Một số yếu tố liên quan tới kiến thức, thái độ và thực hành của nhân viên y tế trong thực hiện phòng ngừa chuẩn

pdf
Số trang Một số yếu tố liên quan tới kiến thức, thái độ và thực hành của nhân viên y tế trong thực hiện phòng ngừa chuẩn 7 Cỡ tệp Một số yếu tố liên quan tới kiến thức, thái độ và thực hành của nhân viên y tế trong thực hiện phòng ngừa chuẩn 379 KB Lượt tải Một số yếu tố liên quan tới kiến thức, thái độ và thực hành của nhân viên y tế trong thực hiện phòng ngừa chuẩn 0 Lượt đọc Một số yếu tố liên quan tới kiến thức, thái độ và thực hành của nhân viên y tế trong thực hiện phòng ngừa chuẩn 21
Đánh giá Một số yếu tố liên quan tới kiến thức, thái độ và thực hành của nhân viên y tế trong thực hiện phòng ngừa chuẩn
4.8 ( 20 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

EC N KH G NG VI N S C NGHIÊN CỨU KHOA HỌC MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TỚI KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ TRONG THỰC HIỆN PHÒNG NGỪA CHUẨN Bùi Thị Xuyến1, Vũ Phong Túc2, Nguyễn Xuân Bái2 TÓM TẮT Mục tiêu: Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đối với kiến thức, thái độ và thực hành của NVYT đối với một số quy định phòng ngừa chuẩn tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2018. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả nghiên cứu: Kiến thức đạt về vệ sinh tay của NVYT có liên quan đến yếu tố chuyên môn điều dưỡng; hệ nội và đã được tập huấn tương ứng với OR (95%CI) 2,04(1,2-3,4); 1,8 (1,1-2,9) và 4,1(1,1-15,6) đều có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Kiến thức đạt về phòng hộ cá nhân của NVYT có liên quan đến giới tính nữ; hệ nội tương ứng với OR (95%CI) là 2,1 (1,2-3,7) và 1,6 (1,04-2,63) đều có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Thái độ đạt về phòng ngừa chuẩn của NVYT có liên quan đến nhóm tuổi, hệ nội tương ứng với OR (95%CI) lần lượt là 20,4 (0,2-0,6) và 3,1(1,9-5,2) đều có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Đối tượng nghiên cứu là điều dưỡng, có thâm niên công tác từ 5 năm trở lên, làm việc tại hệ nội và đối tượng được đào tạo tập huấn có tỷ lệ đạt thực hành đối với PNC cao hơn nhóm đối tượng là bác sĩ và đối tượng có thâm niên công tác dưới 5 năm, đối tượng hệ ngoại và đối tượng không được đào tạo tập huấn, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa với p>0,05. Kết luận: Yếu tố chuyên môn, hệ nội, đã được đào tạo tập huấn có liên quan với kiến thức vệ sinh tay của NVYT. Yếu tố giới tính, hệ nội có liên quan với kiến thức phòng hộ cá nhân của NVYT. Yếu tố nhóm tuổi, hệ nội có liên quan với thái độ PNC, có ý nghĩa với p<0,05. Về thực hành, các yếu tố của NVYT trong nghiên cứu chưa thấy cosmooislieen quan có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Từ khóa: Vệ sinh tay, phòng ngừa chuẩn. SUMMARY: SOME FACTORS RELATED TO KNOWLEDGE, ATTITUDE AND PRACTICE OF MEDICAL EMPLOYEES FOR PREVENTION STANDARD Objective: Learn some relevant factors for knowledge, attitudes and practices of health workers for some standard preventive regulations at Thai Binh Provincial Hospital in 2018. Method: A descriptive study through a crosssectional investigation. Results: Knowledge about hand hygiene of health workers related to nursing expertise; internal system and was trained corresponding to OR (95% CI) 2.04 (1,2-3,4); 