Một số xu hướng đổi mới quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ trên thế giới

pdf
Số trang Một số xu hướng đổi mới quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ trên thế giới 21 Cỡ tệp Một số xu hướng đổi mới quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ trên thế giới 293 KB Lượt tải Một số xu hướng đổi mới quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ trên thế giới 0 Lượt đọc Một số xu hướng đổi mới quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ trên thế giới 1
Đánh giá Một số xu hướng đổi mới quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ trên thế giới
4.9 ( 11 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 21 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

JSTPM Tập 6, Số 3, 2017 93 MỘT SỐ XU HƯỚNG ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRÊN THẾ GIỚI Hoàng Lan Chi1, Phạm Thị Thu Hằng Viện Chiến lược và Chính sách khoa học và công nghệ Tóm tắt: Quản lý nhiệm vụ KH&CN có nguồn kinh phí từ nhà nước có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển KH&CN ở các quốc gia. Quản lý nhiệm vụ KH&CN thường được điều chỉnh và đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả và phù hợp với bối cảnh đã thay đổi. Bài viết này đề cập tới một số xu hướng đổi mới nổi bật đang diễn ra trên thế giới như: mở rộng phạm vi, đối tượng quan tâm của nhiệm vụ KH&CN, điều chỉnh định hướng ưu tiên trong nhiệm vụ KH&CN, tăng cường tài trợ cho doanh nghiêp và hợp tác công tư trong nhiệm vụ KH&CN, gắn kết nhiệm vụ KH&CN với các chiến lược, kế hoạch phát triển KH&CN. Coi trọng các chương trình KH&CN, đẩy mạnh tuyển chọn thông qua cạnh tranh, chú trọng đánh giá hiệu quả của các nhiệm vụ KH&CN. Đổi mới quản lý nhiệm vụ KH&CN đã diễn ra thể hiện một số đặc điểm là: xét theo từng nước, các đổi mới có quan hệ với nhau tạo nên sự đồng bộ nhất định; đổi mới không diễn ra ở tất cả các mặt/khía cạnh của quản lý nhiệm vụ KH&CN mà tập trung vào một số mặt có thể làm thay đổi cả hệ thống quản lý; mục tiêu chung của đổi mới là nâng cao hiệu quả quản lý nhiệm vụ KH&CN. Từ khóa: Nhiệm vụ KH&CN; Quản lý nhiệm vụ KH&CN. Mã số: 17091101 Quản lý nhiệm vụ KH&CN có nguồn kinh phí từ nhà nước (sau đây gọi tắt là nhiệm vụ KH&CN) ở các nước thường có những thay đổi theo thời gian. Thay đổi trong quản lý nhiệm vụ KH&CN có thể là điều chỉnh nhỏ hoặc đổi mới cơ bản. Đợt đổi mới gần đây đã diễn ra ở nhiều nước gắn liền với bước chuyển mạnh mẽ của hoạt động nghiên cứu khoa học và kỳ vọng phát triển KH&CN của các chính phủ trong những năm đầu của thế kỷ mới. Dưới đây là một số xu hướng đổi mới nổi bật. 1. Xu hướng mở rộng phạm vi, đối tượng quan tâm của nhiệm vụ khoa học và công nghệ Nhiều nước đã tiến hành đa dạng hóa và mở rộng phạm vi, đối tượng quan tâm của nhiệm vụ KH&CN và từ đấy hình thành nên loại nhiệm vụ KH&CN mới, thông qua các giải pháp sau: 1 Liên hệ tác giả: lanchi.hoang.apd@gmail.com 94 Một số xu hướng đổi mới quản lý nhiệm vụ KH&CN trên thế giới Một là, đẩy mạnh gắn kết nghiên cứu với đào tạo. Quan hệ này không chỉ được đẩy mạnh ở những nước vốn chưa coi trọng gắn kết nghiên cứu với đào tạo trong các nhiệm vụ KH&CN như Cộng hòa Séc và một số nước Đông Âu (số nhiệm vụ và số kinh phí NC&PT dành cho các trường đại học tăng lên nhanh chóng giúp thu hẹp khoảng cách chênh