Não càng dùng càng thông minh

doc
Số trang Não càng dùng càng thông minh 4 Cỡ tệp Não càng dùng càng thông minh 48 KB Lượt tải Não càng dùng càng thông minh 0 Lượt đọc Não càng dùng càng thông minh 20
Đánh giá Não càng dùng càng thông minh
4.9 ( 21 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

1. Vì sao nói não càng dùng càng thông minh? Có người nói: "Não nếu được dùng nhiều, các tế bào não sẽ bị chết", "não dùng nhiều sẽ trở nên chậm chạp". Cách nói này không có cơ sở khoa học. Trên thực tế, các bộ phận trong cơ thể người càng được dùng càng phát triển, não cũng vậy. Não người có khoảng 14 tỷ tế bào thần kinh, còn gọi là thần kinh nguyên, dư sức dùng cho cả đời người. Có nhà khoa học tính toán rằng, với một người sống 100 tuổi, số tế bào thần kinh não được sử dụng chỉ trên dưới 1 tỷ; như vậy là còn khoảng 80-90% số tế bào não chưa được sử dụng. "Sự sống là ở sự vận động", đó là quy luật phổ biến của giới sinh vật. Các bộ phận cơ thể người nếu dùng thì nhanh nhạy, không dùng thì suy lão. Ở người hay dùng não, chắc chắn não sẽ nhanh hơn vì mạch máu não thường ở trạng thái hoạt động, tế bào thần kinh não nhờ đó mà được nuôi dưỡng tốt, khiến cho não càng phát triển, tránh được sự suy thoái sớm. Ngược lại, ở những người không quen dùng não để suy nghĩ, vì đại não ít được các thông tin kích thích, thậm chí không được kích thích, nên sẽ suy lão sớm. Giống như một cỗ máy, nếu gác lại không dùng sẽ mau hoen gỉ, hay vận hành thì sẽ trơn tru. Một nghiên cứu ở nước ngoài trên những người 20-70 tuổi cho thấy, những người lao động trí óc trong một thời gian dài thì đến tuổi 60 vẫn duy trì được năng lực tư duy nhanh nhạy; còn những người lười suy nghĩ, việc gì cũng chậc lưỡi cho qua thì tỷ lệ sớm suy lão não tăng lên rất nhiều. Ngoài ra, việc dùng não nhiều còn giúp ngăn ngừa lão hóa cơ thể. Đại não là "bộ tư lệnh" chỉ huy cả cơ thể. Nếu đại não chậm chạp thì công năng sinh lý của các cơ quan khác tất nhiên cũng không phát triển mạnh. Việc duy trì hoạt động của não sẽ giúp giữ vững và thúc đẩy hoạt động của các cơ quan khác. Tình trạng sức khỏe của người già luôn là kết quả sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nhân tố như sinh lý, tâm lý, môi trường... Người già duy trì được thói quen hay dùng não và giỏi dùng não sẽ có một trạng thái tâm lý tốt, có thể khiến cho hoạt động và cuộc sống tinh thần luôn sinh động và sung mãn. "Hay dùng não sẽ làm chậm sự suy lão", đó là một nguyên lý rất khoa học. Người già còn như thế, huống hồ thanh, thiếu niên lại càng như thế. Chúng ta nên tập thành thói quen tốt là chăm dùng não, thạo dùng não. 2. Khai thác bán cầu não phải có lợi gì? Vỏ não người là bộ phận cao cấp nhất của hệ thống thần kinh trong cơ thể. Nó từng trải qua quá trình diễn biến hàng trăm, hàng vạn năm, từng nhảy vọt từ lượng biến thành chất. Vỏ đại não người được chia thành nhiều khu vực khác nhau, mỗi khu vực có một chức năng nhất định. Theo các kết quả nghiên cứu, bán cầu não trái thường phát triển tốt hơn bán cầu não phải. Điều đó có thể liên quan với việc đa số nhân loại thuận tay phải (trung khu chỉ huy sự vận động của các chi bên phải là bán cầu não trái). Do đó, muốn khai thác được nhiều hơn tiềm lực của cả hai bán cầu não, chúng ta phải coi