kinh tế vượt trội làm tăng thu nhập bình quân đầu người trong thành phố. Khi thu nhập tăng, người tiêu dùng có xu hướng sử dụng nhiều hàng hóa/ dịch vụ; do vậy khối lượng CTRSHĐT gia tăng tương ứng. Điều này cũng phù hợp với các nghiên cứu về chất thải ở khu vực châu Á khi cho rằng có mối quan hệ đồng biến giữa thu nhập bình quân/ người với khối lượng chất thải phát sinh. Hai là, quá trình đô thị hóa và tốc độ gia tăng dân số nhanh đã làm xuất hiện các điểm dân cư tập trung, các trung tâm thương mại, các văn phòng, các KCN. Dân số tăng kéo theo những đòi hỏi, yêu cầu về khối lượng hàng hóa và dịch vụ cần thiết cho đời sống cũng tăng; làm phát sinh lượng CTRSHĐT. Ba là, thói quen giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế chất thải chưa được hình thành ở nhiều nơi. Đây cũng là những nguyên nhân không nhỏ ảnh hưởng đến sự gia tăng CTRSHĐT ở Hà Nội. 367 3.2. Thành phần chất thải rắn sinh hoạt đô thị Do quá trình đô thị hoá, điều kiện và thói quen sinh hoạt thay đổi, thành phần CTRSHĐT tại Hà Nội có tỉ lệ khác nhau. Đối với chất thải từ các hộ gia đình, thành phần chất thải hữu cơ chiếm tỉ lệ cao nhất ở tất cả các năm với tỉ lệ từ 49% đến 53% cho thấy tiềm năng cao trong việc thực hiện chế biến phân hữu cơ từ CTR. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc nhiều vào chất lượng của rác đầu vào, cụ thể là việc thực hiện phân loại chất thải tại đầu nguồn phát sinh. Trên thực tế, phân loại rác thải tại nguồn chưa trở thành hoạt động thường xuyên và phổ biến, do đó khả năng chế biến phân hữu cơ còn rất ít ỏi. Nhóm chất thải xây dựng chiếm thứ 2 với tỉ lệ khoảng trên 20%. Đây là hệ quả tất yếu do quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ tại thành phố Hà Nội. Theo Sở Xây dựng Hà Nội (2015), tính trung bình có khoảng 1500 công trình sửa chữa lớn nhỏ xảy ra. Do vậy, chất thải từ xây dựng chiếm khoảng 1/5 tổng lượng CTRSHĐT. Bên cạnh đó, do quá trình phát triển của ngành dịch vụ trong những năm gần đây cũng như phong cách tiêu dùng hướng tới sự tiện lợi trong cộng đồng, có thể thấy lượng chất thải nilon, nhựa chiếm một tỷ trọng đáng kể. Chỉ tính riêng nilon, nhóm chất thải này cũng chiếm khoảng 9% tổng lượng chất thải phát sinh và đang có xu thế gia tăng. Đây thật sự là một thách thức đối với công tác QLCTRSHĐT trên địa bàn thành phố. Bảng 1. Thành phần CTRSHĐT phát sinh ở thành phố Hà Nội TT Các thành phần cơ bản Tỷ lệ (%) 2008 2009 2010 2014 1 Chất hữu cơ (rau quả, lá cây, thức ăn...) 49,0 50,1 51,0 51,9 2 Giấy 2,9 4,1 5,5 2,7 3 Nhựa 4,2 6,6 6,1 3,0 4 Nilon 7,5 9,1 9,5 - 5 Cao su, đồ da 4,2 1,2 1,6 1,3 6 Vải 2,2 1,9 1,76 1,6 7 Gỗ 1,0 1,0 - - 8 Thuỷ tinh 0,8 - - 0,5 9 Kim loại 1,0 - - 0,9 10 Sành sứ 7,3 5,1 4,36 6,1 11 Gạch, đá sỏi, bê tông, xỉ than, đất... 26,2 20,9 21,3 32,0 12 Tổng cộng 100 100 100 100 Nguồn: URENCO Hà Nội 2009, 2010, 2011 và Sở Xây dựng Hà Nội 2015 