1.8 (1.1-2.9) and 4.1 (1.1-15.6) are statistically significant with p <0.05. Knowledge of gaining personal protection of health workers is related to female gender; The internal system corresponding to OR (95% CI) is 2.1 (1,2-3,7) and 1,6 (1,04-2,63) are statistically significant with p <0.05. The attainment of standard prevention of medical staff is related to age group, internal system corresponding to OR (95% CI), respectively 20.4 (0.2-0.6) and 3.1 (1.9 -5.2) were statistically significant with p <0.05. The object of research is nursing; Having a seniority of 5 years or more, working in the internal system and training subjects have a higher rate of practice for standard preventionthan the group of doctors and subjects with lower working years. For 5 years, the foreign objects and subjects were not trained, but the difference did not make sense with p> 0.05. Conclude: Professional, internal, and trained factors are relevant to hand hygiene knowledge of health workers. Sex and internal factors are related to personal protection knowledge of health workers. The factor of age group, internal system is related with standard preventionattitude, 1. Bệnh viện ĐK tỉnh Thái Bình 2. Trường ĐH Y Dược Thái Bình Ngày nhận bài: 01/06/2019 Ngày phản biện: 07/06/2019 Ngày duyệt đăng: 13/06/2019 SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019 Website: yhoccongdong.vn 63 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE significant with p <0.05. Regarding the practice, the factors of health workers in the study have not seen that cosmohislieen has statistical significance with p> 0.05. Keywords: Hand hygiene, standard prevention I . ĐẶT VẤN ĐỀ Phòng ngừa chuẩn (PNC) được định nghĩa là tập hợp các biện pháp phòng ngừa áp dụng cho mọi người bệnh tại bệnh viện không tùy thuộc vào chẩn đoán và tình trạng nhiễm trùng của người bệnh. Mục tiêu của phòng ngừa chuẩn là nhằm phòng ngừa và kiểm soát lây nhiễm chéo qua máu, dịch tiết cơ thể, chất tiết cho dù chúng được nhìn thấy có chứa máu hay không, da không lành lặn và niêm mạc. Đây là biện pháp phòng ngừa quan trọng nhất, nhằm hạn chế sự lây truyền từ người sang người và từ người sang môi trường [1]. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, có ít nhất 1 trong 4 bệnh nhân chăm sóc đặc biệt bị nhiễm trùng trong thời gian ở bệnh viện, ở các nước đang phát triển, ước tính này có thể được tăng lên gấp đôi [8]. Báo cáo bùng nổ NKBV tại châu Âu, các bệnh nhiễm trùng gây ra do chăm sóc sức khỏe làm tăng thêm 16 triệu ngày điều trị và 37 nghìn trường hợp tử vong. Ở nước ta, công tác PNC vẫn còn đối đầu rất nhiều trở ngại như nguồn ngân sách còn hạn chế, cơ sở vật chất thiếu thốn, phần lớn NVYT và các nhà quản lý chưa nhận thức tầm quan trọng của công tác này. Nguyên nhân gây NKBV có rất nhiều [4], tuy nhiên, một trong những nguyên nhân quan trọng là kiến thức, thái độ của NVYT phòng ngừa chuẩn chưa cao. Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình là bệnh viện hạng I, với quy mô 1000 giường bệnh, mỗi ngày có khoảng 700 bác sỹ và điều dưỡng bệnh viện trực tiếp tiếp xúc với bệnh nhân, với khoảng 1300 lượt người bệnh đến khám và điều trị mỗi ngày, bên cạnh đó bênh viện là cơ sở thực hiện nhiều chuyên khoa sâu nên vấn đề phòng ngừa chuẩn đang ngày càng trở lên cấp thiết đối với bệnh viện. Các nghiên cứu trước đây phần lớn chỉ tìm hiểu về kiến thức, thái độ tuân thủ một số quy định về PNC, chưa khai thác đầy đủ các yếu tooslieen quan tác động đến tuân thủ PNC. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài với mục tiêu: Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đối với kiến thức và thực hành của NVYT đối với một số quy định phòng ngừa chuẩn tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2018. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng và địa bàn nghiên cứu: NVYT bao gồm các bác sĩ, điều dưỡng đang trực tiếp điều trị, chăm sóc bệnh nhân tại các khoa lâm sàng có thực hành các biện pháp phòng ngừa chuẩn; làm việc liên tục tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình ≥12 tháng; đồng ý tham gia nghiên cứu. 64 SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019 Website: yhoccongdong.vn 2019 Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9/2018 - 5/2019 Thiết kế nghiên cứu: Là một nghiên cứu mô tả qua một cuộc điều tra cắt ngang. Cỡ mẫu nghiên cứu: Áp dụng theo công thức tính cỡ mẫu xác định tỷ lệ: Cỡ mẫu tính toán tối thiểu là 256 đối tượng, thực tế điều tra 295 đối tượng. Phương pháp chọn mẫu Phương pháp chọn mẫu chùm được áp dụng trong nghiên cứu này. Trong số danh sách 24 khoa lâm sàng, chọn chùm bậc 1 là các khoa hệ nội và các khoa hệ ngoại được chọn vào nghiên cứu. Đơn vị mẫu của chùm bậc 2 là NVYT được lựa chọn ngẫu nhiên tại mỗi khoa lâm sàng. Căn cứ danh sách có 25 đến 30 NVYT tại mỗi khoa. Vì vậy để đảm bảo cỡ mẫu nghiên cứu và tính đại diện của mỗi chùm bậc 2, chúng tôi chọn mẫu theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn với ước lượng 12 NVYT/khoa. Các biến số và chỉ số nghiên cứu - Mối liên quan giữa kiến thức về vệ sinh tay với chuyên môn, thâm niên công tác, hệ làm việc và được đào tạo, tập huấn. - Mối liên quan giữa kiến thức về phòng hộ cá nhân với nhóm tuổi, giới tính, chuyên môn, thâm niên công tác, hệ làm việc và được đào tạo, tập huấn. - Mối liên quan giữa thực hành phòng ngừa chuẩn với chuyên môn, thâm niên công tác, hệ làm việc và được đào tạo, tập huấn. Công cụ và phương pháp thu thập số liệu * Công cụ thu thập số liệu - Bộ câu hỏi được xây dựng dựa trên các biến số nghiên cứu và dựa trên “Hướng dẫn về kiểm soát nhiêm khuẩn trong các cơ sở khám chữa bệnh” của Bộ Y tế, năm 2017 và Thông tư 16/2018/TT-BYT quy định về kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám chữa bệnh. * Phương pháp thu thập số liệu + Phương pháp tiến hành phát phiếu tự điền * Đo lường kiến thức, thái độ, thực hành - Về kiến thức của NVYT: Đánh giá theo thang điểm nhị giá, 1 điểm cho câu trả lời đúng và 0 điểm cho câu trả lời sai. Số câu trả lời đúng sẽ bằng tổng số điểm đạt được. Kiến thức được đánh giá là Đạt khi điểm số ≥2/3 số điểm tuyệt đối. - Về thái độ của NVYT: Nghiên cứu sử dụng thanh đo Likert 3 mức “Không đồng ý”, “Không ý kiến” và “ Đồng ý” để NVYT lựa chọn. Điểm tối đa của phần đánh giá thái độ là 7 điểm. NVYT được đánh giá là có thái độ được đánh giá là tích cực khi số điểm ≥5 điểm (>70%). Không tích cực khi số điểm<5 điểm . EC N KH G NG VI N S C NGHIÊN CỨU KHOA HỌC - Về thực hành của NVYT: Đánh giá theo thang điểm 4: luôn luôn (4 điểm), thường xuyên (3 điểm), đôi khi (2 điểm), hiếm khi (1 điểm), không thực hiện (0 điểm). NVYT có thực