lệch với các viện nghiên cứu) mà còn được thúc đẩy mạnh mẽ ở những nước có truyền thống gắn kết nghiên cứu khoa học và đào tạo như Hà Lan, Pháp, Mỹ... Hà Lan đã hình thành một chương trình khuyến khích để hỗ trợ các nhà nghiên cứu trẻ thực thi các ý tưởng mới. Ở Pháp các Trung tâm nghiên cứu quốc gia (CNRS) đã đề xuất một số hoạt động chuyên đề thông qua hình thức các chương trình nghiên cứu, đào tạo dành cho “cán bộ nghiên cứu trẻ”, cho phép cán bộ nghiên cứu trẻ phát triển dự án khoa học riêng, do một hội đồng quốc tế lựa chọn, đồng thời, hình thành các nhóm nghiên cứu hoạt động độc lập có chương trình nghiên cứu riêng của mình. Chương trình “Sáng kiến Công nghệ Nano Quốc gia” (National Nanotechnology Initiative - NNI) của Mỹ dành khoảng 70% ngân sách tài trợ cho các nghiên cứu tại các trường đại học nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về số lượng cán bộ có kỹ năng về KH&CN nano. Hai là, mở rộng hỗ trợ cho một số đối tượng đặc thù. Hỗ trợ cho các nhà nghiên cứu nữ được nhiều nước Châu Âu chú ý. Điển hình như Hà Lan đã hình thành một chương trình giúp nâng cao vị trí của các nhà nghiên cứu nữ và một Chương trình khuyến khích đặc biệt để trao học hàm cho các nữ nghiên cứu viên tới cấp Phó Giáo sư. Tại Nam Phi Quỹ Nghiên cứu Quốc gia (NRF) đã tài trợ cho đối tượng là sinh viên da đen để khuyến khích họ nghiên cứu sau đại học. Ba là, từ chỗ chỉ quan tâm tới tạo ra các kết quả nghiên cứu, nhiều nước đã coi trọng ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất và đời sống. Tuy sự gia tăng đầu tư cho nghiên cứu công trong hơn 15 năm qua đã đem lại một số lượng lớn ấn phẩm khoa học, nhưng chính phủ nhiều nước vẫn chú trọng đưa thêm vào những yêu cầu về tính hiệu quả trong các tài trợ và các thỏa thuận theo hợp đồng. Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra một sáng kiến để thúc đẩy thương mại hóa kết quả thu được của các chương trình NC&PT quốc gia. Các doanh nghiệp, các nhà tư vấn công nghệ, các nhà kinh doanh vốn mạo hiểm sẽ hợp tác với nhau để nhận dạng những công nghệ có nhiều hứa hẹn thương mại hóa. Trong sách trắng về khoa học và đổi mới được xuất bản tháng 7/2000 Chính phủ Anh nêu rõ: “Thay đổi nguyên tắc đối với các công trình nghiên cứu được chính phủ cấp kinh phí sao cho các cơ quan nghiên cứu phải được hưởng quyền sở hữu trí tuệ; ra những hướng dẫn mới về khuyến khích và chấp nhận rủi ro đối với các nhân viên trong các cơ sở nghiên cứu thuộc JSTPM Tập 6, Số 3, 2017 95 khu vực nhà nước và cấp 10 triệu Bảng Anh để thương mại hóa những nghiên cứu đã được thực hiện trong khu vực nhà nước”. Một ví dụ điển hình khác là Trung Quốc với Chương trình Bó đuốc (Torch project), Chương trình Đốm lửa (Spark project),... 2. Xu hướng điều chỉnh định hướng ưu tiên trong nhiệm vụ khoa học và công nghệ Định hướng ưu tiên trong nhiệm vụ KH&CN ở các nước được điều chỉnh theo những xu hướng chủ yếu sau: Một là, ưu tiên vào các lĩnh vực KH&CN mới. Những mục tiêu công ích có tính truyền thống như y tế, quốc phòng và bảo vệ môi trường vẫn là những lĩnh vực chủ yếu để Nhà nước tài trợ NC&PT, nhưng đa số các chính phủ trong khối OECD cũng vẫn xác lập những thứ tự ưu tiên trong những lĩnh vực đặc biệt của KH&CN. Nhìn chung, những lĩnh vực ưu tiên đó là những công nghệ có khả năng giải quyết được một số mục tiêu