trọng việc khai thác công năng của bán cầu não phải. Trong cuộc sống, đa số người có thói quen dùng tay phải để viết, cầm đũa hoặc làm việc. Khi bố mẹ thấy con mình có xu hướng dùng tay trái để viết chữ, cầm đũa hoặc làm việc thì thường tìm cách uốn nắn. Thực ra điều đó hoàn toàn không cần thiết. Bán cầu não trái có vai trò chính chỉ huy các mặt nói, viết, tính toán, tư duy và phán đoán, còn bán cầu não phải chủ đạo về các mặt như kỹ năng khéo léo, mỹ thuật, âm nhạc, tình cảm, lòng say mê và óc thẩm mỹ... Đối với những người quen dùng tay phải, rất nhiều thông tin liên tiếp đưa đến bán cầu não trái, thúc đẩy và tăng cường sự phát triển công năng của nó (vì vậy, bán cầu não trái được gọi là "bán cầu ưu thế", còn bán cầu não phải ít nhận được thông tin hơn được gọi là "bán cầu yếu thể"). Ngược lại, ở những người quen làm việc bằng tay trái, công năng của bán cầu não phải sẽ phát triển mạnh hơn. Đương nhiên, lượng thông tin mà đại não người tiếp thu được không phải toàn bộ do tay trái hoặc tay phải tạo ra mà đa số do các khí quan cảm thụ khác truyền đến. Để phát huy và lợi dụng đầy đủ tiềm năng, công năng của não, ta nên tranh thủ giáo dục cho con từ tuổi còn thơ. Đồng thời với việc bồi dưỡng cho các em về năng lực tư duy logic, cha mẹ phải coi trọng bồi dưỡng sự phát triển kỹ năng cho chúng. Cần để cho con tham gia nhiều dạng hoạt động, làm những động tác tinh tế bằng tay chân để huấn luyện các em sử dụng hai tay một cách linh hoạt. Những em bé quen dùng tay phải càng phải chú ý rèn luyện cả tay trái để kích thích, làm hưng phấn công năng bán cầu não phải, khiến cho trí lực của con được phát triển toàn diện 3. Các bộ phận của đại não được phân công như thế nào? Các bộ phận khác nhau của đại não đều có chức năng riêng, có bộ phận quản thị giác, bộ phận quản thính giác, bộ phận quản tiếng nói, bộ phận quản tư duy.. Sự hoạt động hài hòa giữa các bộ phận này sẽ khống chế toàn bộ cuộc sống của chúng ta. Năm 1861, nhà giải phẫu thần kinh Pháp Bulopka chẩn đoán và điều trị cho một bệnh nhân nói khó khăn. Bệnh nhân này có thể nghe hiểu được, cơ quan phát âm không có bệnh gì nhưng ngoài âm "tan" ra không thể nói được một âm nào khác. Sáu ngày sau, bệnh nhân bị chết. Kết quả giải phẫu não chứng tỏ phần não bên trái trán bị tổn thương nghiêm trọng. Bulopka nghiên cứu tiếp 8 bệnh nhân tương tự và đều nhận được kết quả như nhau. Khu vực này về sau được gọi là "khu vực Bulopka". Mấy năm sau, một bác sĩ người Áo tên là Venik đã phát hiện một dạng trở ngại về tiếng nói khác. Bệnh nhân này có thể phát âm rõ ràng các từ đơn, ngữ pháp không sai nhưng giọng nói rất ngọng, không ai nghe rõ được. Loại bệnh này do vị trí ở trán của đại não (khu Venik) bị tổn thương. Hai khu vực này là khu vực chính của tiếng nói. Sự tìm hiểu về chức năng vùng trán của đại não là một sự kiện bất ngờ tương tự. Giữa thế kỷ 19, khi nước Mỹ xây dựng đường sắt với quy mô lớn, ở Porment (miền Đông bắc Mỹ) có một công nhân đường sắt tên là Keyci. Bẩm sinh anh ta hiền lành, vui tính, hay giúp đỡ người khác. Một hôm, khi dùng thanh sắt để tra thuốc nổ, không may một đốm lửa bất ngờ rơi vào làm thuốc nổ tung. Lúc đó, đầu Keyci đang hơi nghiêng, tiếng nổ hất thanh sắt thúc lên bên trái trán, hướng sang bên trái