hành đúng khi thực hiện ở mức luôn luôn hoặc thường xuyên và đạt điểm >50%. Xử lý số liệu: Số liệu được làm sạch và nhập máy. Sử dụng phần mềm SPSS phân tích. III. KẾT QUẢ Bảng 3.1. Mối liên quan giữa kiến thức về VST với một số yếu tố của NVYT Các yếu tố liên quan Chuyên môn Thâm niên Hệ Đào tạo, tập huấn n Đạt kiến thức đối với VST SL % OR (95% CI) Bác sĩ 82 36 43,9 1 Điều dưỡng 213 131 61,5 2,04(1,2-3,4) < 5 năm 95 55 57,9 1 ≥ 5 năm 200 112 56,0 0,93 (0,56-1,52) Ngoại 139 68 48,9 1 Nội 156 99 63,5 1,8 (1,1-2,9) Không 12 3 25,0 1 Có 283 164 58,0 4,1(1,1-15,6) Kết quả bảng trên cho thấy đối tượng nghiên cứu có chuyên môn là điều dưỡng có kiến thức đạt đối với VST chiếm 61,5% cao hơn gấp 2,04 lần so với đối tượng có chuyên môn là bác sĩ, có ý nghĩa với p<0,05. Đối tượng p <0,05 >0,05 <0,05 <0,05 nghiên cứu thuộc hệ nội và có được đào tạo tập huấn có kiến thức đạt đối với VST cao hơn gấp 1,8 lần và 4,1 lần so với đối tượng thuộc hệ ngoại và không được đào tạo tập huấn, có ý nghĩa với p<0,05. Bảng 3.2. Mối liên quan giữa kiến thức về PHCN với một số yếu tố của NVYT Các yếu tố liên quan Nhóm tuổi Giới Chuyên môn Thâm niên Hệ Đào tạo, tập huấn n Đạt kiến thức đối với PHCN SL % OR (95% CI) < 30 tuổi 136 68 50,0 1 ≥ 30 tuổi 159 66 41,5 0,7(0,45-1,12) Nam 66 21 31,8 1 Nữ 229 113 49,3 2,1 (1,2-3,7) Bác sĩ 82 35 42,7 1 Điều dưỡng 213 99 46,5 1,2(0,7-1,9) < 5 năm 95 48 50,5 1 ≥ 5 năm 200 86 43,0 0,7 (0,4-1,2) Ngoại 139 54 38,8 1 Nội 156 80 51,3 1,6 (1,04-2,63) Không 12 4 33,3 1 Có 283 130 45,9 1,7 (0,5-5,8) SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019 Website: yhoccongdong.vn p >0,05 <0,05 >0,05 >0,05 <0,05 >0,05 65 2019 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE Kết quả bảng trên cho thấy đối tượng là nữ giới có kiến thức về phòng hộ cá nhân là 49,3%; cao hơn so với nam gấp 2,1 lần, có ý nghĩa với p<0,05. Đối tượng nghiên cứu có chuyên môn là điều dưỡng có kiến thức đạt đối với VST là 46,5%; đối tượng nghiên cứu có chuyên môn là bác sĩ đạt 42,7%; sự khác biệt không có ý nghĩa với p>0,05. Đối tượng nghiên cứu thuộc hệ nội có kiến thức đạt đối với VST cao hơn gấp 1,6 lần so với đối tượng thuộc hệ ngoại, có ý nghĩa với p<0,05. Không có sự khác biệt giữa nhóm được đào tạo, tập huấn và nhóm không được đào tạo, tập huấn, với p>0,05. Bảng 3.3. Mối liên quan giữa thái độ về PNC với một số yếu tố của NVYT Các yếu tố liên quan Nhóm tuổi Giới Hệ Đào tạo, tập huấn Đạt thái độ đối với PNC n SL % OR (95% CI) < 30 tuổi 136 105 77,2 1 ≥ 30 tuổi 159 91 57,2 0,4 (0,2-0,6) Nam 66 39 59,1 1 Nữ 229 157 68,6 1,5 (0,8-2,6) Ngoại 139 74 53,2 1 Nội 156 122 78,2 3,1(1,9-5,2) Không 12 6 50,0 1 Có 283 190 67,1 2,0(0,6-6,5) Kết quả bảng trên cho thấy đối tượng nghiên cứu trẻ hơn (<30 tuổi) đạt thái độ đối với PNC với 77,2% cao hơn nhóm có độ tuổi từ 30 trở lên, có ý nghĩa với p<0,05. Không có sự khác biệt giữa nam và nữ, với p>0,05. Các NVYT ở p <0,05 >0,05 <0,05 >0,05 hệ nội có thái độ đạt về PNC chiếm 78,2% cao hơn gấp 3,1 lần so với các NVYT ở hệ ngoại, có ý nghĩa với p<0,05. Không có sự khác biệt giữa nhóm được đào tạo, tập huấn và nhóm không được đào tạo, tập huấn, với p>0,05. Bảng 3.4. Mối liên quan giữa thực hành về PNC với một số yếu tố của NVYT Các yếu tố liên quan Chuyên môn Thâm niên Hệ Đào tạo, tập huấn n SL % OR (95% CI) Bác sĩ 82 30 36,6 1 