Nghiên cứu tác động của đặc điểm ban kiểm soát đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính: Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam

pdf
Số trang Nghiên cứu tác động của đặc điểm ban kiểm soát đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính: Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam 9 Cỡ tệp Nghiên cứu tác động của đặc điểm ban kiểm soát đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính: Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam 9 MB Lượt tải Nghiên cứu tác động của đặc điểm ban kiểm soát đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính: Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam 1 Lượt đọc Nghiên cứu tác động của đặc điểm ban kiểm soát đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính: Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam 1
Đánh giá Nghiên cứu tác động của đặc điểm ban kiểm soát đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính: Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam
4.8 ( 10 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Nghiên cứu tác động... 1. GIỚI THIỆU Vai trò của báo cáo tài chính là cung cấp những thông tin tài chính cho các đối tượng sử dụng ngoài doanh nghiệp ngoài như các nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan ban hành chính sách và luật pháp, … một cách kịp thời và hợp lý. Cung cấp một báo cáo tài chính có chất lượng sẽ làm gia tăng hiệu quả đầu tư (Biddle và Hilary, 2006). Tuy nhiên, việc trình bày và công bố thông tin để đáp ứng được nhu cầu mong đợi của người sử dụng vẫn còn có khoảng cách khá lớn (Nguyễn Trọng Nguyên, 2016). Trên thực tế đã có nhiều sự kiện liên quan đến việc cung cấp báo cáo tài chính (BCTC) kém chất lượng, và đã gây hậu quả nghiệm trọng đến nền kinh tế trong nước và thế giới. Điển hình là sự kiện Enron đã gây thiệt hại ít nhất 5 tỷ USD cho các công ty tín dụng, bảo hiểm, năng lượng và ngân hàng trên thế giới, các công ty tài chính ở Nhật cũng thiệt hại khoảng 8 tỷ USD khi hợp tác cùng Enron. Tại Việt Nam có sự kiện của công ty Cổ phần Bông Bạch Tuyết, báo cáo kiểm toán năm 2007 thông báo lãi 2,25 tỷ đồng, sau đó thực hiện kiểm toán lại kết quả là lỗ 6,8 tỷ đồng, cả hai lần kiểm toán đều do công ty Kiểm toán và dịch vụ Tin học AISC thực hiện (Hồng Sương, 2008). Ngoài ra còn các sự kiện liên quan đến thông tin BCTC kém chất lượng như việc ghi nhận sai doanh thu, che dẫu lỗ của công ty Bibica năm 2002, công ty Viglacera Từ Sơn đã nhầm lẫn về việc công bố kết quả kinh doanh quý 3-2007, … Từ thực trạng trên đã làm dấy lên mối lo ngại về chất lượng thông tin BCTC, chất lượng thông tin do kế toán cung cấp được coi như là một tiêu chuẩn quan trọng để đảm bảo sự an toàn và khả năng mang lại hiệu quả cho các quyết định kinh doanh (Nguyễn Thị Kim Cúc, 2014). Để cung cấp được BCTC có chất lượng, đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng thì các công ty, đặc biệt là công ty niêm yết phải kiểm soát tốt quá trình tạo lập thông tin BCTC, mà quá trình đó bị chi phối rất nhiều bởi các nhà quản trị công ty (HĐQT, BKS, BGĐ). Theo kết quả một nghiên cứu của Biao Xie N.Davidson, Peter J.DaDalt (2003) về “Earning management and corperate: The roles of the board and the audit committee” cho thấy