Phụ nữ và bệnh Tiểu đường

pdf
Số trang Phụ nữ và bệnh Tiểu đường 5 Cỡ tệp Phụ nữ và bệnh Tiểu đường 224 KB Lượt tải Phụ nữ và bệnh Tiểu đường 0 Lượt đọc Phụ nữ và bệnh Tiểu đường 0
Đánh giá Phụ nữ và bệnh Tiểu đường
4.6 ( 18 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Phụ nữ và bệnh Tiểu đường Bệnh tiểu đường có ảnh hưởng gì đến phụ nữ? Tại Việt Nam, phụ nữ mắc bệnh tiểu đường nhiều hơn nam giới (chiếm 2/3 trường hợp mắc bệnh). Điều này có thể do tỷ lệ vòng eo/vòng hông cao hơn so với nam giới hoặc do phụ nữ chịu nhiều stress hơn? Tại Hoa Kỳ, tiểu đường là một trong 5 bệnh gây tử vong nhiều nhất (ở Việt Nam không có số liệu thống kê về tỷ lệ tử vong của các bệnh khác nhau) Phụ nữ có bệnh tiểu đường tăng nguy cơ nhiễm trùng âm đạo và biến chứng trong thời gian mang thai Đối với những người phụ nữ hiện tại không có bệnh tiểu đường, mang thai sẽ đem lại nguy cơ bị bệnh tiểu đường khi có thai (tiểu đường thai kỳ)Bệnh tiểu đường khi có thai chiếm tỷ lệ 2% đến 5% số người có thai và phần lớn sẽ biến mất sau khi đẻ Phụ nữ đã có bệnh tiểu đường khi có thai sẽ gia tăng nguy cơ phát triển bệnh tiểu đường typ 2 sau này. Phụ nữ và biến chứng bệnh tiểu đường Những nguy cơ bệnh tim mạch – biến chứng thường gặp nhất ở người tiểu đường - nghiêm trọng hơn ở phụ nữ so với nam giới. Trong khi tử vong do bệnh tim ở phụ nữ không mắc bệnh tiểu đường đã giảm được 27%, thì ở những phụ nữ mắc bệnh tiểu đường biến chứng này tăng 23% trong vòng 30 năm qua. Nguy cơ bị bệnh tiểu đường nhiễm toan ceton máu tăng 50% ở phụ nữ so với nam giới. Nhiễm toan ceton máu phản ánh tình trạng kém kiểm soát đường máu và có thể dẫn đến hôn mê. Đường máu tăng cao không dẫn đến nhiễm toan ceton mà chủ yếu là do thiếu insulin. Trước kia, khi chưa có insulin, nhiễm toan ceton máu là nguyên nhân chủ yếu gây tử vong của người tiểu đường. Phụ nữ có bệnh tiểu đường tăng 7,6 lần khả năng bị bệnh mạch máu ngoại vi so với phụ nữ không có bệnh tiểu đường. Bệnh mạch máu ngoại vi dẫn đến giảm lưu lượng máu và dưỡng khí nuôi mô bàn chân và chân. Các triệu chứng chủ yếu của bệnh mạch máu ngoại vi là đau ở đùi, bắp chân, mông khi tập thể dục hoặc đi lại (khi nghỉ có thể hết đau). Mang thai và Tiểu đường Mang thai làm gia tăng nhu cầu insulin trong cơ thể hơn bình thường, do sự gia tăng sản xuất hóc - môn dẫn đến đề kháng insulin. Đối với phụ nữ có bệnh tiểu đường, kiểm soát đường máu chặt chẽ trước khi mang thai và trong suốt quá trình mang thai là rất quan trọng cho sức khỏe của em bé và mẹ. Nếu được chăm sóc tốt trước và trong khi mang thai, tỷ lệ dị tật bẩm sinh của con chỉ là 0 – 5%. Ngược lại nếu không nhận được sự chăm sóc tốt, tỷ lệ bị dị tật bẩm sinh có thể đến 10% số trẻ sinh ra ở những phụ nữ mắc tiểu đường mang thai. Khoảng 3 đến 5% trẻ sơ sinh của phụ nữ mắc tiểu đường bị tử vong trong vòng 28 ngày, so với 1,5% trẻ được sinh ra bởi phụ nữ không mắc bệnh tiểu đường. Phụ nữ mắc tiểu