Nhiệt động học - Chương 4

pdf
Số trang Nhiệt động học - Chương 4 6 Cỡ tệp Nhiệt động học - Chương 4 493 KB Lượt tải Nhiệt động học - Chương 4 0 Lượt đọc Nhiệt động học - Chương 4 17
Đánh giá Nhiệt động học - Chương 4
4.2 ( 15 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Chương IV CHẤT LỎNG §4.1. CHẤT LỎNG Về chuyển động phân tử, đặc trưng cơ bản của chất lỏng là thế năng tương tác giữa các phân tử cỡ bằng động năng chuyển động nhiệt: ε t ~ ε đ . Chú ý rằng trong chất rắn, thế năng tương tác phân tử lớn hơn đáng kể so với động năng chuyển động nhiệt của các phân tử nên chuyển động nhiệt của phân tử là dao động quanh vị trí cân bằng. Chuyển động nhiệt ở chất lỏng là trung gian giữa chất khí và chất rắn: các phân tử dao động quanh một vị trí cân bằng nào đó và sau một số dao động thì bản thân vị trí cân bằng này dịch chuyển. Theo Frenkel, mối liên hệ giữa thời gian để phân tử chất lỏng thực hiện một dao động τDĐ và thời gian để nó dịch chuyển vị trí cân bằng một lần τDC là τ D Ð = τ DC e −ε / k T (1.1) B trong đó ε là năng lượng của phân tử. Với nước ở điều kiện bình thường thì τDĐ ~ 10-13 s và τDC ~ 10-11 s, tức là phân tử thực hiện khoảng 100 dao động thì dịch chuyển một lần. §4.2. CÁC HIỆN TƯỢNG BỀ MẶT CỦA CHẤT LỎNG 1. Nội áp suất Tương tác giữa các phân tử có cự ly ngắn, vì thế mỗi phân tử chỉ tương tác với một số phân tử bên cạnh nó trong phạm vi cự ly tương tác. Như vậy nếu lấy phân tử đang xét làm tâm, các phân tử tương tác với nó sẽ nằm trong một hình cầu có bán kính bằng cự ly tương tác. Hình cầu này có tên là hình cầu tương tác. Khi xét gần bề mặt chất lỏng thì vị trí của hình cầu tương tác có hai khả năng (Hình 4.1). Phân tử được gọi là nằm trong lòng chất lỏng nếu hình cầu tương tác nằm gọn trong lòng chất lỏng, lúc này lực tác dụng của các phân tử trong hình cầu lên phân tử ở tâm sẽ bằng không. Phân tử gọi là nằm trên bề mặt nếu hình cầu tương tác có một phần nằm ngoài mặt chất lỏng. Ở trường hợp này thực chất ta có một chỏm cầu tương tác, vì trong số các phân tử chất lỏng tương tác với phân tử xét không có Hình 4.1 phần nằm ngoài không khí (chất khí phía ngoài loãng hơn nhiều so với chất lỏng). Kết quả là tổng hợp lực tác dụng lên phân tử xét sẽ khác 0 và là một lực hướng vào trong lòng chất lỏng. 28 http://www.ebook.edu.vn Như thế tất cả các phân tử mặt ngoài đều chịu một lực hướng vào trong lòng chất lỏng. Lực này tạo nên một áp suất (hướng vào trong lòng chất lỏng) có vai trò làm giảm áp suất chất lỏng tác dụng lên thành bình, và gọi là nội áp suất phân tử. Nội áp suất phân tử có biểu thức giống như ở khí thực: pi = a . Vμ2 (2.1) Về bản chất thì nội áp suất phân tử ở chất lỏng và ở khí thực là như nhau, lập luận để rút ra công thức cũng giống nhau. Tuy nhiên vì các phân tử chất lỏng có lực tương tác lớn hơn nhiều so với khí thực nên nội áp suất phân tử trong trường hợp này cũng lớn hơn nhiều. Ta có thể thấy ngay điều này ở chỗ, với cùng một chất và ở cùng một điều kiện về áp suất và nhiệt độ, thể tích 1 kmol của chất lỏng nhỏ hơn nhiều so với thể tích 