Điều dưỡng 213 96 45,1 1,4 (0,8-2,4) < 5 năm 95 35 36,8 1 ≥ 5 năm 200 91 45,5 1,4(0,8-2,4) Ngoại 139 53 38,1 1 Nội 156 73 46,8 1,4 (0,8-2,3) Không 12 5 41,7 1 Có 283 121 42,8 1,04 (0,3-3,4) Kết quả bảng trên cho thấy các NVYT là điều dưỡng và NVYT có thâm niên công tác từ 5 năm trở lên có tỷ lệ đạt thực hành đối với PNC cao hơn nhóm NVYT là bác sĩ và NVYT có thâm niên công tác dưới 5 năm, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Các 66 Đạt thực hành đối với PNC SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019 Website: yhoccongdong.vn p >0,05 >0,05 >0,05 >0,05 NVYT làm việc tại hệ nội và NVYT được đào tạo tập huấn có tỷ lệ đạt thực hành đối với PNC là 46,8% và 42,8%; cao hơn nhóm NVYT hệ ngoại và NVYT không được đào tạo tập huấn, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa với p>0,05. EC N KH G NG VI N S C NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Bảng 3.5. Mối liên quan giữa kiến thức về PNC với thái độ về PNC của NVYT Kiến thức Kiến thức VST Kiến thức PHCN n Đạt thái độ đối với PNC SL % OR (95% CI) Không đạt 128 43 33,6 1 Đạt 167 153 91,6 21,6 (11,2-41,7) Không đạt 161 99 61,5 1 Đạt 134 97 72,4 1,6 (1,002-2,7) Kết quả bảng trên cho thấy nhân viên y tế đạt về kiến thức vệ sinh tay và kiến thức về phòng hộ cá nhân thì có tỷ lệ đạt về thái độ đối với phòng ngừa chuẩn cao (91,6% p <0,05 <0,05 và 72,4%), gấp 21,6 và 1,6 lần so với nhóm không đạt kiến thức, có ý nghĩa với p<0,05. Bảng 3.6. Mối liên quan giữa kiến thức về VST, PHCN với thực hành về PNC của NVYT Kiến thức Kiến thức VST Kiến thức PHCN n Đạt thực hành đối với PNC SL % OR (95% CI) Không đạt 128 47 36,7 1 Đạt 167 79 47,3 1,5 (0,96-2,5) Không đạt 161 67 41,6 1 Đạt 134 59 44,0 1,1 (0,7-1,7) Kết quả nghiên cứu cho thấy các NVYT đạt về kiến thức VST và kiến thức về phòng hộ cá nhân thì có tỷ lệ đạt về thực hành đối với PNC cao hơn so với nhóm không đạt kiến thức, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. IV. BÀN LUẬN Khi tìm hiểu về mối liên quan giữa trình độ chuyên môn với kiến thức rửa tay của NVYT với VST trong PNC. Kết quả nghiên cứu cho thấy, đối tượng nghiên cứu có chuyên môn là điều dưỡng có kiến thức đạt đối với VST chiếm 61,5% cao hơn gấp 2,04 lần so với đối tượng có chuyên môn là bác sĩ, có ý nghĩa với p<0,05. Theo chúng tôi thì kết quả này là khá phù hợp bởi vì điều dưỡng thường xuyên thực hiện các thao tác VST khi chăm sóc NB nhiều hơn so với bác sĩ. Vì vậy, họ sẽ có kiến thức về VST cao hơn so với bác sĩ. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của tác giả Hồ Thị Nhi Na năm 2016 tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Quảng Nam [3]. Kết quả nghiên cứu cho thấy, điều dưỡng/(nữ hộ sinh), hộ lý có kiến thức rửa tay p >0,05 >0,05 cao gấp 3,85 lần so với bác sĩ và mối liên quan này có ý nghĩa thống kê. Một nghiên cứu khác của tác giả Nair cùng các cộng sự năm 2014 ở Ấn Độ [7], khi cho thấy sinh viên y khoa đạt tỷ lệ VST thấp hơn so với sinh viên điều dưỡng chiếm tỷ lệ tương ứng (74,2% so 95,4%). Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy vị trí công việc và đào tạo tập huấn có mối liên quan đến kiến thức VST của NVYT trong PNC. Kết quả nghiên cứu cho thấy đối tượng nghiên cứu thuộc hệ nội và có được đào tạo tập huấn có kiến thức đạt đối với VST cao hơn gấp 1,8 lần và 4,1 lần so với đối tượng thuộc hệ ngoại và không được đào tạo tập huấn, có ý nghĩa với p<0,05. Việc đào tạo, tập huấn có sự khác biệt về kiến thức rửa tay của NVYT trong PNC. Kết quả nghiên cứu này theo chúng tôi là khá phù hợp, điều này có thể giải thích là để có kiến thức sâu rộng về tuân thủ VST thì ngoài việc đọc sách, kiến thức từ nhà trường, học tập từ bạn bè đồng nghiệp việc đào tạo liên tục và tập huấn thường xuyên cho NVYT, đặc biệt là cán bộ mới là đặc biệt quan trọng. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi khá tương đồng với nghiên cứu của tác giả Lee cùng các cộng sự năm 2014 [6] cho SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019 Website: yhoccongdong.vn 67 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE thấy hiệu quả của tiếp cận truyền thông giúp NVYT nâng cao kiến thức tuân thủ VST. Trong các nguồn truyền thông đó thì tập huấn là nguồn truyền thông mà NVYT được tiếp cận thường xuyên nhất. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi khá tương đồng các nghiên cứu của tác giả Nguyễn Việt Hùng và các cộng sự [2]. Kết quả nghiên cứu cho thấy đối tượng là nữ giới có kiến thức về phòng hộ cá nhân là 49,3%; cao hơn so với nam gấp 2,1 lần, có ý nghĩa với p<0,05. Nghiên cứu của chúng tôi hoàn toàn phù hợp với nghiên cứu của tác giả Ergin năm 2011 [5], nghiên cứu cũng cho kết quả khi so sánh sự khác biệt về kiến thức giữa nữ giới và nam giới khi nữ giới có kết quả cao hơn so với nam giới. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy đối tượng nghiên cứu trẻ hơn (<30 tuổi) đạt thái độ đối với PNC với 77,2% cao hơn nhóm có độ tuổi từ 30 trở lên, có ý nghĩa với p<0,05. Không có sự khác biệt giữa nam và nữ, với p>0,05. Điều này khá phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi bởi vì đối tượng nghiên cứu của chúng tôi phần lớn là những người < 30 tuổi chiếm 46,1%. Hơn nữa những người trẻ tuổi họ dễ dàng tiếp cận nhiều nguồn kiến thức khác nhau, đó là lý do vì sao những người trẻ tuổi sẽ có kiến thức tốt hơn. Kết quả nghiên cứu cho thấy các NVYT ở hệ nội có thái độ đạt về PNC chiếm 78,2% cao hơn gấp 3,1 lần so với các NVYT ở hệ ngoại, có ý nghĩa với p<0,05. Điều này phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi, vì NVYT hệ nội có kiến thức tốt hơn NVYT hệ ngoại về PNC. Như vậy theo nghiên cứu kiến thức về PNC tốt hơn thì sẽ có thái độ tích cực hơn trong PNC. Nghiên cứu cho thấy các NVYT là điều dưỡng và NVYT có thâm niên công tác từ 5 năm trở lên có tỷ lệ đạt thực hành đối với PNC cao hơn nhóm NVYT là bác sĩ và NVYT có thâm niên công tác dưới 5 năm, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Như vậy nhóm nhân viên có thời gian công tác lâu năm hơn, có nhiều kinh nghiệm lâm sàng hơn thì có thực hành cao hơn nhóm có thâm niên công tác ít hơn. Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa kiến thức và thái độ của NVYT trong PNC, khi NVYT đạt 68 SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019 Website: yhoccongdong.vn 2019 về kiến thức VST và kiến thức về phòng hộ cá nhân thì có tỷ lệ đạt về thái độ đối với PNC cao (91,6% và 72,4%), gấp 21,6 và 1,6 lần so với nhóm không đạt kiến thức, có ý nghĩa với p<0,05. Kiến thức tác động hành vi và là yếu tố tiên quyết thúc đẩy hành vi. Kết quả bảng trên cho thấy các NVYT đạt về kiến thức VST và kiến thức về phòng hộ cá nhân thì có