đầu, làm cho xương sọ phía trước bị thương nghiêm trọng. Keyci hôn mê. Điều làm cho người ta ngạc nhiên là sau khi tỉnh dậy, anh ta vẫn không mất cảm giác và vận động bình thường. Nhưng dần dần, tính cách anh ta thay đổi rất rõ. Keyci trở thành người ngạo mạn, ngang tàng, cô độc, không quan tâm đến ai, hành vi rất quái dị. Tính cách này được giữ mãi cho đến cuối đời. Bệnh tình đó khiến các nhà khoa học nghi ngờ rằng, phần não vùng trán có liên quan mật thiết với tính cách và năng lực tư duy của con người. Giữa thế kỷ 20, các bác sĩ thường dùng phương pháp cắt bỏ khu hải mã (một khu vực trong não có hình giống hải mã) và khu não lân cận để chữa chứng động kinh. Năm 1953, bác sĩ Monthơliơ người Canada làm phẫu thuật này cho một bệnh nhân 27 tuổi, quả nhiên chữa được bệnh động kinh, nhưng đồng thời lại gây nên một hậu quả nặng nề khác. Đó là tuy bệnh nhân vẫn giữ được trí nhớ như trước khi phẫu thuật, nhưng anh ta chỉ nhớ được trong một thời gian rất ngắn. Ví dụ, sau khi nói chuyện với người khác, anh ta liền quên ngay, không thể nhớ nổi đã nói chuyện với ai; thậm chí anh ta không biết được mình đang ở đâu, vì sao lại ở đây. Anh ta hầu như mất hoàn toàn khái niệm về thời gian, không biết rõ mình bao nhiêu tuổi. Vì vậy, anh ta chỉ có thể làm một số động tác đơn giản, tức thời và không làm được việc gì khác nữa. Tình hình đó kéo dài 28 năm (đến năm 1981) vẫn không có gì thay đổi. Rõ ràng trí nhớ của con người có liên quan mật thiết với khu hải mã. Tương tự, nếu não chẩm bị tổn thương thì thị giác sẽ có vấn đề, khu vực não quản lý sự vận động nếu bị tổn thương sẽ gây trở ngại cho vận động. Mấy năm gần đây, các nhà khoa học còn phát minh một kỹ thuật mới, có thể không cần mở hộp sọ, không cần gây tổn thương não mà vẫn có thể tiến hành nghiên cứu chức năng các khu vực khác của đại não. Điều đó đã làm nhận thức sâu thêm về chức năng của các khu vực. Kỹ thuật chụp cắt lớp bằng luồng chiếu điện tử dương (PET) chính là một trong những ứng dụng đó. Như ta đã biết, tế bào thần kinh hoạt động càng mạnh thì lượng tiêu hao gluco càng nhiều. Kỹ thuật PET lợi dụng nguyên lý này, thông qua các hoạt thể để xác định tình hình hấp thu và đào thải đường gluco của các tế bào thần kinh, từ đó mà hiểu hoạt động của các khu vực đại não. Các nghiên cứu cho thấy, các khu vực của đại não tuy có sự phân công khác nhau nhưng khi thực hiện một công năng nào đó thì phải có nhiều khu vực cùng tham gia. Các khu vực sẽ phối hợp với nhau để hoàn thành nhiều dạng công năng khác nhau. Công năng tiếng nói là một ví dụ có tính tiêu biểu. Nhà nghiên cứu để cho người thí nghiệm tỉnh táo, vẫn nghe, nhìn, nói các đơn âm khác nhau, đồng thời dùng phương pháp PET để kiểm tra hoạt động của đại não. Kết quả quan sát được khi nghe, nhìn và nói ở các khu vực không giống nhau. Đặc biệt, khi nói một động từ hay danh từ, hoạt động của não cũng khác. Ở những người thạo hai ngôn ngữ, đối với những danh từ của hai ngôn ngữ có cùng hàm nghĩa, khu vực não chứa hai thứ tiếng cũng khác nhau. Hơn nữa, tuy chức năng tiếng nói chủ yếu là do não trái khống chế, nhưng khu vực tương ứng của não phải cũng tham gia khống chế về độ cao thấp của giọng nói. Vì vậy, một khi những khu vực này bị tổn thương thì chúng ta không thể diễn đạt tiếng