đường thường đẻ thai to (gấp 2 – 3 lần) so với phụ nữ không mắc bệnh tiểu đường. Chính vì thai quá to nên họ cũng hay phải dùng cách mổ lấy thai hơn là đẻ tự nhiên (gấp 3 – 4 lần) so với phụ nữ không mắc bệnh tiểu đường. Phụ nữ mắc bệnh tiểu đường có tới 5 lần khả năng bị nhiễm độc thai nghén (một rối loạn không rõ nguyên nhân thường được đánh dấu bằng tăng huyết áp, có đạm trong nước tiểu, phù, nhức đầu, rối loạn thị giác) và đa ối (quá nhiều nước ối) so với phụ nữ không có bệnh tiểu đường. Khoảng 2 - 5% phụ nữ mang thai có bệnh tiểu đường thai kỳ - một dạng bệnh tiểu đường chỉ xảy ra trong thời gian mang thai. Khoảng 40% phụ nữ mắc tiểu đường thai kỳ bị béo phì trước khi mang thai tiến triển thành bệnh tiểu đường typ 2 trong vòng 4 năm. Cơ hội phát triển bệnh tiểu đường trong thời gian này là thấp hơn ở người nhẹ cân hơn. Tránh thai Thuốc ngừa thai có thể làm tăng glucose trong máu và kiểm soát bệnh tiểu đường. Các vòng tránh thai có thể dẫn đến nhiễm trùng. Bởi vì phụ nữ bị các bệnh tiểu đường này vốn đã có nguy cơ nhiễm khuẩn cao hơn, do vậy phần lớn không nên đặt vòng tránh thai. Mãn kinh và Tiểu đường Bệnh tiểu đường không làm ảnh hưởng đến tuổi xuất hiện mãn kinh, song mãn kinh là thời kỳ có nhiều biến đổi về tâm lý và nội tiết do đó có tác động nhiều đến phụ nữ trong giai đoạn này. Trên thực tế có nhiều người được chẩn đoán là tiểu đường sau khi mãn kinh hoặc đường máu trở nên kém kiểm soát ở những người đã được chẩn đoán từ trước. Một rối loạn thường gặp ở thời kỳ mãn kinh rất khó chịu cho phụ nữ đó là những cơn bốc hoả: xuất hiện ở mặt, phía ngực, cổ, lưng có thể đi kèm theo đỏ mặt, vã mồ hôi. Những cơn bốc hoả này xảy ra vào bất cứ thời điểm nào trong ngày. Bệnh nhân và bác sĩ cần phân biệt rõ cơn bốc hoả và hạ đường huyết vì thái độ xử trí hoàn toàn khác nhau. Cơn hạ đường huyết thường đi kèm tim đập nhanh, nhìn mờ, run chân tay và đói cồn cào. Trong trường hợp không rõ ràng, xét nghiệm đường máu mao mạch sẽ giúp chẩn đoán phân biệt dễ dàng. Điều gì là cần thiết? Trong trường hợp lý tưởng, phụ nữ có bệnh tiểu đường nên được kiểm soát tốt và được theo dõi chăm sóc sức khỏe thường xuyên bởi một đội ngũ am hiểu về việc chăm sóc bệnh tiểu đường. Giáo dục là quan trọng. Những người bị bệnh tiểu đường, với sự giúp đỡ của các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, có thể giảm rủi ro cho các biến chứng của họ nếu họ được giáo dục về bệnh tật của mình, tìm hiểu và thực hành các kỹ năng cần thiết để kiểm soát tốt hơn glucose trong máu, cũng như huyết áp và cholesterol. Người không mắc bệnh tiểu đường khi mang thai nên được kiểm tra có mắc tiểu đường thai kỳ vào khoảng tuần thứ 24 và 28 trừ khi họ thuộc nhóm có nguy cơ thấp: bao gồm những phụ nữ ít hơn 25 tuổi, gia đình không có lịch sử mắc bệnh tiểu đường, có một trọng lượng cơ thể bình thường. Ths, Bs Nguyễn Huy Cường
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.