ban kiểm soát (BKS) có vai trò trong việc ngăn ngừa hành vi chi phối lợi nhuận. Kết quả nghiên cứu của Chtourou và cộng sự (2001) đã công bố nghiên cứu “Corporate Governance and Earnings Management”, kết quả nghiên cứu cho thấy đặc điểm của BKS có mối liên hệ đáng kể với hành vi chi phối lợi nhuận. Qua đó cho thấy, Ban kiểm soát có ý nghĩa quan trọng đối với chất lượng thông tin báo cáo tài chính của công ty. Nên tác giả đã lựa chọn nghiên cứu về tác động của đặc điểm ban kiểm soát đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính. 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU 2.1. Cơ sở lý thuyết Quản trị lợi nhuận Theo Ronnen & Yaari (2008) QTLN: “Là tập hợp các quyết định quản lý mà kết quả sẽ dẫn đến không phản ánh đúng lợi nhuận thực trong ngắn hạn, có tính chất tối đa hóa giá trị doanh nghiệp mà nhà quản lý đã biết về chúng. Hành vi QTLN có thể là mang lại lợi ích (cung cấp tín hiệu về giá trị trong dài hạn), nguy hại (che giấu giá trị ngắn hạn hoặc dài hạn) hoặc trung tính (che giấu giá trị ngắn hạn hoặc dài hạn)”. Theo định nghĩa này, QTLN kế toán được phân loại thành hai nhóm gồm: QTLN kế toán thông qua lựa chọn chính sách kế toán (các biến dồn tích) và QTLN kế toán thông qua các hoạt động kinh tế (thông qua các nghiệp vụ kinh tế phát sinh). Tuy nhiên, nghiên cứu này tác giả đo lường chất lượng thông tin BCTC thông quan biến dồn tích kế toán. Lý thuyết ủy nhiệm Sự phát triển của các công ty hiện đại và sự phân tách giữa chủ sở hữu doanh nghiệp và quản lý từ đó xuất hiện vấn đề ủy nhiệm. Lý thuyết ủy nhiệm ra đời giải thích mối quan hệ giữa bên ủy nhiệm và bên được ủy nhiệm, trong 13 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật đó bên được ủy nhiệm thay mặt bên ủy nhiệm để quản lý doanh nghiệp, thực hiện các công việc được ủy nhiệm (Jensen and Meckling, 1976). Lý thuyết ủy nhiệm giả định rằng cả hai bên đều tối đa hóa lợi ích của mình. Khi bên được ủy nhiệm hành động vì lợi ích riêng của họ mà gây bất lợi cho bên ủy nhiệm sẽ làm phát sinh chị phí ủy nhiệm (agency cost). Chi phí ủy nhiệm là chi phí trả cho sự xung đốt lợi ích giữa hai bên bao gồm phí giám sát, phí liên kết và phí khác. Lý thuyết nguồn lực Lý thuyết này cung cấp nền tảng về vai trò nguồn lực của hội đồng quản trị (HĐQT) được xây dựng bởi Pfeffer and Salancik (1977), lý thuyết này tập trung vào vai trò nguồn lực của HĐQT. Họ cho rằng hoạt động của các tổ chức sẽ có phụ thuộc lẫn nhau và các nguồn lực sẽ góp phần kiện toàn chức năng tổ chức và hoạt động của công ty. Theo một số nhà nghiên cứu như Xie và cộng sự (2003), Adams và Ferreira (2003) HĐQT của doanh nghiệp lớn hơn hoặc đa dạng hơn sẽ có lợi thế hơn để hưởng thụ và duy trì nguồn lực quan trọng như vốn con người, vốn xã hội, hiểu biết pháp luật. Erhardt và cộng sự (2003) cho rằng sự đa dạng trong HĐQT thể hiện ở giới tính, độ tuổi dân tộc, kinh nghiệm, ngành nghề, trình độ chuyên môn, trình độ học vấn. 2.2 Giả thuyết nghiên cứu Giới tính thành viên Ban kiểm soát Lợi ích kinh tế và sự nghiệp thành công là mối quan tâm của nam giới, nhiều khi họ có thể phá vỡ nguyên tắc để đạt được mục đích của mình. Còn nữ giới thì ngược lại, họ có xu hướng hòa đồng và ít thực hiện các hành vi phi đạo đức trong kinh doanh (Butz & Lewis, 1996; Mason & Mudrack, 1996). Hơn nữa theo một nghiên cứu về Ban giám đốc của Adams & Ferreira (2009) chỉ ra rằng các giám đốc nữ thường chăm chỉ, có tần suất tham dự cuộc họp cao. Từ quan điểm về tính cách đó so với nam giới, phụ nữ thường suy nghĩ cẩn thận hơn, phù hợp với ngành nghề quản lý kế toán và giám sát kế toán (Guanggui Ran và các cộng sự ,2015). Vì vậy, tác giả mong đợi rằng tỷ lệ giám sát nữ càng cao trong BKS thì chất lượng thông tin kế toán càng đáng tin cậy. - H1: Tỷ lệ kiểm soát viên nữ (KSV) trên tổng số kiểm soát viên càng cao thì chất lượng báo cáo tài chính của các công ty niêm yết càng cao. Trình độ chuyên môn về kế toán tài chính của BKS Nền tảng nghề nghiệp của người giám sát có thể ảnh hưởng đến hiệu quả giám sát của họ (Guanggui Ran và các cộng sự, 2015). Theo Xie, Davidson và DaDalt (2003) và Park & Shin (2004) cho rằng, các giám đốc độc lập có nền tảng tài chính có thể hạn chế hành vi quản trị thu nhập của giám đốc điều hành. Vì vậy, những KSV có nền tảng kế toán tài chính có thể phát hiện hành vi gian lận tài chính một cách kịp thời và nâng cao đội tin cậy về thông tin kế toán, do đó cải thiện chất lượng thông tin báo cáo tài chính của công ty. - H2: Tỷ lệ KSV có nền tảng kế toán tài chính trên tổng số KSV càng cao thì chất lượng BCTC của các công ty niêm yết càng cao. Tần suất cuộc họp của BKS Theo Salmon (1993) cho rằng giám đốc có thể quyết định tổ chức các cuộc họp dài hơn với tần suất thấp hơn khi đảm bảo rằng thông tin được cung cấp một cách tự do và kịp thời. Cuộc họp dài hơn không chỉ mất nhiều thời gian hơn mà còn thảo luận một cách kỹ càng hơn, giảm bớt chi phí đi lại cho các nhà quản lý (Guanggui Ran và các cộng sự, 2015). Tuy nhiên, theo Vafeas (1999) lập luận rằng tần suất cuộc họp là một sự ủy nhiệm hiệu quả hình thành mức độ chuyên cần của các bộ phận trong công ty. Theo đó tần số làm việc của Ban kiểm soát có thể giải thích cho mức độ nỗ lực giám sát và cường độ giám sát. Vì vậy, tác giả mong đợi tần suất cuộc họp của BKS có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng thông tin kế toán của công ty. 14 Nghiên cứu tác động... - H5: Trình độ học vấn của các KSV càng cao thì chất lượng BCTC của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán càng cao. Độ tuổi trung bình của BKS Người nhiều tuổi sẽ thận trọng hơn, đạo đức hơn nên khả năng họ bất chấp thủ đoạn để làm sai lệch để đạt được mục đích là ít xẩy ra (Sundaram & Yermack, 2007). Cũng xu hướng đó, Guanggui Ran và các cộng sự (2015) cho rằng những giám sát viên nhiều tuổi hơn có thể giúp cải thiện chất lượng thông tin kế toán. Vì vậy tác giả mong đợi độ tuổi trung bình của BKS càng cao thì càng ảnh hưởng tích cực tới chất lượng thông tin báo cáo tài chính, do đó luận văn dự kiến giả thuyết như sau: - H6: Tuổi trung bình của BKS càng cao thì chất lượng BCTC của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán càng cao. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng để xem xét tác động của đặc điểm BKS đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính với công cụ hỗ trợ phân tích là phần mềm stata 12.0. 