xã hội và những công nghệ có giá trị đối với những khu vực tăng trưởng nhanh trong công nghiệp. Trong hầu hết các nước OECD, công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT) và công nghệ sinh học (CNSH) đã được chú trọng đặc biệt, đồng thời, công nghệ nano cũng được chú ý đáng kể. Các lĩnh vực được ưu tiên không phải chỉ bởi chúng mang tính liên ngành, đòi hỏi phải chú trọng đầu tư mà còn vì chúng có đóng góp lớn cho phát triển kinh tế-xã hội. Chẳng hạn, các căn cứ để lựa chọn ưu tiên trong KH&CN của Nhật Bản được nêu ra vào năm 2001 là: (i) Tạo ra được những loại tri thức làm cơ sở cho những phát triển mới (tăng cường tài sản trí tuệ); (ii) Thúc đẩy tăng trưởng bền vững ở các thị trường trên thế giới, nâng cấp các công nghệ công nghiệp và tạo ra các ngành nghề mới (hiệu quả kinh tế); (iii) Cải thiện sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân, tăng cường an ninh quốc gia hoặc phòng ngừa hiểm họa (lợi ích xã hội). Trên cơ sở đó có 4 lĩnh vực ưu tiên đã được nhận dạng là: Khoa học về sự sống (có tác dụng góp phần ngăn ngừa/điều trị ở một xã hội có đông người cao tuổi và tỷ lệ sinh đẻ thấp, cũng như giải quyết vấn đề thiếu lương thực); Công nghệ thông tin và truyền thông (đây là lĩnh vực phát triển nhanh, trực tiếp giúp xây dựng nên xã hội nối mạng tiên tiến và đẩy mạnh ngành CNTT và công nghệ cao); Khoa học môi trường (đây là lĩnh vực không thể tách rời với công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo tồn và duy trì cuộc sống); Công nghệ nano và vật liệu (đây là lĩnh vực có sức lan tỏa sang một loạt các ngành rộng lớn, giúp duy trì ưu thế cho Nhật Bản và phân bố mạnh mẽ các nguồn lực NC&PT). Hai là, ưu tiên hơn vào các nghiên cứu dài hạn, nghiên cứu có nhiều rủi ro. Chẳng hạn, từ năm 2000, Nam Phi đã chuyển sang chương trình nghiên cứu 96 Một số xu hướng đổi mới quản lý nhiệm vụ KH&CN trên thế giới trung hạn (3 năm) nhằm đem lại sự ổn định trong hoạt động nghiên cứu trong giới khoa học. Ba là, coi trọng nghiên cứu cơ bản. Ở nhiều nước hiện đang có sự dịch chuyển đáng kể sang ưu tiên các nghiên cứu cơ bản. Chính phủ Hà Lan đã xuất bản tài liệu “Học hỏi không biên giới”, trong đó, đề xuất việc tăng cường thêm “luồng đầu tư thứ hai” của chính phủ cho nghiên cứu cơ bản, thông qua Hội đồng Nghiên cứu (NWO). Nghiên cứu cơ bản cũng là một trong những hướng tập trung chủ yếu của những nước như Cộng hòa Séc trong điều chỉnh đầu tư cho NC&PT. Khi các khu vực có hàm lượng tri thức cao tiếp tục được mở rộng và những áp lực cạnh tranh tăng lên, thì việc cấp kinh phí của Chính phủ cho nghiên cứu cơ bản sẽ trở thành một yếu tố hậu thuẫn có tính trọng tâm đối với NC&PT của khu vực doanh nghiệp. Bốn là, đề cao hướng thực dụng trong các nhiệm vụ KH&CN. Nhấn mạnh thực dụng được thể hiện cụ thể trong ưu tiên của các nước. Thụy Điển đã tiến hành tái cơ cấu mức chi tiêu công cho NC&PT theo hướng tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp và phát triển vùng. Ở Liên bang Nga, đã có những thay đổi theo hướng giảm tỷ lệ kinh phí dành cho nghiên cứu cơ bản và tăng tỷ lệ kinh phí cho các hoạt động phát triển công nghệ - được gọi là định hướng vào các “kết quả nhanh”. Các lĩnh vực KH&CN ưu tiên của Đức đang chuyển dần từ các dự án quy mô lớn như nghiên cứu năng lượng và vũ trụ sang hỗ trợ cho các công nghệ có tác động liên ngành, như CNTT và truyền thông đa phương tiện dải tần rộng, vật liệu tiên tiến, công nghệ lade, công nghệ sinh học (bao gồm cả bộ gen), y sinh, khoa học môi trường và các hệ thông tích hợp vi mô. BMBF phối hợp với ngành công nghiệp hỗ trợ cho các lĩnh vực KH&CN đang trong giai đoạn tiến gần đến thị trường, tức là các dự án NC&PT trong giai đoạn thử nghiệm. Nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng giải quyết các nhu cầu xã hội quan trọng (như bảo vệ sức khoẻ, môi trường và giáo dục) cũng được Nhà nước tài trợ. Ở Pháp, vai trò của các chương trình lớn, đặc biệt là các chương trình gắn với quốc phòng đang giảm đi do sự chấm dứt chiến tranh lạnh và những khó khăn về ngân sách nhà nước. Các chương trình lớn của Pháp về hỗ trợ hoạt động NC&PT cũng đã có sự thay đổi về mục tiêu và phương pháp, tập trung vào một số lĩnh vực như giao thông vận tải, hóa chất và vật liệu bán dẫn. Sách trắng về khoa học và đổi mới được xuất bản tháng 7/2000 của chính phủ Anh nêu ra khoản đầu tư cung cấp thêm 90 triệu Bảng Anh nhằm thúc đẩy việc khai thác thương mại các nghiên cứu chủ yếu đến công nghệ gen, các công nghệ cơ bản và khoa học điện tử. Năm là, ưu tiên các nghiên cứu liên kết giữa viện, trường và doanh nghiệp. Chương trình hỗ trợ của Nhà nước cho liên kết viện, trường với doanh JSTPM Tập 6, Số 3, 2017 97 nghiệp ngày càng phổ biến ở các nước. Chương trình Proinno (Hỗ trợ nâng cao năng lực đổi mới của doanh nghiệp vừa và nhỏ) của CHLB Đức có các loại dự án liên quan tới liên kết viện, trường với doanh nghiệp như KF (Các dự án hợp tác giữa doanh nghiệp và cơ sở nghiên cứu) và KA (Các dự án hợp tác của doanh nghiệp thông qua hợp đồng giao việc với cơ sở nghiên cứu). Điều kiện để được nhận tài trợ ở đây chỉ là: hướng tới sự tăng trưởng rõ rệt về thứ hạng của công nghệ và năng lực công nghệ; thuộc một lĩnh vực công nghệ mới hoặc là sự kết hợp một số chuyên ngành công nghệ; là cộng tác nghiên cứu lần đầu, cộng tác nghiên cứu với nhiều đối tác hoặc đối tác nước ngoài. Ở Mỹ, hỗ trợ của Chính phủ cho việc thiết lập quan hệ hợp tác giữa viện, trường và doanh nghiệp được nhấn mạnh vào thúc đẩy phát triển các hướng nêu trong Sáng kiến KH&CN quốc gia (công nghệ na nô, công nghệ than sạch và pin nhiên liệu là những sáng kiến gần đây nhất của Liên bang). Chương trình xây dựng cơ chế liên hợp “Sản xuất - Học tập Nghiên cứu” ở Trung Quốc có nhiệm vụ xúc tiến và khuyến khích xây dựng quan hệ hợp tác ổn định, mở cửa giữa phần lớn xí nghiệp quốc doanh loại lớn với các trường đại học, cao đẳng, viện, trung tâm nghiên cứu khoa học. Chương trình KONSORCIA do Bộ Thương mại và Công nghiệp của Cộng hòa Séc quản lý có mục tiêu là hỗ trợ hoạt động của nhóm gồm các nhà nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học CH Séc (khu vực nhà nước), các trường đại học hoặc các phòng thí nghiệm nhà nước và các nhà nghiên cứu của khu vực doanh nghiệp nhằm giải quyết một dự án NC&PT cụ thể và chuyển giao kết quả nghiên cứu vào thực tế. Trong những chương trình mới của Nam Phi, chẳng hạn như Quỹ Đổi mới, không chỉ đánh giá riêng hàm lượng NC&PT mà còn xét cả đến “các quan hệ liên minh chiến lược” và chiến lược thương mại hóa để làm tiêu chuẩn lựa chọn. Điều này thể hiện nỗ lực gắn kết giữa giới khoa học và ngành công nghiệp. Điều chỉnh hướng