Mức độ tập trung và cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam

pdf
Số trang Mức độ tập trung và cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam 12 Cỡ tệp Mức độ tập trung và cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam 771 KB Lượt tải Mức độ tập trung và cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam 0 Lượt đọc Mức độ tập trung và cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam 55
Đánh giá Mức độ tập trung và cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam
4 ( 3 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 12 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(01) - 2019 MỨC ĐỘ TẬP TRUNG VÀ CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM CONCENTRATION AND COMPETITION OF VIETNAMESE COMMERCIAL BANKS Ngày nhận bài: 25/09/2018 Ngày chấp nhận đăng: 09/10/2018 Huỳnh Việt Khải, Phan Đình Khôi, Cao Văn Tài TÓM TẮT Bài viết này đo lường mức độ tập trung (CR3, CR5, HI) và mức độ cạnh tranh (giá trị thống kê H) và phân tích mối quan hệ hại đại lượng này các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ tập trung của các NHTM Việt Nam gần mức trung bình của các nước trong khu vực. Đồng thời, giá trị thống kê H trong giai đoạn 2002-2014 (H=0,415) cho thấy cấu trúc thị trường NHTM Việt Nam gần với mô hình cạnh tranh độc quyền. Biến động của giá trị H trong giai đoạn 2002-2008, 2009-2011, và 2012-2014 cho thấy mức độ cạnh tranh của các NHTM Việt Nam gia tăng theo thời gian nhưng vẫn còn thấp hơn so với mức trung bình của các nước trong khu vực. Trong khi đó, biến động của giá trị H theo nhóm ngân hàng chỉ ra rằng các NHTM cổ phần có chỉ số cạnh tranh cao hơn nhóm NHTM nhà nước. Kết quả từ mô hình OLS xác nhận mối tương quan nghịch giữa mức độ tập trung và cạnh tranh của các NHTM Việt Nam. Theo đó, ngân hàng Nhà nước cần tăng cường quản lý hoạt động của các NHTM thông qua các quy định và các chỉ số thay cho những can thiệp trực tiếp giúp tăng khả năng cạnh tranh của các NHTM Việt Nam. Từ khóa: Mức độ cạnh tranh, Mức độ tập trung, Cấu trúc ngân hàng, Việt Nam. ABSTRACT This paper measures the degree of concentration (CR3, CR5, and HI) and competition (statistical value of H) and estimates the relationship between the level of concentration and competition of Vietnamese commercial banks. The results showed that the level of concentration of commercial banks in Vietnam closed to the average level of the region. The statistical values of H in the period 2002-2014 (H = 0.415) indicated that the marker structure of Vietnamese commercial bank system closely followed the monopolistic competition market. The average level of the H-statistical value in three periods 2002-2008, 2009-2011 and 2012-2014 showed an ascending pattern of competitive level of Vietnamese commercial banks although the competition level was slightly lower than the region’s average. Particularly, the H-statistical value indicated that the competitive level of the jointstock commercial bankswas higher than those of the state-owed banks. The result from OLS model confirmed the negative relationship between the level of concentration and competition in Vietnamese banking system. Based on the results, strengthening bank regulations and superivision commercial banks’ operations by using economic indicators from the State Bank while reducing direct intervetions from the government helps improve Vietnamese commerical banks’ competition. Keywords: Concentration;Competition;Banking structure; Vietnam. 