1 kmol chất khí dạng hơi bão hòa. Thí dụ, nước ở 40C, a = 5,47.105 Nm4/kmol2, Vμ = 0,018 m3/kmol, từ đó pi = 17 210 at. Áp suất này hết sức lớn. Tuy nhiên, nó không tác dụng lên vật rắn nhúng vào chất lỏng vì nội áp suất phân tử luôn luôn hướng vào trong lòng chất lỏng. 2. Sức căng mặt ngoài Nội áp suất pi làm cho mặt ngoài có xu hướng co lại. Như vậy một đoạn đường AB trên bề mặt chất lỏng sẽ chịu tác dụng của các lực vuông góc với AB và tiếp tuyến với bề mặt (Hình 4.2). Các lực này tác dụng cả hai phía của AB nên cân bằng. Tổng các lực tác dụng lên đoạn AB về một phía được gọi là sức căng mặt ngoài trên đoạn AB của bề mặt chất lỏng. Lực này sẽ thể hiện nếu AB là một đoạn dây chỉ mảnh. Hình 4.3 Hình 4.2 Thực nghiệm chứng tỏ sức căng mặt ngoài tỉ lệ với chiều dài của đoạn đường mà lực này tác dụng, tức là F = αl (2.2) trong đó hệ số tỉ lệ α có tên là hệ số căng mặt ngoài. Hệ số này có đơn vị là N/m. Sau đây là thí dụ về hệ số căng của một số chất lỏng: Chất (ở 200C) H2O Hg glycerin ether α (N/m) 0,073 0,540 0,065 0,017 Nếu có một khung dây kim loại mảnh và kín, trên đó có một màng chất lỏng thì trên mỗi đoạn có chiều dài l của khung sẽ chịu một sức căng mặt ngoài là F = 2α l. (2.3) 29 http://www.ebook.edu.vn Công thức có hệ số 2 do khung chịu tác dụng của màng có hai phía bề mặt. Trên hình 4.3 là một khung như thế, các mũi tên chỉ phản lực của sức căng. 3. Năng lượng mặt ngoài Sức căng mặt ngoài biểu thị có dự trữ một năng lượng (thế năng) trên bề mặt chất lỏng. Ta hãy tính năng lượng này. Lấy một khung dây hình chữ U bằng dây kim loại mảnh đạt nằm ngang và tiếp xúc với mặt chất lỏng (Hình 4.4). Dùng một thanh kim loại mảnh và thẳng gạt nhẹ trên khung để lôi mặt chất lỏng lên một chút trong phạm vi phần đóng kín của khung. Giả thử l = AB là đoạn thẳng của thanh tựa trên khung và vuông góc với hai cạnh biên của khung. Lực tác dụng lên AB bởi màng bề mặt chất lỏng chính là lực biểu thị bằng công thức (2.3). Ta hãy dịch thanh kim loại sang phải một đoạn bằng dx bằng cách dùng một lực ngoài cân bằng lực (2.3). Công thực hiện là dA = Fdx = α ldx = α dS trong đó dS là diện tích gia tăng của mặt chất lỏng trên khung. Công này chuyển thành thế năng của phần bề mặt chất lỏng tăng thêm. như vậy năng lượng mặt ngoài của chất lỏng Um = α S. (2.4) Công thức (2.4) cho thấy năng lượng mặt ngoài tỉ lệ với diện tích. Công thức cũng dẫn đến một tên khác của đơn vị hệ số căng mặt ngoài là J/m2. Hình 4.4 Hình 4.5 4. Giải thích một vài hiện tượng mặt ngoài Ta biết rằng các hệ vật lý tồn tại thực luôn có năng lượng nhỏ nhất có thể. Từ nguyên tắc đó có thể dùng công thức (2.4) để giải thích một số hiện tượng mặt ngoài của chất lỏng. Một giọt nước trong không khí, một giọt dầu trong nước có dạng hình cầu vì trong tất cả các khối có cùng thể tích thì hình cầu có diện tích mặt ngoài nhỏ nhất và do đó năng lượng mặt ngoài nhỏ nhất. Ở đây ta phải bỏ qua ảnh hưởng của trọng lực. Ta lấy một màng mỏng chất lỏng trên một khung kín (Hình 4.5). Đặt vào mặt chất lỏng đó một vòng dây chỉ nối kín, vòng có hình