ưu tiên trong nhiệm vụ KH&CN vừa qua là dựa trên điều chỉnh ưu tiên của chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới nói chung và còn dựa trên một số cơ sở khác. Vai trò của nhiệm vụ KH&CN trong thực hiện các hướng ưu tiên của nhà nước là rất rõ. Đã có nhiều hướng tập trung ưu tiên đặt ra cho NC&PT công. Trong NC&PT công, để thực hiện những ưu tiên được đặt ra, phải trông cậy chủ yếu vào các nhiệm vụ KH&CN có kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước. Chẳng hạn, từ thiện khoa học (thường liên quan đến những đóng góp lớn từ các cá nhân giàu có) là một nguồn tài trợ cho nghiên cứu công đang tăng nhanh. Các tổ chức từ thiện, quỹ và nhà hảo tâm đã trở thành nhà tài trợ chính cho nghiên cứu tại trường đại học. Từ thiện khoa học ước tính cung cấp gần 30% kinh phí nghiên cứu hàng năm cho các trường đại học hàng đầu của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là hoạt động nghiên cứu được tài trợ này thường được định hướng 98 Một số xu hướng đổi mới quản lý nhiệm vụ KH&CN trên thế giới bởi lợi ích cá nhân và tách rời mục tiêu công, dẫn đến việc chuyển hướng nghiên cứu sang các lĩnh vực ngoại vi. Như vậy, các nhiệm vụ KH&CN phải tập trung bám sát các ưu tiên được nhà nước xác định và phải kịp thời điều chỉnh để phù hợp với những thay đổi trong định hướng ưu tiên. Một khía cạnh đáng chú ý khác là dù chú ý đến những thách thức xã hội, kinh tế và an ninh, nhưng phần ngân sách NC&PT công được phân bổ cho nghiên cứu không theo chủ đề (ví dụ nhằm phát triển tri thức) vẫn sẽ lớn. Trong năm 2015, nghiên cứu không theo chủ đề chiếm hơn 2/3 tổng số ngân sách công phân bổ ở Áo, Hà Lan, Thụy Điển, Lithuania, Thụy Sĩ và kể từ đầu những năm 1990, phần ngân sách cấp cho loại hình nghiên cứu này đã tăng ở hầu hết các nước. Dữ liệu quốc gia của Hoa Kỳ cũng xác nhận sự sụt giảm của nghiên cứu được định hướng bởi nhiệm vụ. Như vậy, nhiệm vụ KH&CN thường tập trung vào ưu tiên rất hẹp, trực tiếp đáp ứng các mục tiêu công (không tính đến phát triển tri thức nói chung). 3. Xu hướng tăng cường tài trợ cho doanh nghiệp và hợp tác công tư trong nhiệm vụ khoa học và công nghệ Đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp NC&PT được nhấn mạnh trong chính sách của nhiều nước. Italia đã có những đổi mới quan trọng trong hỗ trợ hoạt động NC&PT như: cải cách sâu sắc những chính sách khuyến khích của nhà nước hỗ trợ cho nghiên cứu trong công nghiệp (Đạo luật 297/1999 và DM 593/2000); đổi mới khuyến khích để nâng cao mối quan hệ giữa các khu vực nghiên cứu công và tư trong các lĩnh vực cụ thể (Đạo luật 204/1998 và DM 16/10/2000);... Chính quyền Vùng Wallonia (Bỉ) có chương trình hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tiến hành NC&PT, bao gồm: tài trợ 80% chi phí dịch vụ kỹ thuật mang tính thăm dò để thử nghiệm các giả định trước khi bắt tay vào thực hiện một dự án NC&PT chính thức, tài trợ 80% chi phí nghiên cứu khả thi để phát triển phần mềm mới, tài trợ 80% chi phí để soạn thảo dự án NC&PT. Chính phủ Canada tài trợ trực tiếp cho NC&PT và đổi mới của doanh nghiệp thông qua Quỹ Đối tác Công nghệ Canada (TPC). TPC được thành lập từ 1996 và đến tháng 9/1999 đã được điều chỉnh lại theo hướng từ hỗ trợ cho hoạt động phát triển sản phẩm cụ thể sang hỗ trợ cho NC&PT. Hỗ trợ nhiệm vụ KH&CN cho doanh nghiệp được