tỷ lệ đạt về thực hành đối với PNC cao hơn so với nhóm không đạt kiến thức, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Thái độ là yếu tố quan trọng để thay đổi hành vi. Kết quả nghiên cứu cho thấy các NVYT đạt thái độ về PNC thì có tỷ lệ đạt về thực hành đối với PNC là 48,5% cao gấp 2,1 lần so với nhóm không đạt thái độ, có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng năm 2010 về đánh giá thực trạng và xác định mối liên quan về kiến thức, thái độ, thực hàng PNC và phòng ngừa cách ly của NVYT một số bệnh viện miền Bắc [2]. Nắm được thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành sẽ cung cấp dữ liệu cần thiết cho đào tạo để đạt được hiệu quả phòng ngừa NKBV tốt hơn. Các khóa đào tạo PNC luôn được coi là biện pháp ít tốn kém trong cải thiện tuân thủ quy trình kiểm soát nhiễm khuẩn và tránh lặp lại thói quen không đúng đang tồn tại. Nhằm đảm bảo thực hành KSNK được thực thi trong các cơ sở khám chữa bệnh, nội dung tập huấn cần nhấn mạnh tới khả năng, điều kiện thực tế và các yếu tố tác động đến tuân thủ của NVYT như: bệnh nhân cấp cứu, tình trạng quá tải, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị. V. KẾT LUẬN Yếu tố chuyên môn, hệ nội, đã được đào tạo tập huấn có liên quan với kiến thức vệ sinh tay của NVYT. Yếu tố giới tính, hệ nội có liên quan với kiến thức phòng hộ cá nhân của NVYT. Yếu tố nhóm tuổi, hệ nội có liên quan với thái độ PNC, có ý nghĩa với p<0,05. Về thực hành, các yếu tố của NVYT trong nghiên cứu chưa thấy cosmooislieen quan có ý nghĩa thống kê với p>0,05. EC N KH G NG VI N S C NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y tế (2011), Tài liệu đào tạo liên tục kiểm soát nhiễm khuẩn cho nhân viên y tế tuyến cơ sở. Hội Kiểm soát nhiểm khuẩn Huế, tr. 30-39. 2. Nguyễn Việt Hùng, Lê Bá Nguyên (2010), “Đánh giá thực trạng và xác định mối liên quan kiến thức, thái độ và thực hành về phòng ngừa chuẩn và phòng ngừa cách ly của nhân viên y tế một số bệnh viện miền Bắc”, Tạp chí Y học Thực hành, số 5, tr. 36- 40. 3. Hồ Thị Nhi Na (2016), Kiến thức và thái độ đối với một số quy định phòng ngừa chuẩn của nhân viên y tế tại một số khoa của Bệnh viện đa khoa Trung ương Quảng Nam năm 2015, Luận văn thạc sỹ y học Trường đại học Y Hà Nội. 4. Trần Hữu Nghĩa (2013), Kiến thức, thực hành của điều dưỡng viên Đại học tại chức khóa 9 - Đại học Y Hà Nội về phòng chống nhiễm khuẩn bệnh viện, Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân YTCC, Trường Đại học Y Hà Nội. 5. Ergin A. (2011), “Evaluation of students’ social hand washing knowledge, practices, and skills in a university setting”, “ Cent Eur J Public Health. 19(4), pp. 222-226. 6. Lee S. (2014), “Improved Hand Hygiene Compliance is Associated with the Change of Perception toward Hand Hygiene among Medical Personnel”, Infect Chemother. 46(3), pp. 165-171. 7. Sreejith Sasidharan Nair (2014), “Knowledge, Attitude, and Practice of Hand Hygiene among Medical and Nursing Students at a Tertiary Health Care Centre in Raichur, India”, Hindawi Publishing Corporation. 8. Truong Anh Thu, Ngo Quy Chau and Nguyen Viet Hung (2012), Knowledge, Attitude and Practices Regarding Standard and Isolation Precautions Among SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019 Website: yhoccongdong.vn 69
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.