3.1. Dữ liệu Mẫu dự kiến là các CTSXNY trên HOSE và HNX trong giai đoạn 2013-2017 sau khi loại bỏ các dữ liệu không đủ điều kiện thì tổng quan sát là 290 của 58 công ty. Tác giả lựa chọn giai đoạn này vì đây là giai đoạn cập nhật số liệu mới nhất và thông tin công bố của các CTNY về quản trị công ty (QTCT) tương đối đầy đủ theo thông tư 121/TT-BTC/2012 đề cập đến quy chế QTCT áp dụng cho các CTNY. 3.2. Mô hình nghiên cứu Một số nghiên cứu đã thừa nhận BKS có tác động đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính (Biao Xie N.Davidson, Peter J.DaDalt (2001), Guanggui Ran và các cộng sự (2015)). Nghiên cứu này muốn tìm kiếm bằng chứng chứng minh đặc điểm của BKS có tác động đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính, mô hình hồi quy gồm có 6 biến độc lập Giới tính thành viên Ban kiểm soát, trình độ chuyên môn về kế toán tài - H3: BKS có tần suất cuộc họp càng cao thì chất lượng BCTC của các công ty niêm yết càng cao. Tỷ lệ cổ phiếu sở hữu bởi KSV Theo lý thuyết ủy nhiệm cho rằng có sự phân quyền giữa sở hữu công ty và người quản lý. Theo Jensen & Meckling (1976) cho rằng, việc cung cấp cho các nhà quản lý một số mức độ sở hữu là chi phí đại diện thấp. Bên cạnh đó Conger, Finegold và Lawler (1998) chỉ ra rằng cơ chế khuyến khích phải được thiết lập để làm cho lợi ích của nhà quản lý và cổ đông nhất quán. Theo kết quả nghiên cứu của Guanggui Ran và các cộng sự (2015), có mối quan hệ tích cực giữa các khoản thưởng cho các giám sát viên và chất lượng thông tin BCTC của công ty. Tuy nhiên, dù là cổ phiếu được các cổ đông thưởng hay cổ phần của KSV đó góp vốn ban đầu, điều đó cũng làm hại đến tính khách quan của thông tin tài chính. Bởi những lợi ích làm cho các KSV có thể bất chấp quy tắc để đạt được mục tiêu cá nhân. Vì vậy, tác giả dự kiến giả thuyết như sau: - H4: Tỷ lệ tổng cổ phiếu sở hữu bởi KSV trên tổng cổ phiếu đang lưu hành càng cao thì chất lượng BCTC của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán càng thấp. Trình độ học vấn của BKS Một trong những nhiệm vụ của BKS là giám sát các hoạt động kinh doanh của công ty. Theo Joachim (1991) cho rằng, người giám sát phải thực hiện nhiệm vụ của mình một cách thận trọng và có kiến thức liên quan, ví dụ như kế toán, tài chính, quản lý kinh doanh. Theo nghiên cứu của tác giả Bathula (2008) có mối quan hệ giữa trình độ học vấn của hội đồng quản trị và hiệu quả hoạt động kinh doanh. Kết quả nghiên cứu của Guanggui Ran và các cộng sự (2015) cho thấy trình độ học vấn của BKS có ảnh hưởng tích cực tới chất lượng thông tin BCTC. Vì vậy, tác giả kỳ vọng trình độ học vấn của người giám sát càng cao khả năng giám sát của họ càng tốt và do đó chất lượng thông tin kế toán càng đáng tin cậy. 15 Nghiên cứu tác động... Bảng 1. Thực trạng chất lượng thông tin BCTC đo lường theo QTLN Năm Giá trị trung bình Std.Dev. Min Max 2013 0.1575702 0.1627957 0.0000428 0.677761 2014 0.1637262 0.1547285 0.0004821 0.788131 2015 0.1849852 0.1827935 0.0003635 0.8616081 2016 0.1607853 0.1610104 0.0026161 0.730263 2017 0.2190259 0.2957045 0.0012705 1.752343 5 năm 0.1772186 0.19140652 0.0009550 0.96202122 Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm Stata 12.0 và Excell 2016 Để lựa chọn mô hình phù hợp, đầu tiên tác giả hồi quy mô hình Pooled OLS, FEM và tiến hành kiểm định F. Kết quả thấy F = 8,26 và Prob>F = 0.000 < 0.05 nên bác bỏ giả thuyết H0. Như vậy mô hình FEM phù hợp với dữ liệu nghiên