Nghiên cứu đặc điểm tổn thương động mạch vành và tiên lượng ngắn hạn của bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp sau dưới tại Bệnh viện Đa khoa trung tâm An Giang

pdf
Số trang Nghiên cứu đặc điểm tổn thương động mạch vành và tiên lượng ngắn hạn của bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp sau dưới tại Bệnh viện Đa khoa trung tâm An Giang 10 Cỡ tệp Nghiên cứu đặc điểm tổn thương động mạch vành và tiên lượng ngắn hạn của bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp sau dưới tại Bệnh viện Đa khoa trung tâm An Giang 8 MB Lượt tải Nghiên cứu đặc điểm tổn thương động mạch vành và tiên lượng ngắn hạn của bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp sau dưới tại Bệnh viện Đa khoa trung tâm An Giang 0 Lượt đọc Nghiên cứu đặc điểm tổn thương động mạch vành và tiên lượng ngắn hạn của bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp sau dưới tại Bệnh viện Đa khoa trung tâm An Giang 1
Đánh giá Nghiên cứu đặc điểm tổn thương động mạch vành và tiên lượng ngắn hạn của bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp sau dưới tại Bệnh viện Đa khoa trung tâm An Giang
4.4 ( 17 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM TỔN THƯƠNG ĐỘNG MẠCH VÀNH VÀ TIÊN LƯỢNG NGẮN HẠN CỦA BỆNH NHÂN NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP SAU DƯỚI TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG TÂM AN GIANG Phạm Huỳnh Minh Trí, Phan Thị Mỹ Nhân Đào Minh Thông, Nguyễn Hữu Thành Tóm tắt: Mục tiêu: Khảo sát tổn thương động mạch vành và tiên lượng ngắn hạn các trường hợp nhồi máu cơ tim vùng dưới có và không kèm theo nhồi máu thất phải. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang các trường hợp nhồi máu cơ tim thất phải, so sánh giữa hai nhóm có và không có nhồi máu thất phải, đối chiếu với hình ảnh chụp mạch vành chọn lọc. Kết quả: Có 62 bệnh nhân được chụp DSA, trong đó có 50 trường hợp có liên quan thất phải (55,5%). tổn thương ĐMV phải riêng rẽ gặp trong 32/62, ĐM Mũ riêng rẽ trong 2/62 (không liên quan thất phải) và phối hợp với tổn thương các ĐMV khác trong 28/62. Tổn thương ĐMV phải chủ yếu liên quan đến đoạn II (36/62), trong đó đa số là có liên quan thất phải (24/36). Trong 24g đầu tiên, biến chứng tụt HA và Bloc nhĩ-thất hoàn toàn thường gặp hơn trong nhóm có liên quan thất phải so với nhóm không liên quan thất phải (68% so với 20% và 40% so với 0% tương ứng, với p < 0,001). Trong tuần đầu tiên, trong nhóm có liên quan thất phải vẫn còn 6/50 trường hợp tồn tại bloc nhĩ-thất hoàn toàn và 8/50 trường hợp tử vong. Kết luận: NMCT thất phải khá thường gặp trong NMCT vùng dưới. Bloc nhĩ - thất hoàn toàn và tụt HA là hai biến chứng sớm thường gặp hơn và tỉ lệ tử vong trong tuần đầu cũng cao hơn nếu NMCT vùng dưới có liên quan thất phải so với NMCT vùng dưới không liên quan thất phải. Summary: Objective: To investigate coronary artery damage and to short-term prognosis of lower MI with and without RV infarction. Subjects and research methods: Cross-sectional descriptive studies of right ventricular myocardial infarction cases, comparing two groups with and without RV infarction, compared