368 4. Quản lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị ở thành phố Hà Nội - góc nhìn từ cấu trúc thị trường 4.1. Phân đoạn thu gom chất thải rắn sinh hoạt đô thị • Các chủ thể tham gia phân đoạn thu gom - Ở cấp chính quyền: Sở Xây Dựng và Sở Tài nguyên Môi trường là cơ quan quản lý nhà nước chịu trách nhiệm chính về QLCTR trên địa bàn thủ đô. Sở Xây dựng thực hiện quản lý đối với các quận trung tâm và Sở Tài nguyên Môi trường thực hiện quản lý tại các huyện. Uỷ ban Nhân dân (UBND) các quận/ huyện cũng đóng vai trò quan trọng, chịu trách nhiệm quản lý, giám sát các đơn vị thực hiện công tác duy trì vệ sinh môi trường trên địa bàn thành phố. Hoạt động quản lý được thực hiện thông qua hợp đồng thỏa thuận hàng năm và các hướng dẫn nhằm giúp các đơn vị thực hiện đúng quy định của nhà nước về BVMT. - Ở góc độ nhà cung cấp dịch vụ, hoạt động thu gom CTRSHĐT ở Hà Nội được thực hiện bởi 3 chủ thể. + (1) Chủ thể đầu tiên và có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn trong phân đoạn thu gom là Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Môi trường Đô thị Hà Nội (URENCO). Được thành lập từ năm 1960, URENCO là doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chịu trách nhiệm QLCTRSHĐT trên địa bàn thành phố. Hiện tại, URENCO phụ trách thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải ở 4 quận trung tâm. Đây là khu vực "khách hàng” truyền thống, đòi hỏi chất lượng dịch vụ cao do nằm trong khu vực trung tâm chính trị của Thủ đô. Xét dưới góc độ thị trường, URENCO được nhìn nhận như một nhà cung cấp có lợi thế cạnh tranh lớn với đội ngũ công nhân lao động có kinh nghiệm, trang thiết bị, công nghệ được đầu tư bài bản. Đặc biệt, URENCO được sự hỗ trợ của Chính phủ về vốn pháp định và các khoản vốn đầu tư khác theo quy định chung của pháp luật đối với dạng hoạt động công ích. Tuy vậy, năng lực thực thi của URENCO vẫn chưa thực sự đáp ứng nhu cầu dịch vụ thu gom trong thành phố. Do đó, khi chủ trương "Xã hội hóa" (XHH) được ban hành, nhóm chủ thể thứ 2 bắt đầu được hình thành trên thị trường cung dịch vụ QLCTRSHĐT, đó là các công ty tư nhân và Hợp tác xã (HTX) dịch vụ môi trường. + (2) Nhóm chủ thể thứ 2 là các công ty tư nhân/ HTX dịch vụ môi trường. Hiện tại ở Hà Nội có khoảng gần 20 công ty/ HTX được ra đời sau chủ trương XHH và tham gia vào thị trường cung ứng dich vụ thu gom CTRSHĐT. Các DN/ HTX thực hiện thu gom ở các quận/ huyện mới được thành lập trong quá trình phát triển của thành phố. Đặc điểm chung của các khu vực này là quy mô nhỏ, phân mảnh (theo quận/ huyện), dân cư không đồng nhất do sự nhập cư của người lao động ở các khu vực khác. Vì vậy, các DN/ HTX không tận dụng được lợi thế nhờ quy mô. Hơn nữa, nguồn thu từ phí vệ sinh không thể bù đắp cho chi phí thu gom nên các DN ít có khả 369 năng đầu tư thiết bị có chất lượng. Thời hạn hợp đồng cung ứng dịch