dạng tùy ý. Bây giờ dùng que nhỏ chọc thủng màng chất lỏng trong vòng chỉ. Vòng chỉ sẽ lập tức chuyển sang hình tròn. Giải thích như sau: trong các hình có cùng chu vi thì hình tròn có diện tích lớn nhất, nên phần màng chất lỏng còn lại có diện tích nhỏ nhất. 30 http://www.ebook.edu.vn §4.3. HIỆN TƯỢNG DÍNH ƯỚT Khi nhỏ một giọt chất lỏng lên mặt phẳng làm bằng chất rắn, phần tiếp xúc giữa chất lỏng và chất rắn sẽ có dạng như trên Hình 4.5. Phía trên của hệ là không khí. Tại một đoạn bé của đường G G biên ở điểm A, sức căng mặt ngoài là FLK . Chú ý rằng lực FLK có phụ thuộc vào bản chất của G chất khí ở vùng CK. Ở đây thực chất còn hai lực nữa tác dụng lên đoạn biên đang xét là lực FRK G xác định bởi (quan hệ giữa) chất rắn và chất khí, và lực FRL xác định bởi chất rắn vài chất lỏng. G G Góc θ hợp giữa lực FLK và FRL gọi là góc dính ướt. Khi biên đã xác lập thì chiếu của ba lực này lên phương ngang cân bằng nhau, tức là FRK = FRL + FLKcosθ. (3.1) Sự cân bằng theo phương thẳng đứng còn có trọng lượng của giọt chất lỏng và phản lực của mặt bàn tham gia. Nếu ký hiệu αRK, αRL và αLK là các hệ số căng trên đường biên của giọt chất lỏng trong mối quan hệ rắn-khí, rắn-lỏng và lỏng-khí lần lượt thì từ (3.1) suy ra αRK = αRL + αLKcosθ. (3.2) Vì cosθ luôn ≤ 1 nên từ (3.2) rút ra điều kiện để có thể có được cân bằng là |αRK - αRL| ≤ αLK. Hình 4.6a (3.3) Hình 4.6b Ta hãy xét hai trường hợp không thỏa mãn (3.3) hoặc thỏa mãn ở dạng đẳng thức: 1/. Khi αRK ≥ αRL + αLK: lực FRK lớn hơn hoặc bằng tổng trị số hai lực kia, chất lỏng sẽ chảy loang vô hạn trên mặt chất rắn, ta có θ = 0, chất lỏng gọi là dính ướt hoàn toàn (với chất rắn). 2/. Khi αRL ≥ αRK + αLK: lực FRL lớn hơn hoặc bằng tổng trị số hai lực còn lại, mặt tiếp xúc chất lỏng-chất rắn sẽ thu về một điểm (nếu không có lực trọng trường), ta có θ = π, chất lỏng gọi là hoàn toàn không dính ướt. Trong trường hợp (3.3) được thỏa mãn ở dạng bất đẳng thức, tức là |αRK - αRL| < αLK, thì chất lỏng được gọi là dính ướt một phần. Cụ thể hơn: - Nếu αRK > αRL thì 0 < θ < π/2: có dính ướt (một phần). - Nếu αRK ≤ αRL thì π/2 ≤ θ < π : không dính ướt (một phần). Hiện tượng dính ướt được ứng dụng trong việc làm giàu quặng. Người ta nghiền quặng có lẫn tạp chất thành các hạt nhỏ và bỏ vào một chất lỏng sao cho chất lỏng làm ướt hạt quặng nhưng không làm ướt hạt tạp chất. Phóng một luồng bọt khí vào chất lỏng: các hạt tạp chất sẽ bám vào bọt khí, nổi lên và được vớt đi. 31 http://www.ebook.edu.vn §4.4. HIỆN TƯỢNG MAO DẪN 1. Áp suất phụ dưới mặt khum Hiện tượng dính ướt làm cho bề mặt chất lỏng đựng trong ống có dạng một mặt khum, lồi lên hay lõm xuống tùy thuộc vào thành bình không hoặc có gây dính ướt. Hình 4.7 mô tả các mặt khum như thế, với các vectơ biểu thị phản lực của sức căng mặt ngoài (do thành bình tạo nên) đặt lên đường biên của mặt khum. Hình 4.7b Hình 4.7a Hình 4.9 Hình 4.8 Phản lực F’ của sức căng mặt ngoài tác dụng lên toàn đường biên sẽ là một lực hướng xuống (nếu không dính ướt) hoặc hướng lên (nếu có dính ướt). Lực này gây nên một áp