cứu hơn mô hình Pooled OLS nên tác giả chọn mô hình FEM. Tiếp theo tác giả tiến hành chạy mô hình REM kiểm định Hausman để so sánh mô hình FEM và REM, kết quả cho thấy p-value = 0.0255 < 0.05 nên bác bỏ giả thuyết H0 tác giả chọn mô hình. Như vậy theo tính chất bắc cầu, trong ba mô hình Pooled OLS, FEM, REM thì mô hình FEM là phù hợp nhất. Sau khi lựa chọn mô hình phù hợp tác giả, tiến hành kiểm định bệnh của mô hình. Để mô hình hồi quy đủ giá trị dự đoán, nghiên cứu tiến hành kiểm định mối tương quan giữa các biến và hiện tượng đa cộng tuyến, kết quả thể hiện bảng 2 cho thấy các biến trong mô hình hồi quy không có mối tương quan mật thiết (hệ số tương quan <0.8) không bị hiện tượng đa cộng tuyến (Vif < 10). Bảng 2. Ma trận tương quan FRQ AGEit FRQ 1 AGEit -0.2072 1 EDUit SHARE -0.171 0.0359 HOLDit MEETINGit ACCit GENDERit -0.0091 -0.0015 EDUit SHARE- MEET- HOLDit INGit ACCit GEND- VIF ERit 1.08 1.06 1 -0.0238 1.01 1 -0.2347 0.247 0.1989 0.0744 1 -0.1524 0.0937 -0.0081 -0.1446 0.1479 -0.0462 -0.027 -0.0684 0.0548 -0.1546 1.13 1 0.0498 1.03 1 1.05 Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm Stata 12.0 Để kiểm định hiện tượng tự tương quan của mô hình FEM, Wooldrige đề xuất kiểm định tự tương quan trên Uit bằng kiểm định Breusch – Godfrey với câu lệnh xtserial trong phần mềm Stata 12.0. Kết quả kiểm định cho thấy F(1,57) = 0.506 và Prob > F = 0.4798 > 0,05 chấp nhận giả thuyết H0, do đó mô hình không bị hiện tượng tự tương quan bậc 1. Để kiểm định phương sai thay đổi cho mô hình FEM, tác giả tiến hành kiểm định Modified 17 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Wald. Kết quả kiểm định cho thấy Prob>chi2 = 0.0000 < 0.05 nên bác bỏ giả thuyết H0, do đó mô hình xẩy ra hiện tượng phương sai thay đổi. Từ các kết quả kiểm định trên cho thấy mô hình tác động cố định FEM chỉ vi phạm hiện tượng phương sai thay đổi. Để khắc phục hiện tượng này, tác giả sử dụng tùy chọn Robust để hiệu chỉnh, kết quả chạy mô hình với tùy chọn Robust được thể hiện ở bảng 3 như sau: Bảng 3. Bảng kết quả hồi quy mô hình Fixed effects với tùy chọn Robust Robust Std. Err. FQR Coef. AGEit -0.0011957 0.0049964 -0.24 0.812 EDUit -0.1918901 0.0711129 -2.70 0.009 0.0292820 0.0064594 4.53 0.000 MEETINGit -0.0645224 0.0203742 -3.17 0.002 ACCit -0.1955954 0.0913596 -2.14 0.037 GENDERit -0.1752603 0.0915581 -1.91 0.061 0.9938514 0.4518539 2.20 0.032 SHAREHOLDit _cons t P>|t| Hệ số R2:24,04%; n =290 quan sát; F(6,57)=7.67; Prob>F=0.000 Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm Stata 12.0 Từ kết quả kiểm định trong Bảng 3 cho thấy, trong 6 biến tác giả đưa vào mô hình thì có 4 biến tác động đến chất lượng thông tin BCTC trong đó có 3 biến EDUit, MEETINGit, SHAREHOLDit có mức ý nghĩa thống kê 1% và biến ACCit có mức ý nghĩa 5%. Biến EDUit: Với coef = -0.1918901và P value = 0.009, cho thấy trình độ học vấn có tác động cùng chiều với chất lượng thông tin BCTC. Kết quả nghiên cứu này nhất quán với kết quả của các tác giả Dunlhy, Turne & Crawfor (2005) về trình độ học vấn ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh và trái ngược với kết quả nghiên cứu của Bathula (2008) về mối quan hệ giữa thành viên có bằng tiến sĩ với hiệu quả hoạt động của công ty. Biến SHAREHOLDi,t: Kết quả cho thấy