vụ ngắn cũng khiến cho hoạt động thu gom trở nên bị lãng phí xét trên khía cạnh nguồn lực. Việc đấu thầu đôi khi chỉ mang tính hình thức do tính độc quyền về địa bàn truyền thống. Các doanh nghiệp đang tồn tại trên địa bàn sẽ đương nhiên là đơn vị trúng thầu. Xét một cách tổng thể, đây là nhóm chủ thể tiềm năng với sự linh hoạt, nhạy bén hứa hẹn sẽ đem lại những thay đổi trong thị trường cung ứng dịch vụ thu gom CTRSHĐT. + (3) Tổ/ đội thu gom là chủ thể được hình thành từ sáng kiến dựa vào cộng đồng địa phương. Đây là các cộng đồng tập trung ở vùng ven đô, xa khu vực trung tâm nên không nhận được dịch vụ cung ứng từ 2 chủ thể nêu trên. Xuất phát từ mong muốn bảo vệ sức khỏe và môi trường sống, cộng đồng hoặc đại diện cộng đồng tự thành lập, tự tổ chức, tự duy trì mô hình tổ/ đội để cung ứng dịch vụ QLCTRSH. Điểm nổi bật của chủ thể này là được hình thành dựa trên sự đồng thuận của cộng đồng nên có thể dễ dàng nhận được sự ủng hộ, đóng góp từ phía họ. Tuy nhiên, vì cung ứng dịch vụ trên địa bàn nhỏ hẹp, không có đầu tư về vốn và kỹ thuật nên tính chuyên nghiệp, năng suất lao động của chủ thể này không cao. Dưới góc độ thị trường, phân đoạn thu gom CTRSHĐT có rào cản gia nhập ngành khá cao do tính truyền thống và rào cản kỹ thuật thực hiện. Tuy vậy, mỗi nhà cung cấp dịch vụ đều tìm được phân đoạn thị trường của mình ở thời điểm hiện tại. - Mức giá dịch vụ thu gom, vận chuyển. Trong giai đoạn 2006 - 2016, mức giá đã được điều chỉnh từ 3000 đồng/ người/ tháng ở khu vực nội đô năm 2007 lên mức 6000 đồng/ người/ tháng vào năm 2013 (mức này ở khu vực ngoại thành là 1500 đồng/ người/ tháng lên 3000 đồng/ người/ tháng). Mặc dù đã tăng 100% nhưng có thể thấy thời gian điều chỉnh mức giá là khá dài, khoảng 6 năm. Bảng 2 thể hiện mức giá trung bình một hộ gia đình phải nộp và tỷ lệ giá trên tổng thu nhập của hộ gia đình. Bảng 2. Tỷ lệ phí vệ sinh (hoặc giá dịch vụ thu gom, vận chuyển) trung bình so với thu nhập của hộ gia đình ở thành phố Hà Nội giai đoạn 2006 - 2016 Giá thu gom, vận chuyển (VND/hộ/tháng) Thu nhập của hộ gia đình (VND/hộ/tháng) Tỷ lệ giá thu gom, vận chuyển với thu nhập hộ gia đình (%) 2006 6 475,00 2 813 525 0,230 2008 8 175,83 4 018 217 0,203 2010 8 694,17 5 560 842 0,156 2012 10 511,67 7 652 450 0,137 2014 14 981,67 9 088 667 0,165 2016 17 960,83 10 629 533 0,169 Năm Nguồn: Tính toán từ bộ số liệu Điều tra mức sống dân cư - VHLSS của tác giả 370 Có thể nhận thấy giá dịch vụ thu gom, vận chuyển chiếm một tỷ lệ khá nhỏ trên tổng thu nhập của hộ gia đình và đang có xu hướng giảm xuống. Điều này hàm ý rằng: tổng số tiền hộ gia đình phải nộp cho dịch vụ thu gom, vận chuyển tăng chậm hơn so với thu nhập của hộ trong thời gian qua. So sánh tỷ lệ này ở Hà Nội với tỷ lệ ở các nước do UN - Habitat (2010a) khảo sát cho thấy tồn tại một khoảng cách khá xa. Mức giá dịch vụ thu gom, vận chuyển ở Hà