đặt trong bối cảnh tăng cường hỗ trợ của nhà nước cho doanh nghiệp nói chung. Mặc dù hầu hết các hoạt động NC&PT do doanh nghiệp thực hiện, vẫn được cấp kinh phí từ ngành công nghiệp (mức trung bình năm 2013 của các nước OECD là 86,5%), nhưng tài trợ công đã tăng mạnh trong thập kỷ qua. Ở Canada, Chilê, Pháp và Hungary, hơn 1/4 hoạt động NC&PT của doanh nghiệp được cấp kinh phí thông qua cả hỗ trợ tài chính trực tiếp và gián tiếp. Ở Liên bang Nga, tài trợ công tăng đỉnh điểm lên mức 62%. Tỷ lệ chi cho JSTPM Tập 6, Số 3, 2017 99 NC&PT của doanh nghiệp (BERD) được tài trợ công, đã tăng ở Bỉ, Ireland, Iceland, Pháp và Canada. Kể từ năm 2006, cường độ tài trợ công cũng tăng theo tỷ lệ phần trăm GDP ở hầu hết các nước và đặc biệt rõ nét ở Slovenia, Bỉ, Pháp và Ireland. Phần lớn ngân sách của chính phủ cho NC&PT đã được phân bổ cho khu vực doanh nghiệp thay vì cho nghiên cứu công, báo hiệu sự thay đổi nội dung chính sách trong các mục tiêu chiến lược (tăng năng lực đổi mới của doanh nghiệp), các công cụ và mục tiêu (doanh nghiệp). Trên thực tế, hỗ trợ của chính phủ cho NC&PT quốc gia tăng thêm, phần nào đã bù đắp cho sự giảm sút hoạt động NC&PT của doanh nghiệp trong và sau khủng hoảng kinh tế vừa diễn ra (gần đây, hiệu quả kinh tế thấp cùng với các chiến lược đầu tư có lợi cho giá trị cổ đông ngắn hạn có thể làm giảm năng lực và thiện chí của doanh nghiệp trong việc thực hiện các dự án rủi ro và đầu tư cho nghiên cứu). Hỗ trợ của nhà nước cho NC&PT của doanh nghiệp được thực hiện thông qua nhiều hình thức phong phú như ưu đãi thuế, tư vấn công nghệ, vốn cổ phần,... và hỗ trợ thông quan qua nhiệm vụ KH&CN là một trong số đó. Hợp tác công-tư trong nhiệm vụ KH&CN là hướng được Mỹ, Châu Âu và nhiều nước khác thúc đẩy. Ở Nga, hợp tác công-tư là một trong hai sự thay đổi chính sách quan trọng (sự thay đổi khác là phân bổ kinh phí mang tính cạnh tranh). Singapore phát triển các chương trình đồng tài trợ mạnh giữa các chủ thể công và tư, chẳng hạn như khuyến khích các trường đại học kỹ thuật liên kết với các Hiệp hội công nghiệp để cộng tác thực hiện các sáng kiến R&D, với sự hỗ trợ của Chính phủ. 4. Xu hướng gắn kết nhiệm vụ khoa học và công nghệ với các chiến lược, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ Một trong những xu hướng nổi bật trong đổi mới quản lý nhiệm vụ KH&CN là gắn kết chặt chẽ giữa nhiệm vụ KH&CN với các chiến lược, kế hoạch phát triển KH&CN. Các nhiệm vụ KH&CN quan trọng được xác định dựa trên các chiến lược, kế hoạch phát triển KH&CN nói chung. Các nhiệm vụ thuộc hướng ưu tiên được tập trung đầu tư, tiếp cận xác định ưu tiên và thực hiện kế hoạch đầu tư theo định hướng ưu tiên xác định trong Chiến lược phát triển KH&CN. Ở Italia, theo Kế hoạch Nghiên cứu Quốc gia (2001-2003), ưu tiêu của Chính phủ đã hướng từ khoa học cơ bản sang công nghệ cao. Bốn mục tiêu vĩ mô đã được xác định là: “Chất lượng cuộc sống”, “Tăng cường bền vững cạnh tranh”, “Môi trường và năng lượng”, “Nền văn minh Địa Trung hải trong hệ thống toàn cầu”. Trên cơ sở đó, các chương trình và dự án nghiên cứu đã được xác định một cách phù hợp. Từ mục tiêu vĩ mô “Chất lượng cuộc sống” trong Kế hoạch Nghiên cứu Quốc gia (2001-2003) các chương trình chiến lược như Hậu bộ gen (4 dự án lớn với 105 triệu EUR), Kỹ thuật 100 Một số xu hướng đổi mới