suất lên bề mặt chất lỏng trong ống, gọi là áp suất phụ dưới mặt khum. Ta hãy tính áp suất này. Giả thử r là bán kính của ống, nếu r đủ nhỏ thì mặt khum là một mặt chỏm cầu, bán kính R, có cosθ = r/R (Hình 4.8): F' = ∫ dF 'cos θ = ∫ dF cos θ = ∫ α dl r r r2 = α 2π r = 2πα R R R trong đó dF là sức căng mặt ngoài trên đoạn bé của biên và dF’ là phản lực của nó. Gọi pf là áp suất phụ, ta có pf = F’/S, với S = π r 2, từ đó pf = 2α . R (4.1) Ta qui ước dấu cho công thức này như sau: bán kính R hướng xuống mang dấu dương, hướng lên mang dấu âm, dấu của áp suất phụ cũng vậy. 32 http://www.ebook.edu.vn Nói chung thì mặt khum là một mặt cong, không nhất thiết là chỏm cầu. Người ta chứng minh được rằng trên một mảnh nhỏ của mặt cong luôn tồn tại hai bán kính chính, R1 và R2, đặc trưng cho độ cong của mặt. Hai bán kính này một là cực đại và một còn lại là cực tiểu, thuộc hai cung tròn không trùng nhau và cùng qua đỉnh của mảnh mặt cong. Khi đó áp suất phụ dưới mặt khum là ⎛ 1 1 ⎞ pf = α ⎜ + ⎟. R2 ⎠ ⎝ R1 (4.2) Dấu của R1 và R2 vẫn xác định như qui ước nêu trên. Với mặt chỏm cầu thì R1 = R2 = R và công thức (4.2) trở về công thức (4.1). 2. Hiện tượng mao dẫn Lấy một ống tròn bằng thủy tinh có bán kính nhỏ và hở hai đầu. Nhúng ống theo phương thẳng đứng vào một chậu nước, ta thấy mực nước trong ống và bên ngoài ống không bằng nhau dù vẫn bình thông (Hình 4.9). Nguyên nhân của hiện tượng chính là sự dính ướt: nếu thành bình làm chất lỏng dính ướt thì mực chất lỏng trong ống dâng lên, ngược lại nếu thành bình không làm chất lỏng dính ướt thì mực chất lỏng hạ xuống. Sự chênh lệch chiều cao mực chất lỏng trong và ngoài một ống bình thông được gọi là hiện tượng mao dẫn. Trên Hình 4.9 có hai ống mao dẫn làm bằng hai loại thủy tinh khác nhau, một ống có gây dính ướt và một ống không gây dính ướt đối với chất lỏng nằm phía dưới. Ta hãy tính chiều cao của cột chất lỏng mao dẫn. Áp suất tại hai điểm A và B bằng nhau vì đều là áp suất khí quyển: pA = pB. Áp suất tại hai điểm A và C cũng bằng nhau vì cùng độ cao và bình thông: pA = pC. Nhưng pC = pB + ph – pf , trong đó ph là áp suất do cột chất lỏng có chiều cao h = CB tạo nên. Áp suất phụ pf hướng ngược với các áp suất còn lại nên đứng sau dấu âm. Như vậy ph = pf. Nếu ρ là khối lượng riêng của chất lỏng thì B B ph = ρgh. Mặt khác pf = 2α 2α cos θ . = R r Kết quả là thu được công thức cho chiều cao của cột chất lỏng mao dẫn như sau: h = 2α cos θ . ρ gr (4.3) Công thức cũng đúng cho trường hợp chất lỏng không dính ướt và lúc này (4.3) sẽ biểu thị mực chất lỏng hạ xuống. Cây cối đã hút nước bằng các ống mao dẫn trong thân cây: từ công thức (4.3) ta thấy để hút được nước lên cao thì cây xanh phải tạo ra các ống mao dẫn có bán kính r càng nhỏ càng tốt, nước phải được pha nhựa (do cây xanh tự tạo ra) để có hệ số căng α tăng lên, và tốt nhất là phải tạo dính ướt hoàn toàn (cosθ = 1). Nhiều cây xanh có chiều cao đến 30÷40 m vẫn hút được nước lên tận ngọn cây nhờ cơ chế này. 33 http://www.ebook.edu.vn
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.