Nội là khá thấp, chiếm 0,1 - 0,2% tổng thu nhập của hộ; trong khi đó, mức giá trung bình ở các thành phố trên thế giới đạt tỷ lệ xấp xỉ 1% thu nhập hộ gia đình. Điều này cho thấy sự cần thiết, hợp lý điều chỉnh tăng giá dịch vụ thu gom, vận chuyển so với mức giá hiện tại. Bảng 3. Giá dịch vụ thu gom, vận chuyển CTR ở một số thành phố năm 2010 Thành phố Quốc gia Mức giá hàng tháng theo hộ gia đình (USD) Tỷ lệ giá trên thu nhập hộ gia đình (%) Adelaide Úc 8,0 0,21 Belo Horizonte Brazil 3,9 - 7,9 3,60 Canete Peru 3,0 - 3,9 0,90 Dhaka Bangladesh 1,0 2,00 Côn Minh Trung Quốc 0,35 - 1,45 1,00 Moshi Tanzania 1,0 0,30 San Francisco Hoa Kỳ 22,0 1,43 8,0 0,98 Trung bình Nguồn: UN - Habitat - 2010a • Kết quả thực hiện phân đoạn thu gom Theo Sở Xây dựng Hà Nội, năm 2016, tỷ lệ thu gom CTRSH trên toàn TP Hà Nội đạt 82,5%, tương ứng với khối lượng thu là 5300 tấn/ngày. Tuy vậy, cũng giống như các đô thị khác ở các nước đang phát triển, tỷ lệ thu gom ở Hà Nội có sự cách biệt theo phạm vi không gian. Cụ thể: tỷ lệ thu gom ở 4 quận nội thành là 100%; ở 7 quận nội thành mới là 80 - 90%; các huyện thuộc tỉnh Hà Tây và Hòa Bình cũ là 60 - 70%. Lượng rác sinh hoạt được thu gom và vận chuyển hàng ngày trong các quận, thị xã là 3700 tấn/ ngày. Thực tế khối lượng CTRSH thu gom chưa nhiều, phần lớn còn trôi nổi, chưa xử lý được. Hà Đông và Sơn Tây đã có Công ty Môi trường Đô thị đảm nhận toàn bộ việc thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải nhưng cũng chỉ thực hiện được khoảng 65% khối lượng rác trên địa bàn. Công ty Môi trường Đô thị Hà Đông chỉ thu gom được 60% khối lượng rác thải cần phải thu gom, xử lý (Sở Xây dựng Hà Nội, 2016). 371 Đối với các khu vực nông thôn một phần lượng rác thải sinh hoạt không được thu gom thường đổ ra các khu vực đất trống, hoặc ao, hồ. Qua thời gian những bãi rác tự phát như thế gây mất mỹ quan và vệ sinh, trở thành các nguồn điểm gây ô nhiễm ở khu vực nông thôn. 4.2. Hiện trạng phân đoạn vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt đô thị • Các chủ thể tham gia phân đoạn vận chuyển Vận chuyển là hoạt động có tính liên kết dọc với phân đoạn thu gom. Thông thường, các đơn vị cung ứng dịch vụ thu gom sẽ đồng thời cung ứng dịch vụ vận chuyển để lấy nguồn lợi từ hoạt động này bù đắp cho sự thiếu hụt trong dịch vụ thu gom. Thực tiễn đã cho thấy, nguồn thu này khá ổn định và có mối quan hệ chặt chẽ với dịch vụ trước đó bởi thu gom giúp cho nhà cung cấp dịch vụ có nguồn rác để vận chuyển. Hoạt động này sẽ được thực hiện dựa trên thỏa thuận/ hợp đồng giữa Sở Xây dựng và chủ thể cung ứng. Nguồn thu của các doanh nghiệp đến từ kinh phí ngân sách địa phương chi trả cho vận chuyển. So với các hoạt động vận chuyển hàng hóa thông thường, doanh thu từ vận chuyển CTRSHĐT là tương đối tốt; đặc biệt đối với các DN tham gia cả quá trình thu gom rác thải. Đơn giá do UBND thành phố