quản lý nhiệm vụ KH&CN trên thế giới y tế mới (5 dự án lớn với 70 triệu EUR), Khoa học thần kinh (3 dự án lớn với 18 triệu EUR), Chất lượng thực phẩm và chăm sóc sức khỏe (2 dự án lớn với 14 triệu EUR) đã được hình thành. Tương ứng với mục tiêu vĩ mô “Tăng trưởng bền vững cạnh tranh” là các chương trình chiến lược như Công nghệ thông tin và truyền thông (6 dự án lớn với 157 triệu EUR), Công nghệ nano, vi công nghệ, phát triển tổng hợp các vật liệu mới (4 dự án lớn với 77 triệu EUR). Với mục tiêu vĩ mô “Môi trường và năng lực” có các chương trình chiến lược Phát triển bền vững và thay đổi khí hậu (1 dự án lớn với 14 triệu EUR), Các hệ thống sản xuất và quản lý năng lượng mới (2 dự án lớn với 42 triệu EUR). Với mục tiêu vĩ mô “Nền văn minh Địa Trung hải trong hệ thống toàn cầu” có các chương trình Di sản văn hóa và triển vọng về khoa học nhân văn (1 dự án lớn với 3,5 triệu EUR), KH&CN trong xã hội tri thức (2 dự án lớn với 8 triệu EUR), An ninh và quyền công dân (1 dự án lớn với 2,5 triệu EUR)2. Ở Hungary, tài trợ cho NC&PT và đổi mới được các Chương trình NC&PT Quốc gia tiến hành trong khuôn khổ của Kế hoạch Széchenyi. Chính phủ đã ra nghị quyết về các chương trình NC&PT được nêu trong “Chính sách KH&CN 2000”. Các chương trình NC&PT đã được nêu ra trong 5 lĩnh vực sau: Nâng cao chất lược cuộc sống; Các công nghệ thông tin liên lạc; Khoa học vật liệu và môi trường; Nghiên cứu nông nghiệp và công nghệ sinh học; Nghiên cứu di sản quốc gia và những thay đổi xã hội đương đại. Từ năm 2000, Trung Quốc đã tiến hành hoàn thiện công tác quản lý kế hoạch KH&CN. Nhiệm vụ chính của kế hoạch KH&CN là hỗ trợ những dự án đặc biệt, nghiên cứu cơ bản, xây dựng điều kiện NC&PT và xây dựng môi trường cho nghiên cứu và đổi mới. Mexico hình thành Chương trình Đặc biệt về KH&CN 2001-2006 với mục tiêu điều phối các hoạt động khác nhau của các ngành. Các chương trình KH&CN của từng ngành được xây dựng trên cơ sở định hướng của chương trình chung. Bám sát vào các chiến lược, kế hoạch dài hạn, đồng thời, các nhiệm vụ KH&CN cũng cần bảo đảm tính linh hoạt, sát với những biến động của cuộc sống. Đây là vấn đề được các nước chú ý giải quyết. Thụy Sĩ là một ví dụ. Ở Thụy Sĩ, thông qua các Chương trình Nghiên cứu Quốc gia (NRP), do Quỹ Khoa học Quốc gia Thụy Sĩ quản lý. Chính phủ tài trợ cho các dự án nghiên cứu liên quan đến những vấn đề mang tích thời sự và có tầm quan trọng quốc gia, các kết quả của dự án này được cho là sẽ đóng góp cơ sở khoa học cho việc giải quyết những vấn đề cấp bách về kinh tế hoặc xã hội. Các chương trình này kéo dài 5 năm và mỗi chương trình được tài trợ từ 5 đến 20 triệu Franc Thụy Sĩ. Những thay đổi này đã giúp đáp ứng nhu cầu chính trị và xã hội đặt ra nhanh hơn. Ngoài ra, cách Chương trình 2 Nguồn: Bộ Nghiên cứu và Giáo dục Đại học Italia, 2001. JSTPM Tập 6, Số 3, 2017 101 Nghiên cứu Quốc gia cũng được kết nối tốt hơn với người sử dụng các kết quả chương trình. Một ví dụ khác là Cộng hòa Séc. Tài trợ trọng điểm cho các chương trình NC&PT và tài trợ cho cơ quan nghiên cứu được cấp trên cơ sở các kế hoạch nghiên cứu là những khoản sẽ được sử dụng để tài trợ cho những ưu tiên. Đồng thời, có một phần những quỹ sẵn có dùng để giải quyết những vấn đề không thuộc những ưu tiên NC&PT được lựa chọn. Phần này do Cơ quan Tài trợ của Cộng hòa Séc và các cơ quan tài trợ nội bộ (như cơ quan tài trợ của Viện Hàn lâm) đảm nhiệm. 