with selective coronary angiography. Results: There were 62 patients having DSA scan, of which 50 cases related to the right ventricle (55.5%). coronary lesions must be isolated in 32/62, separate coronary in 2/62 (not related to the right ventricle) and coordinated with other coronary lesions in 28/62. The damage to coronary right mainly related to segment II (36/62), in which most are related to the right ventricle (24/36). In the first 24 g, complications of hypotension and complete atrioventricular bloc were more common in the RV-related group than in the non-RV related group (68% vs 20% and 40% vs 0%, respectively. , with p <0.001). In the first week, in the group concerned with the right ventricle still 6/50 cases existed complete atrioventricular block and 8/50 cases died. Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 322 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Conclusion: RV MI is quite common in inferior MI. Atrial-complete ventricular block and hypotension are the two more common early complications and the death rate in the first week is also higher if the lower region MI is associated with the right ventricle compared with the lower region not related to the RV. I.Đặt vấn đề: Bệnh tim mạch đã trở thành vấn đề sức khỏe hàng đầu ở hầu hết các nước phát triển. ở các nước đang phát triển, bệnh tim mạch cũng đã và đang trở thành bệnh chiếm hàng thứ nhất về tỷ lệ mắc cũng như tử vong. Trong số các bệnh tim mạch, bệnh mạch vành rất thường gặp, có thể gây biến chứng loạn nhịp tim hoặc tử vong nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. Hơn 50% các trường hợp nhồi máu cơ tim vùng dưới có liên quan đến thất phải. Bệnh cảnh nặng hơn và tiên lượng xấu hơn khi có liên quan thất phải. Ngoài ra do cơ chế sinh bệnh khác nhau nên điều trị cũng có phần khác nhau [6].Tuy nhiên, hiện tại ở trong nước vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về những bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim vùng sau dưới. Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu: 1. Tìm hiểu hình ảnh tổn thương động mạch vành trên chụp số hóa xóa nền (DSA) ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp vùng dưới. 2. Đánh giá tiên lượng ngắn hạn của bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp vùng dưới. II. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Đối tượng: Chúng tôi chọn tất cả bệnh nhân được chẩn đoán xác định nhồi máu cơ tim (NMCT) cấp vùng dưới có hoặc không NMCT thất phải kèm theo, điều trị tại khoa Nội Tim mạch – Lão học Bệnh viện ĐKTT An Giang. Thời gian thực hiện từ tháng 3/2019 đến 9/2020. Tiêu chuẩn chọn bệnh: Dựa theo tiêu chuẩn chẩn đoán NMCT vùng dưới của Tổ chức Y tế thế giới [8]: • Chẩn đoán xác định NMCT vùng dưới khi có ít nhất 2 trong 3 tiêu chuẩn sau: - Lâm sàng có cơn đau thắt ngực (điển hình hoặc không điển hình) kéo dài hơn 30 phút, không đáp ứng với thuốc giãn mạch vành. - Thay đổi của đoạn ST (ST chênh lên và T đảo, ST chênh lên ít nhất 1mm hoặc ST chênh xuống), có thể kèm hoặc không kèm theo sự xuất hiện sóng Q hoại tử trên điện tâm đồ ở ít nhất 2 trong 3 chuyển đạo DII, DIII, aVF - Tăng các men tim trong huyết thanh (Troponin T) • Chẩn đoán nhồi máu cơ tim thất phải ở bệnh nhân NMCT vùng dưới: - Có đủ tiêu chuẩn chẩn đoán NMCT vùng dưới - Có ST chênh lên ở ít nhất một trong các chuyển đạo từ V3R đến V6R Tiêu chuẩn loại trừ: - Bệnh nhân NMCT vùng dưới có phối hợp với NMCT ở các vùng khác (vùng trước, vùng bên,…) được xác định dựa trên điện tâm đồ 12 chuyển đạo bề mặt. Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 323 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 - Các bệnh có thể làm ST chênh lên như: viêm màng ngoài tim, viêm cơ tim, thuyên tắc phổi,… 2.2. Phương pháp nghiên cứu: 2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành bằng phương pháp mô tả cắt ngang, theo dõi thời gian 1 tuần. 2.2.2. Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành ghi chép đầy đủ các số liệu về mặt lâm sàng (các triệu chứng cơ năng, triệu chứng thực thể), cận lâm sàng, kết quả chụp mạch vành, và cách thức điều trị (điều trị nội khoa, dùng thuốc tiêu sợi huyết hay can thiệp mạch vành), diễn tiến, biến chứng trên từng bệnh nhân được chẩn đoán bị NMCT vùng dưới khi vào viện và trong vòng 7 ngày kể từ khi vào viện. • Đánh giá bất thường về hệ ĐMV: + Dựa vào độ hẹp của tổn thương chúng tôi chia ra 6 mức độ hẹp [1]: 0: Không hẹp 1: Thành mạch không đồng đều, nhưng không hẹp khẩu kính 2: Hẹp không có ý nghĩa khi hẹp khẩu kính < 50% 3: Hẹp có ý nghĩa khi hẹp khẩu kính từ 50-75% 4: Hẹp khít khi hẹp khẩu kính từ 75-95% 5: Hẹp rất khít gần như toàn bộ khẩu kính từ 95-100%; kèm ứ đọng thuốc cản quang trước chỗ hẹp. 6: Tắc hoàn toàn III.Kết quả nghiên cứu: 90 bệnh nhân NMCT vùng dưới được chọn và đồng ý tham gia nghiên cứu, trong đó có 50 bệnh nhân có liên quan thất phải, 62 bệnh nhân được tiến hành chụp kiểm tra mạch vành (24 bệnh nhân NMCT vùng dưới không liên quan thất phải và 38 bệnh nhân NMCT vùng dưới có liên quan thất phải) chúng tôi thu được kết quả như sau: 3.1. Hình ảnh chụp mạch vành: Bảng 1. Hình ảnh tổn thương ĐMV ở bệnh nhân NMCT vùng dưới: ĐMV tổn thương Phải Mũ LTT Phải + Mũ Phải + LTT Không liên quan thất phải Có liên quan thất phải n (%) n 10 2 0 2 2 n (%) n 22 0 0 2 8 % 41,8 8,3 0 8,3 8,3 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang % 57,8 0 0 5,3 21,1 Tổn g n (%) n 16 1 0 2 5 % 51,9 8,3 0 6,4 16,1 Trang 324 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Mũ + LTT Phải + Mũ + LTT Tổng 2 6 8,3 25,0 2 4 5,3 10,5 24 100 38 100 2 5 6,4 16 62 100 Nhận xét: Tổn thương ĐMV phải đơn thuần ở bệnh nhân NMCT vùng dưới nhiều hơn tổn thương các ĐMV còn lại có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Bảng 2. Vị trí tổn thương ĐMV phải: Không liên quan thất phải n % 8 40,0 Có liên p Tổn quan g Vị trí thất phải n % n % Đoạn I 6 16, > 0,05 14 24,99 7 Đoạn II 10 50,0 26 72, < 0,05 36 64,30 2 Đoạn III 2 10,0 4 11, > 0,05 6 10,71 1 Tổng 20 100 36 100 56 100 Nhận xét: Tổn thương đoạn II ĐMV phải ở nhóm có liên quan thất phải gặp nhiều hơn so với nhóm không liên quan thất phải có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Bảng 3. Đánh giá bất thường ĐMV phải theo mức độ hẹp: Không liên quan thất phải Độ hẹp n % Có liên quan thất phải n Tổng p % n % Độ 1 2 8,3 0 0 > 0,05 2 3,2 Độ 2 2 8,3 2 5,2 > 0,05 6 6,4 Độ 3 4 16,7 4 10,5 > 0,05 8 13,0 Độ 4 6 25,0 10 26,4 > 0,05 16 25,8 Độ 5 6 25,0 12 31,5 > 0,05 18 28,9 Độ 6 4 16,7 10 26,4 > 0,05 14 22,7 Tổng 24 100 38 100 62 100 Nhận xét: Các mức độ hẹp ĐMV phải không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở hai nhóm NMCT vùng dưới không liên quan và có liên quan thất phải. Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 325 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 3.2.Các biến chứng chính của bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp vùng dưới: Bảng 4. Các biến chứng chính và tỷ lệ tử vong trong vòng 24 giờ đầu nhập viện: Biến chứng Không liên quan thất phải Có quan phải n (%) liên thất p Tổn g n (%) n (%) Tụt HA 8 (20,0%) 34 (68,0%) < 0,01 42(46.7%) Choáng tim 2 (5,0%) 10 (20,0%) > 0,05 12 (13,3%) Bloc nhĩ thất độ 1 2 (5,0%) 6 (12,0%) > 0,05 8 ( 8.9%) Bloc nhĩ thất độ 2 4 (10,0%) 2 (4,0%) > 0,05 6 ( 6.7%) Bloc nhĩ thất độ 3 0 20 (40,0%) < 0,01 20 (22.2%) Rung nhĩ 2 (10,0%) 0 > 0,05 4 (4,4%) Ngoại tâm thu 0 6 (12,0%) > 0,05 6 (6,7%) Tử vong 0 0 0 Nhận xét: - Biến chứng gặp chủ yếu ở bệnh nhân NMCT vùng dưới có liên quan thất phải tụt huyết áp chiếm tỷ lệ cao hơn, nhóm không liên quan thất phải có ý nghĩa thống kê (p < 0,01) - Bloc nhĩ thất cấp 3 chỉ gặp ở nhóm NMCT vùng dưới có liên quan thất phải (p < 0,01) - Không có bệnh nhân nào tử vong trong ngày đầu nhập viện Bảng 5. Các biến chứng chính và tỷ lệ tử vong trong 7 ngày nhập viện: Biến chứng Không liên quan thất phải n (%) Tụt HA 2 (5,0%) Có liên quan thất phải n (%) 6 (12,0%) Choáng tim 1 (2,5%) 6 (12%) Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Tổn g n (%) p > 0,05 > 8 (8,9%) 7 (7,6%) Trang 326 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Bloc nhĩ thất độ 1 Bloc nhĩ thất độ 2 Bloc nhĩ thất độ 3 Rung nhĩ 1 (2,5%) 14 (28,0%) 1(2,5%) 0,05 > 0,05 0 1(2,5%) 15(16,2%) 1 (1,2%) 6 (12,0%) > 7 (7,8%) 0,05 4 (10,0%) 0 > 4 (4,6%) 0,05 Ngoại tâm thu 0 2 (4,0%) > 2 (2,3%) 0,05 Tử vong 0 8 (16,0%) > 8 (8,9%) 0,05 Nhận xét: Tỷ lệ tử vong trong 7 ngày điều trị chỉ gặp ở nhóm bệnh nhân có liên quan thất phải. IV. Bàn luận: 4.1. Đặc điểm tổn thương động mạch vành: Trong nghiên cứu của chúng tôi, tổn thương ĐMV phải đơn thuần chiếm tỷ lệ cao nhất 51,9%, nhóm bệnh nhân NMCT vùng dưới có liên quan thất phải có tỷ lệ tổn thương ĐMV phải đơn thuần cao hơn so với nhóm không liên quan thất phải (p > 0,05). Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của Bùi Ngọc Minh, Phạm Vũ Thanh [2];[3] . Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Hécto Bueno và cộng sự ở bệnh nhân NMCT vùng dưới thì tổn thương ĐMV phải ở nhóm có liên quan thất phải chiếm tỷ lệ cao hơn so với nhóm không liên quan thất phải (90% so với 68%, p < 0,01), và ngược lại ở nhóm không liên quan thất phải ĐM mũ tổn thương chiếm tỷ lệ cao hơn so với nhóm có liên quan thất phải (29% so với 7%, p < 0,01) [8]. Sự khác biệt của nghiên cứu chúng tôi so với tác giả Hécto Bueno có lẽ là do số lượng bệnh nhân được tiến hành