ấn định. Các doanh nghiệp vận chuyển CTRSHĐT không chịu phí xử lý CTRSHĐT khi đổ rác tại các khu xử lý CTR. Tuy nhiên, dịch vụ vận chuyển không hề dễ dàng để các nhà cung ứng có thể gia nhập thị trường. Một số rào cản có thể nhận thấy: (i) nguồn CTRSH không tập trung; (ii) khối lượng và thành phần chất thải sinh hoạt ngày càng gia tăng; (iii) chi phí nhân công và nhiên liệu ngày càng cao; (iv) chủ thể phải có đủ phương tiện kỹ thuật và nhận lực với trình độ nhất định để cung ứng dịch vụ. Xét trên thị trường cung dịch vụ, 2 chủ thể đầu tiên (URENCO và DN/ HTX) có đủ khả năng để thực hiện phân đoạn này. Đơn vị tổ/ đội không thể tham gia thị trường này do sự hữu hạn về nguồn lực con người, phương tiện và kỹ thuật. 4.3. Hiện trạng phân đoạn xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị • Các thủ thể tham gia phân đoạn xử lý Số lượng doanh nghiệp tham gia phân đoạn này khá ít, tạo ra thị trường độc quyền nhóm do đầu tư cho khu xử lý đòi hỏi nguồn tài chính lớn, công nghệ hiện đại và nhân lực có trình độ để vận hành công nghệ. Hiện tại, trên địa bàn thành phố, URENCO vẫn là chủ thể chính tham gia phân đoạn này. Một vài đơn vị thực hiện công tác XHH môi trường đang được khuyến khích tham gia; song do cơ chế, chính sách chưa phù hợp và các rào cản lớn về nguồn vốn và công nghệ nên các doanh nghiệp không "mặn mà" với lĩnh vực này. 372 • Kết quả thực hiện phân đoạn xử lý Giống như nhiều đô thị khác ở châu Á, tiêu hủy chất thải ở các bãi rác lộ thiên hoặc các bãi rác có kiểm soát là những hình thức xử lý chủ yếu ở Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung. Ở Hà Nội có 8 khu xử lý CTRSH, trong đó có 5 bãi chôn lấp là Nam Sơn, Kiêu Kỵ, Xuân Sơn, Núi Thoong, Bàu Lác và có 3 nhà máy xử lý CTR ở Kiêu Kỵ, Cầu Diễn, Sơn Tây. Bãi chôn lấp Nam Sơn là cơ sở xử lý CTRSHĐT chính ở Hà Nội, tiếp nhận gần 85% lượng rác. Đây là một trong những bãi chôn lấp được vận hành theo đúng tiêu chuẩn bãi chốn lấp hợp vệ sinh. Bên cạnh đó, một số dự án đầu tư xây dựng nhà máy xử lý rác thải sử dụng công nghệ đốt đã được chấp thuận chủ trương đầu tư. Các khu xử lý CTR chủ yếu do Nhà nước đầu tư. Nguồn thu của các đơn vị xử lý CTR là từ ngân sách. Nói cách khác chính quyền chi trả phí xử lý CTR cho DN xử lý; DN thu gom - vận chuyển không phải trả chi phí xử lý CTR. DNNN hoặc Chính quyền đô thị thường đầu tư và vận hành vào các bãi rác hở và các bãi chôn lấp. Tuy nhiên, theo tính toán, chi phí để xử lý cho 1 tấn rác thải theo hình thức chôn lấp mất khoảng 70 000 đồng, trong khi chi phí theo hình thức đốt mất khoảng 400 000 đồng (Sở Xây dựng Hả Nội, 2016) Việc xử lý rác thải theo hình thức chôn lấp vừa tốn nhiều chi phí, vừa mất nhiều diện tích đất, gây ô nhiễm môi trường nước, không khí… Vì vậy, thành phố cần có cơ chế khuyến khích để thu hút đầu tư, ưu tiên các dự án nhà máy xử lý rác triệt để; theo đó, cần có đơn