nói một cách sinh động được. 4. Có phải não lớn hơn là thông minh hơn không? Có người nói, ai não to thì người đó thông minh. Mới nghe thì hình như câu nói này có lý. Loài côn trùng có não bé như mũi kim nên chúng thường là những con vật thua kém so với động vật có xương sống. Não của mèo, chó và thỏ đều bé hơn não của người, cho nên chúng không thể tranh giành được với con người. Con người thường được mệnh danh là "đấng tinh khôn nhất của loài vật" nhờ có đại não phát triển. Trong giới động vật, trí lực của loài vượn người được xếp hàng đầu nhưng trọng lượng não của chúng cũng còn cách xa so với con người. Trọng lượng bộ não của hắc tinh tinh là 420 g, của đại tinh tinh gần 500 g, của người vượn gần bằng con người nhưng vẫn còn một khoảng cách nhất định. Trọng lượng bình quân của não người hiện đại là 1450 g, của người vượn Bắc Kinh là 1075 g, của người vượn Lam Điền là 850 g. Trong xã hội loài người, ở trẻ em vừa sinh ra, trọng lượng não chỉ khoảng 390 g. Càng lớn lên, não càng nặng thêm, to thêm, trí lực cũng phát triển cao hơn. Về già, trọng lượng não lại giảm dần xuống, trình độ trí lực cũng giảm theo. Những điều này hầu như chứng tỏ não lớn là thông minh. Nhưng trên thực tế, không nhất thiết não lớn là thông minh. Ví dụ, não của loài chuột nhỏ hơn so với não thỏ, nhưng trí nhớ của chuột vẫn mạnh hơn. Về trọng lượng não thì con người cũng không phải là loại đứng đầu. Não của cá kình nặng khoảng 7.000 g, não của voi khoảng 5.000 g, đều nặng gấp mấy lần so với não người, nhưng trí lực của chúng lại thua kém con người rất xa. Một nhà nhân loại học Liên Xô (cũ) đã đưa ra chỉ số biểu thị mức độ phát triển của đại não: (trọng lượng não x trọng lượng não)/trọng lượng cơ thể. Chỉ số này càng lớn, não càng phát triển. Kết quả: não chuột là 0,19; não người vượn là 7,35; não người là 32. Trong loài người, người có não lớn hơn thì thông minh hơn chăng? Trọng lượng não của Sekhov (nhà văn nổi tiếng Nga) là 2012 g. Nhưng một số danh nhân thế giới có não không nặng. Não Gaoxơ, nhà toán học Đức, người phát hiện nhiều định lý và công thức toán nổi tiếng, chỉ nặng 1492 g. Nhà thơ nổi tiếng thế giới là Tantin (Italy) có não nặng 1420 g. Anhstanh là một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất nhưng não của ông không có gì khác so với người bình thường. Một số người nổi tiếng có não khá nhỏ. Não của Banzăc, nhà văn nổi tiếng Pháp, chỉ nặng 1017 g; não nhà hóa học Đức Penlin cũng chỉ có 1259 g, còn nhẹ hơn cả não người bình thường. Theo một nghiên cứu, ở người trưởng thành, nếu trọng lượng não của nam giới không thấp hơn 1000 g, của nữ giới không thấp hơn 900 g sự phát triển trí lực sẽ không bị ảnh hưởng. Trên thực tế, trong não người có nhiều nếp gấp, làm tăng diện tích bề mặt vỏ đại não và tăng thêm số lượng tế bào vỏ não. Đại não nhỏ chưa chắc tế bào não đã ít, đại não lớn cũng chưa chắc tế bào não đã nhiều. Huống hồ sự tài trí, thông minh của con người còn được quyết định bởi sự giáo dục và rèn luyện. Những bạn trẻ vì não nhỏ mà sầu muộn có thể hoàn toàn yên tâm vứt bỏ mặc cảm đó. Tương tự, một số ít người não lớn cũng không nên tự kiêu tự đại, không nên buông lỏng học tập và tinh thần phấn đấu hằng ngày.
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.