1. Giới thiệu Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay phát triển đáng kể so với thời điểm mới chuyển đổi từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hai cấp năm 1990. Từ hệ thống ngân hàng gồm có Ngân hàng Nhà nước và 4 ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước chi phối gần như toàn bộ thị trường cho vay lẫn thị trường tiền gửi, hệ thống ngân hàng hiện tạicó hơn 40 NHTM trên cả nước. Mặc dù có sự gia tăng số ngân hàng trong hệ thống nhưng một số NHTM nhà nước vẫn còn khả năng chi phối mạnh trong hệ thống ngân hàng. Đến năm 2013, bốn ngân hàng lớn Huỳnh Việt Khải, Phan Đình Khôi, Cao Văn Tài, Khoa Kinh tế - Trường Đại học Cần Thơ 45 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG (Agribank, BIDV, Vietinbank, Vietcombank) chiếm hơn 38,37% tổng tài sản, 56,35% tổng cho vay và 47,38% tổng tiền gửi trong toàn hệ thống. Hệ thống ngân hàng Việt Nam thay đổi cấu trúc hoạt động theo từng giai đoạn của nền kinh tế, đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008. Cụ thể, quy mô hệ thống ngân hàng giảm từ 45 NHTM xuống còn 38 NHTM từ sau năm 2011. Đồng thời, các NHTM nhà nước cũng dần được cổ phần hóa nhằm cải thiện sức cạnh tranh cho các Ngân hàng Thương mại Việt Nam. Thêm vào đó, mức độ cạnh tranh cũng bị ảnh hưởng mạnh bởi mức độ tham gia vốn của nhà nước tại các ngân hàng thương mại có quy mô lớn. Mặc dù cổ phần hóa từ nhiều năm trước nhưng tính đến thời điểm 2016, Nhà nước vẫn nắm giữ 65% vốn cổ phần tại Vietinbank và 95% tại BIDV (Thời báo kinh tế Sài Gòn, 2016). Ngoài ra, quá trình tái cấu trúc ngân hàng còn làm tăng vốn điều lệ của các ngân hàng lên đáng kể. Đặc biệt là chính sách tái cơ cấu một số ngân hàng yếu kém nhằm làm giảm nguy cơ đổ vỡ hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất đối với các NHTM Việt Nam chính là nội lực của các ngân hàng, quy mô vốn nhỏ, nguồn nhân lực hạn chế, trình độ cập nhật công nghệ so với một số nước trong khu vực. Quá trình tái cấu trúc ngân hàng còn thể hiện ở mức độ tập trung thị phần theo tài sản, tiền gửi và cho vay. Điều này dẫn đến những lo ngại về khả năng chi phối thị trường của một số ngân hàng lớn trong hệ thống sau khi tái cấu trúc, vì vậy các biện pháp kiểm soát cấu trúc thị trường ngân hàng cần được quan tâm. Thực trạng trên đặt ra vấn đối với hệ thống ngân hàng như là tái cấu trúc ngân hàng có thực sự cải thiện năng lực cạnh tranh cho các NHTM; và mức độ tập trung tập trung vốn vào một số ngân hàng lớn trong hệ thống có thể làm tăng tính độc quyền trong lĩnh vực ngân hàng, ảnh hưởng đến nguồn 46 cung vốn cho nền kinh tế và làm giảm phúc lợi xã hội. Câu hỏi đặt ra là “mức độ tập trung và mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay diễn ra như thế nào?” cần được trả lời. Hiểu biết về cấu trúc thị trường ngân hàng Việt Nam hiện tại giúp nhà quản trị ngân hàng có chiến lược phát triển hệ thống ngân hàng phù hợp nhằm nâng cao sức cạnh cạnh của hệ thống ngân hàng trong quá trình hội nhập. Mục tiêu của bài viết này nhằm phân tích mức độ tập trung và cạnh tranh của các NHTM trong trong hệ thống ngân hàng ở Việt Nam. Các mục tiêu cụ thể bao gồm: (i) đo lường mức độ cạnh tranh và mức độ tập trung của các NHTM trong hệ thống ngân hàng; (ii) ước lượng mối tương quan giữa mức độ cạnh tranh và tập trung trong hệ thống ngân hàng; (iii) đề xuất một số khuyến nghị giúp nâng cao sức cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới. Phần