giá chung cho từng loại Chủ thể tham gia Phân Đoạn Quản Lý xử lý (phương pháp chôn và phương pháp đốt) để công khai minh bạch hóa về tài chính nhằm tiết kiệm ngân sách cho Nhà nước, vừa khuyến khích thu hút đầu tư. Phát Thải Hộ gia đình Thu gom thứ cấp Thu gom sơ cấp URENCO DN/HTX Tổ đội URENCO Vận chuyển DN/HTX URENCO DN/HTX Xử lý URENCO DN/HTX Hình 2. Chủ thể tham gia các phân đoạn trong QLCTRSHĐT ở thành phố Hà Nội Nguồn: Tổng hợp của tác giả 373 4.4. Hiện trạng phân đoạn tái chế chất thải rắn sinh hoạt đô thị • Chủ thể tham gia - Chủ thể đầu tiên tham gia vào phân đoạn tái chế là hộ gia đình: có thể nói, tái chế CTRSHĐT là một hoạt động khá phổ biến đối với các hộ gia đình ở Việt Nam nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng. Người dân thường có thói quen tái sử dụng ngay tại gia đình mình bằng cách cho hoặc bán những vật dụng mà lẽ ra sẽ trở thành CTRSH. Hộ gia đình cũng có thói quen tích trữ các loại chất thải có khả năng tái chế như kim loại và giấy để bán cho các cá nhân hoặc cơ sở thu mua (Bộ TN&MT, 2004). - Nhóm chủ thể thứ 2 là những người 'đồng nát', cơ sở thu mua 'đồng nát' và các làng nghề tái chế ở Hà Nội. Các hoạt động tái chế chủ yếu do các khu vực phi chính thức (Informal sector) thực hiện, bao gồm: cửa hàng thu mua phế liệu, làng nghề thủ công và người thu mua lẻ… tại tất cả các giai đoạn của chu trình quản lý chất thải trên địa bàn thành phố. Do nguồn tài nguyên nghèo nàn và khan hiếm nên giá trị từ rác thải và phế liệu đã được thu gom và bán lại. Chất thải tái chế chủ yếu được đưa tới các làng nghề tái chế lân cận trong phạm vi Hà Nội... Sau khi được tái chế thành hàng hoá lại quay trở về thành phố để tiêu thụ hoặc đưa đi bán tại các địa phương khác (Bộ TN&MT, 2011). • Kết quả hoạt động của phân đoạn tái chế Hiện có rất ít thông tin về khối lượng CTRSHĐT được tái chế ở các tỉnh/ thành phố. Theo Ferguson (1998) tỷ lệ CTRSHĐT được tái chế ở Hà Nội xấp xỉ 20%. Mặc dù tỷ lệ này cao hơn một số thành phố khác ở Đông Nam Á như: Manila, Bắc Kinh nhưng Hà Nội được đánh giá có tiềm năng gia tăng tỷ lệ tái chế như các thành phố khác, ví dụ: Singapore, Hồng Kông. Hoạt động tái chế CTRSHĐT của khu vực phi chính thức đã có những ảnh hưởng đáng kể đến kinh tế địa phương. Với con số xấp xỉ 1,4 triệu tấn chất thải phát sinh ở Hà Nội trong năm 1996 thì hoạt động tái chế đã tiết kiệm chi phí mà lẽ ra phải dành cho hoạt động tiêu hủy chất thải với số tiền từ 38 đến 47 tỷ đồng. Theo Bộ TN&MT (2011), để tăng cường tỷ lệ tái chế, chính quyền địa phương có thể trợ cấp thiết bị xử lý và tái chế chất thải, khu vực tư nhân được khuyến khích tham gia vào quản lý và tái chế CTRSHĐT. 5. Một số khuyến nghị chính sách nhằm hoàn thiện dịch vụ QLCTRSHĐT Căn cứ vào các phân tích trên, một số khuyến nghị chính sách được đề xuất như sau: 374
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.