thành viên BKS có tỷ lệ sở hữu cổ phiếu càng cao thì càng làm tăng hành vi QTLN làm cho chất lượng thông tin BCTC càng thấp, điều này phù hợp với lý giải của lý thuyết đại diện và với kỳ vọng của nghiên cứu, do đó kết quả nghiên cứu này chấp nhận giả thuyết H4. Kết quả này trái ngược với kết quả nghiên cứu của Sáenz González, J. and García-Meca, E.,(2014), Guanggui Ran và các cộng sự (2015) có sự tác động cùng chiều giữa sở hữu cổ phiếu với chất lượng thông tin BCTC. Biến MEETINGit : Với coef = -0.0645224 và P value = 0.002, cho thấy tần suất cuộc họp của BKS tác động tích cực đến chất lượng thông tin BCTC. Kết quả nghiên cứu này trùng với kết quả nghiên cứu của Chtourou và cộng sự (2001), với các công ty có tần suất cuộc họp của BKS trên 2 lần/năm thì hạn chế hành chi QTLN; kết quả nghiên cứu Nguyễn Trọng Nguyên (2016) về tần suất cuộc họp của HĐQT cũng chỉ ra rằng số lượng cuộc họp của HĐQT có ảnh hưởng cùng chiều đến chất lượng thông tin BCTC. Với kết quả nghiên cứu của Guanggui Ran và các cộng sự (2015), cho thấy chất lượng thông tin BCTC được đo lường bằng phương pháp ERC thì tần suất cuộc họp có ảnh hường thuận chiều với chất lượng thông tin BCTC của công ty. Biến ACCit: Kết quả cho thấy rằng tỷ lệ kiểm soát viên có nền tảng tài chính kế toán càng cao 18 Nghiên cứu tác động... cơ chế giám sát QTCT, cụ thể trong nghiên cứu này là BKS để giảm xung đột lợi ích, giảm tình trạng thông tin bất cân xứng giữa QTCT và cổ đông. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đóng góp bằng chứng cho thấy lý thuyết nguồn lực là cơ sở giải thích yêu cầu các thành viên BKS phải có các đặc điểm như trình độ chuyên môn về tài chính kế toán, số lần họp, trình độ học vấn, mới thực hiện tốt vai trò giám sát tài chính, hạn chế hành vi QTLN và nâng cao chất lượng thông tin báo cáo tài chính. Do đó, nghiên cứu này cung cấp cơ sở cho các CTNY thấy được vai trò của BKS trong việc nâng cao chất lượng thông tin báo cáo tài chính, để tiến hành xây dựng cơ cấu BKS theo đúng quy định về QTCT đã được ban hành theo nghị định 71/2017/NĐ-CP trên tinh thần tự nguyện từ đó hoàn thiện hệ thống QTCT để QTCT hoạt động một cách có hiệu quả. thì chất lượng thông tin BCTC càng cao, kết quả này trùng với kết quả của Biao Xie N.Davidson, Peter J.DaDalt (2001); Guanggui Ran và các cộng sự (2014). Kết quả nghiên cứu này nhất quán với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Trọng Nguyên (2016) về sự hiện diện của thành viên BKS có chuyên môn kế toán tài chính. Kết luận và đóng góp của nghiên cứu Thông qua kết quả hồi quy, nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng đáng tin cậy khi thừa nhận BKS bốn đặc điểm trình độ chuyên môn về kế toán tài chính của BKS, tần suất cuộc họp của BKS, tỷ lệ cổ phần sở hữu bởi KSV, trình độ học vấn của BKS tác động đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính. Từ kết quả nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm tại các CTNY, cho thấy lý thuyết đại diện là cơ sở giải thích cho việc thiết lập TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Adams, Renée B.; Ferreira, D., 2009. Center for Economic Institutions Working Paper Series [2]. Bathula , H. 2008. Board Characteristics and Firm Performance: Evidence from New Zealand, PhD unpublished