chụp mạch vành của chúng tôi còn ít.Tổn thương đoạn II của ĐMV phải gặp nhiều hơn ở nhóm bệnh nhân NMCT 4.2. Biến chứng: 4.2.1. Tụt huyết áp - Choáng tim: Bảng 1. So sánh tỷ lệ choáng tim với các tác giả trong và ngoài nước: Nghiên cứu Cỡ mẫu Không liên quan Có liên quan P thất phải % (n) thất phải % (n) Chúng tôi 90 10 40 >0,05 Phạm Vũ Thanh 45 5 20 >0,05 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 327 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Huỳnh.V.Thưởng 76 4 26 <0,01 Hecto Bueno 798 3 15 <0,001 Piotr Kukla 181 4 21 0,004 Kết quả này của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Phạm Vũ Thanh, E. Gian-nitsis và cộng sự (tổn thương đoạn I+ II của ĐMVP gặp nhiều hơn ở nhóm có liên quan thất phải so với nhóm không liên quan thất phải (84,6% so với 6,6%)) [3];[5]. Giải phẫu của ĐMVP: đoạn 2 có nhánh bên thất phải tưới máu cho thành tự do (bên) thất phải và nhánh bờ thất phải chịu trách nhiệm tưới máu cho thành tự do (sau dưới) thất phải. Chính vì vậy khi đoạn này bị tổn thương sẽ gây ra tổn thương, nhồi máu thất phải, biểu hiện trên điện tâm đồ là sự chênh lên của các chuyển đạo bên phải V3R, V4R [7]. Tất cả nghiên cứu trên đều cho thấy choáng tim ở nhóm bệnh nhân NMCT vùng dưới có liên quan thất phải cao hơn nhóm bệnh nhân NMCT vùng dưới đơn thuần. Trong nghiên cứu của chúng tôi, choáng tim ở nhóm có liên quan thất phải nhiều hơn ở nhóm bệnh nhân NMCT không liên quan thất phải (p>0,05), điều này có lẽ do nghiên cứu của chúng tôi có số lượng còn ít nên chưa đủ để thấy rõ được sự khác biệt giữa hai nhóm.Dấu chứng tụt huyết áp trong nghiên cứu của chúng tôi có sự khác biệt (p < 0,01) giữa 2 nhóm NMCT vùng dưới có liên quan thất phải và không có liên quan thất phải (68% sv 20%). Kết quả này của chúng tôi tương tự với kết quả nghiên cứu của Huỳnh Văn Thưởng, dấu chứng tụt huyết á p ở nhóm bệnh nhân có liên quan thất phải là 58%, ở nhóm bệnh nhân không có liên quan thất phải là 13% [4]. Việc nhóm bệnh nhân bị NMCT vùng dưới có liên quan thất phải gặp biến chứng tụt huyết áp và choáng tim nhiều hơn nhóm bệnh nhân bị NMCT vùng dưới đơn thuần. J E Creamer và cộng sự đã nghiên cứu cơ chế của sốc ở bệnh nhân NMCT vùng dưới đã cho thấy: sốc ở bệnh nhân NMCT thất phải là do có tình trạng rối loạn chức năng nặng nề của thất trái đi kèm [10]. Chính điều này cũng giải thích tại sao tỷ lệ tụt huyết áp ở bệnh nhân NMCT vùng dưới cao (68%) nhưng tỷ lệ choáng lại thấp (20%). 4.2.2. Rối loạn nhịp: Bảng 2. So sánh tỷ lệ blốc nhĩ thất cấp 3 với các tác giả khác: Nghiên cứu Không liên quan Có liên quan thất P thất phải % (n) phải % (n) Chúng tôi 1 (1/10) 80 (20/50) <0,01 Phạm Vũ Thanh 0 40 (10/25) <0,01 Huỳnh.V.Thưởng 9 (4/45) 35 (11/41) <0,01 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 328 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Hecto Bueno 7 (34/502) 25 (75/296) <0,01 Piotr Kukla 4 (4/94) 34 (22/65) <0,01 Kết quả nghiên cứu của chúng tôi so với kết quả của các tác giả là phù hợp với ghi nhận trong các sách trong nước và ngoài nước: bệnh nhân bị NMCT thất phải thường dễ bị tụt huyết áp và choáng tim hơn là NMCT vùng dưới