còn lại của bài viết bao gồm 4 nội dung: Mục 2 trình bày lược khảo tài liệu về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, mức độ tập trung và cạnh tranh, Mục 3 trình bày mô hình phân tích và số liệu, Mục 4 thảo luận kết quả, và Mục 5 kết luận và đề xuất khuyến nghị. 2. Lược khảo tài liệu Nghiên cứu về mức độ tập trung và cạnh tranh của hệ thống ngân hàng được thành hai cách tiếp cận cơ bản là tiếp cận cấu trúc và tiếp cận phi cấu trúc (Berger cùng cộng sự, 2004). Theo đó, các nghiên cứu theo hướng tiếp cận phi cấu trúc thường vận dụng mô hình nghiên cứu thực nghiệm của Bresnahan (1989) và mô hình nghiên cứu của Panzar và Rosse (1987). Trong khi đó, hướng tiếp cận cấu trúc tập trung vào các tham số cấu trúc thị trường (SCP) dựa theo các mô hình nghiên cứu trong thập niên 1950 của Mason (1939) và Bain (1951). Điển hình, Hannan (1991) vận dụng chỉ số thể hiện thị phần của TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(01) - 2019 k ngân hàng lớn nhất (CRk) và chỉ số Herfindahl-Hirschman (HI) ở Mỹ. Mặc dù tương đồng phương pháp phân tích trong phương pháp tiếp cân cấu trúc, những gợi ý chính sách quản lý hệ thống ngân hàng lại trái ngược nhau do cơ sở lập luận khác nhau. Bain (1951) đề xuất quan điểm về năng lực thị trường theo đó các công ty trong một thị trường có mức độ tập trung cao có thể hoạt động cấu kết (thông đồng) với nhau và vì vậy thu được lợi nhuận cao hơn. Do đó, để kích thích cạnh tranh, chính phủ nên kiểm soát số lượng và quy mô của các ngân hàng. Tuy nhiên, Stigler (1964) và Demsetz (1973) đưa lập luận tương phản bằng giả thuyết hiệu quả theo đó mức độ tập trung cao có thể là kết quả của siêu hiệu quả của những ngân hàng có quy mô lớn tạo ra bởi hành vi cấu kết. Ngoài ra, Baumol và cộng sự (1983), Spence (1983),Cetorelli (2002) đề xuất giả thuyết tổ hợp cho rằng nếu điều kiện xuất nhập ngành trong thị trường tương đối tự do, các nhà độc quyền sẽ muốn ngăn chặn sự nhập ngành bằng cách áp đặt mức giá cạnh tranh. Kết quả là để giải quyết vấn đề cạnh tranh trên thị trường, Bain (1959) đề xuất sự lựa chọn tốt nhất cho chính phủ lập rào cản đối với hoạt động xuất nhập ngành của các ngân hàng trên thị trường. Trong khi đó, cách tiếp cận tổ hợp (Stigler, 1964; và Demsetz, 1973) lại cho rằng rào cản xuất nhập ngành nên bị hạn chế nhiều hơn để nâng cao sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Cách tiếp cận phi cấu trúc tập trung ước lượng mối quan hệ giữa đầu ra – chi phí đầu vào của doanh nghiệp. Bresnahan (1989) sử dụng số liệu thời gian để ước lượng mối quan hệ giữa cầu và chi phí thị trường. Hệ số ước lượng mức độ tập trung nhận giá trị trong khoảng [0,1] tương ứng với thị trường cạnh tranh hoàn hảo và độc quyền. Tiếp cận tương tự, Panzar và Rosse (1987) lập luận rằng tác động của giá đến sự thay đổi chi phí khác nhau phụ thuộc vào việc có tồn tại của sức mạnh độc quyền. Theo đó, chỉ số thống kê H từ phương trình doanh thu dạng rút gọn để đo lường độ co giãn của tổng doanh thu theo các chi phí đầu vào của các ngân hàng. Giá trị H nằm trong khoảng [0,1] và thay đổi cùng với mức độ cạnh tranh của thị trường (Shaffer, 1982). Theo đó, H nhận bằng 1 tương ứng với thị trường cạnh tranh hoàn hảo và H bé hơn hoặc bằng 0 khi có sự hiện diện của độc quyền (bao gồm cả độc quyền nhóm hoặc ít nhất là hoạt động ngầm của độc quyền nhóm trong ngắn hạn). Một cách tổng quát, nếu 0
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.