thesis, Auckland University of Technology [3]. Biddle, GC and Hilary, G, 2006. Accounting Quality and Firm-level Capital Investment Department of Accounting Hong Kong University of Science and Technology Clear Water Bay, Kowloon. Accounting Review, 81(5), pp.963–982 [4]. Butz, C.E. and Lewis, P. V, 1996. Correlation of Gender-Related Values of Independence and Relationship and Leadership Orientation. pp.1141–1149 [5]. Dechow, P., Sloan, R., and Sweeney, A. 1995. Detecting Earnings Management. The Accounting Review, 70(2), 193–225. [6]. Dunphy, D., Turner, D. and Crawford, M., 2005. competencies Organizational learning as the competencies. 16(4), pp.232–244. [7]. Erhardt, N. L., Werbel, J. D., & Shrader, C. B. 2003. Board of director diversity and firm financial performance. Corporate Governance: An International Review,11(2), 102–111. [8]. Hồng Sương, 2008. Từ chuyện bông Bạch Tuyết: Báo cáo tài chính bẩy nhà đầu tư. Tuổi trẻ Onlinevhttp://tuoitre.vn/tinkinhte/taichinh/20080715/tu-chuyen-bong-bach-tuyet-bao-cao-taichinh-bay-nha-dau-tu/ truy cập ngày 30/0/18 [9]. Jensen, Michael C, and William H Meckling. 1976. Theory of the Firm : Managerial Behavior, Agency Costs and Ownership Structure. Journal of Financial Economics, 3 (4): 305–60. [10]. Joachim, W. (1991). The liability of supervisory board directors in Germany. International Lawyer, 25, 41–67. [11]. Jones, J. J. 1991. Earnings Management During Import Relief Investigations. Journal of Accounting Research, 29(2): 193. 19 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật [12]. Nguyễn Thị Kim Cúc, 2014. Kế toán tài chính doanh nghiệp Việt Nam – nhìn từ khung pháp lý về kế toán. Kỷ yếu hội thảo khoa học: Kế toán tài chính, những thay đổi và phát triển trong tiến trình hội nhập, TPHCM, Việt Nam, tháng 12/2014. Trường ĐH Kinh tế TPHCM. [13]. Nguyễn Trọng Nguyên, 2016. Tác động của quản trị công ty đến chất lượng BCTC tại các công ty niêm yết tại Việt Nam. Luận án tiến sĩ, ĐH Kinh tế TP.HCM, 2016 [14]. Park, Y.W. and Shin, H.H., 2004. Board composition and earnings management in Canada. Journal of Corporate Finance, 10(3), pp.431–457 [15]. Pfeff, J., 1977. Gerald R. Salancik Jeffrey Pfeff er. Organizational Dynamics, pp.3–21 [16]. Ran, G., Fang, Q., Luo, S. and Chan, K.C., 2015. Supervisory board characteristics and accounting information quality: Evidence from China. International Review of Economics and Finance, 37, pp.18–32. [17]. Sáenz González, J. and García-Meca, E., 2014. Does Corporate Governance Influence Earnings Management in Latin American Markets? Journal of Business Ethics, 121(3), pp.419–440. [18]. Salmon, W. J. (1993). Crisis prevention: How to gear up your board. Harvard Business Review, 71(1), 68–75. [19]. Sundaram, R.K. and Yermack, D.L., 2007. Pay Me Later : Inside Debt and Its Role A Case Study : Jack Welch of General Electric. LXII(4), pp.1551–1588. [20]. Vafeas, N. (1999). Board meeting frequency and firm performance. Journal of Financial Economics, 53(1), 113–142. [21]. Xie, B., Davidson, W. N., & DaDalt, P. J. 2003. Earnings management and corporate governance: The role of the board and the audit committee. Journal of Corporate Finance, 9(3), 295–316. 20
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.