đơn thuần. Điều này được giải thích như sau: khi thất phải bị thiếu máu, nhồi máu, sự co bóp của thất phải giảm làm giảm máu tĩnh mạch trở về, giảm máu đến thất trái gây nên giảm thể tích tống máu. Sự giảm thể tích tống máu gây ứ trệ tuần hoàn làm gia tăng trở kháng hệ thống mạch máu cơ thể. Khi sự bù trừ không còn duy trì được sẽ gây nên giảm trầm trọng lượng máu tống ra, biểu hiện trên lâm sàng là tình trạng tụt huyết áp. J E Creamer và cộng sự đã nghiên cứu cơ chế của sốc ở bệnh nhân NMCT vùng dưới đã cho thấy: sốc ở bệnh nhân NMCT thất phải là do có tình trạng rối loạn chức năng nặng nề của thất trái đi kèm [10]. Chính điều này cũng giải thích tại sao tỷ lệ tụt huyết áp ở bệnh nhân NMCT vùng dưới cao (68%) nhưng tỷ lệ choáng lại thấp (20%). Tất cả các nghiên cứu đều cho kết quả như nhau đó là: blốc nhĩ thất cấp 3 gặp ở nhóm bệnh nhân NMCT vùng dưới có liên quan thất phải nhiều hơn so với nhóm bệnh nhân NMCT vùng dưới không liên quan thất phải (p < 0,01). Blốc nhĩ thất cấp 1 và cấp 2 ở nghiên cứu chúng tôi không có sự khác biệt giữa hai nhóm bệnh nhân có liên quan và không có liên quan thất phải. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của các tác giả: Malla RR [11], S. Khan [13], trong các nghiên cứu này, bloc nhĩ thất cấp 1 và cấp 2 cũng không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm có liên quan và không liên quan thất phải ở bệnh nhân NMCT vùng dưới. 4.2.3. Tử vong: Bảng 3.So sánh tỷ lệ tử vong với các tác giả khác: Nghiên cứu Không liên quan Có liên quan thất P thất phải % (n) phải % (n) Chúng tôi 1(1/10) 32(8/50) >0,05 Phạm Vũ Thanh 0 16 (4/25) >0,05 Huỳnh.V.Thưởng 9 (4/45) 39 (12/31 <0,05 Hecto Bueno 6 (30/502) 22 (64/296) <0,001 Piotr Kukla 2 (2/94) 18 (12/65) <0,01 Tỷ lệ tử vong ở nhóm bệnh nhân có liên quan thất phải trong nghiên cứu của chúng tôi so với tỷ lệ tử vong ở nhóm có liên quan thất phải của các nghiên cứu trên không khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) như tác giả Phạm Vũ Thanh[3] . Tỷ lệ tử vong ở nhóm không liên quan thất phải của chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 329 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 của Huỳnh Văn Thưởng (p < 0,05). So sánh tỷ lệ tử vong ở nhóm không liên quan thất phải trong nghiên cứu của chúng tôi với 3 tác giả nước ngoài còn lại, kết quả của chúng tôi khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Qua Bảng 3 ta thấy tỷ lệ tử vong ở nhóm NMCT vùng dưới có liên quan thất phải cao hơn so với nhóm bệnh nhân không liên quan thất phải. Có thể thấy, khi số lượng mẫu nghiên cứu càng lớn thì sự khác biệt về tỷ lệ tử vong giữa hai nhóm càng cho thấy rõ sự khác biệt (của tác giả Huỳnh Văn Thưởng n = 76 thì p < 0,05; của Piotr Kukla n=159 thì p < 0,01, còn nghiên cứu của Hécto Bueno n = 798 thì p < 0,001). V. KẾT LUẬN 5.1. NMCT vùng sau dưới làm cho sự cung cấp máu cho nút xoang và nút nhĩ thất bị giảm sẽ làm tổn thương cho 2 nút chủ nhịp quan trọng của cơ thể này gây nên tình trạng nhịp chậm và blốc nhĩ thất. Ngoài ra, dù có hay không có NMCT thất phải kèm theo thì những bệnh nhân bị NMCT vùng dưới vẫn rất dễ xảy ra tình trạng tụt huyết áp và nhịp chậm hơn so với NMCT ở các vùng khác. 5.2. NMCT cấp vùng dưới có liên quan thất phải có tiên lượng xấu hơn, có nhiều biến chứng tim mạch chính (tụt huyết áp, choáng tim, bloc nhĩ thất) hơn so với NMCT vùng dưới đơn thuần. Tỷ lệ tử vong của bệnh nhân NMCT cấp vùng dưới là 8,9% và chỉ gặp ở nhóm bệnh nhân NMCT vùng dưới có liên quan thất phải. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Cửu Lợi (2008): “ Chụp động mạch vành” ,Giáo trình sau đại học bệnh lý tim mạch, Trường Đại Học Y khoa Huế; 2. Bùi Ngọc Minh (2008). “ Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị nhồi máu cơ tim thất phải cấp tính” Luận án tiến sĩ y học, Học viện quân y. 3. Phạm Vũ Thanh, Nguyễn Cửu Lợi ( 2010 ). “Nghiên cứu đặc điểm tổn thương động mạch vành và tiên lượng ngắn hạn của bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp vùng dưới” . Tạp chí Tim mạch học Việt Nam – số 52 – 2010, tr 28-35 4. Huỳnh Văn Thưởng (2000): “ Nhận xét về chẩn đoán biến chứng và điều trị của nhồi máu cơ tim thất phải ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim sau dưới tại khoa Tim mạch Bệnh viện Chợ Rẫy” , Luận văn Thạc sĩ Y học, Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. 5. E. Giannitsis, F. Hartmann, U. Wiegand. (2000), “Clinical and angiographic outcome of patients with acute inferior myo-cardial infarction and right ventricular involvement treated with direct PTCA”, Z Kardiol,89, p.28-35. 6. Elliott M. Antman (2004), “ACC/AHA. “ guidelines for the management of patients with ST-elevation myocardial infarction”, Circulation, 110, pp. 82 – 293. 7. Florence Sheehan, Andrew Redington. (2008), “The right ventricle: anatomy, physiology and clinical imaging”, Heart, 94, pp. 1510-1515. 8. Héctor Bueno, Ramón López-Palop, Es- ther Pérez-David (1998), “Combined effect of age and right ventrcular involvement on acute inferior myocardial infarction prognosis”, Circulation, 98, pp. 1714-1720. Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 330 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 9. Joint International Society and Federation. of Cardiology/World Health Organization (1979), “Nomenclature and criteria for diagnosis of ischemic heart disease”, Circulation, 59, pp. 607-609. 10. J.E. Creamer, J D Edwards, P Nightingale.(1991), “Mechanism of shock associated with right ventricular infarction”, Br Heart J,65, pp. 63-67. 11. Malla RR, Sayami A (2007), “In hospital. complications and mortality of patients of inferior wall myocardial infarction with right ventricular infarction”, J Nepal Med Assoc, 46(167), pp. 99-102. 12. Piotr Kukla, Dariusz Dudek, Tomasz Ra-. kowski (2006), “Inferior wall myocardial infarction with of without right ventricu-lar involvement – treatment and in-hospital course”, Kardiologia Polska,64(6), pp. 583-588. 13. S. Khan, A. Kundi, S. Sharieff (2004). “Prevalence of right ventricular infarction in patients with acute inferior wall myo-cardial infarction”, Int J Clin Pract, 58(4), pp. 354357. Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 331
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.