5. Xu hướng coi trọng các chương trình khoa học và công nghệ Các chương trình KH&CN ngày càng phổ biến gắn liền với lựa chọn những ưu tiên nghiên cứu trọng điểm ở các nước. Các chương trình KH&CN này có những đặc điểm sau: - Một số chương trình có quy mô rất lớn và dài hạn. Điển hình như Chương trình “Sáng kiến Công nghệ Nano Quốc gia” - National Nanotechnology Initiative - NNI) của Mỹ tăng 227 triệu USD đầu tư của Chính phủ vào NC&PT công nghệ nano trong tài khóa 2001 và nhiều trong số mục tiêu nghiên cứu có thể phải mất 20 năm hoặc lâu hơn nữa mới đạt được. Ở Nga, trong giai đoạn 2006-2010, các nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn được lập kế hoạch theo chương trình 5 năm, tuy nhiên, sang giai đoạn 2011-2025, các chương trình được thực hiện trong 15 năm; - Có các loại chương trình đa dạng và phong phú. Theo loại hình nghiên cứu khoa học, có chương trình về nghiên cứu cơ bản, chương trình về nghiên cứu ứng dụng,... Theo lĩnh vực khoa học, có chương trình về khoa học xã hội, chương trình khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ,... Theo đối tượng phục vụ, có chương trình dành cho nhà khoa học, chương trình dành hỗ trợ doanh nghiệp. Theo cấp, có chương trình quốc gia, chương trình cấp bộ ngành... Sự đa dạng của các chương trình còn thể hiện cả ở cách thức quản lý, vận hành. Tại Mỹ, cùng là hỗ trợ doanh nghiệp nhưng Chương trình Nghiên cứu đổi mới ở doanh nghiệp nhỏ (SBIR) và Chương trình Chuyển giao Công nghệ Doanh nghiệp nhỏ (SBTT) có nhiều điểm khác nhau. SBIR được Quốc hội cho phép tiếp tục đến năm 2008. Trong nguồn tài trợ sẽ được lấy từ ngân sách NC&PT của 10 cơ quan của Liên bang có trên 100 triệu USD dành cho NC&PT thực hiện ở bên ngoài tổ chức. Mỗi cơ quan tài trợ kinh phí bằng 2,5% ngân sách NC&PT xuất ra bên ngoài của mình. SBTT được Quốc hội cho phép hoạt động tiếp đến năm 2009. Tài trợ sẽ lấy từ các cơ quan Liên bang có NC&PT ở bên ngoài trên 1 tỷ USD. Phần đóng góp của 102 Một số xu hướng đổi mới quản lý nhiệm vụ KH&CN trên thế giới mỗi cơ quan là 0,15% ngân sách dành cho NC&PT ở bên ngoài của cơ quan và sẽ tăng đến 0,3% vào năm 2004. Mỗi cơ quan quản lý các chương trình SBIR và SBTT của mình. Tài trợ sẽ cấp cho doanh nghiệp nhỏ để nghiên cứu tính khả thi của các phương án sáng tạo và thực hiện nghiên cứu chủ chốt về các sản phẩm và quy trình hỗ trợ cho nhiệm vụ của cơ quan tài trợ. Ví dụ, chương trình SBIR của Bộ Giáo dục chú trọng vào nghiên cứu sáng tạo công nghệ hỗ trợ dạy và học, chương trình SBIR do Viện Y tế Quốc gia (NIH) tài trợ thì trợ giúp nghiên cứu đổi mới liên quan tới y tế, sức khỏe. Tất cả các khoản tài trợ này đều cấp trên cơ sở giá trị và cạnh tranh, thường là trợ giúp cho các nghiên cứu có độ rủi ro cao hoặc không được thị trường tài trợ. Các chương trình SBIR và SBTT không tài trợ cho ứng dụng thương mại của NC&PT. Các chương trình SBIR và SBTT cũng có những sự khác nhau về hai khía cạnh. Thứ nhất, trong chương trình SBIR, người chịu trách nhiệm chính phải làm việc chính liên quan đến các vấn đề về doanh nghiệp nhỏ vào thời điểm tài trợ và trong suốt thời gian của dự án. Trong chương trình SBTT lại không quy định công việc chính. Thứ hai, chương trình SBTT yêu cầu các đối tác nghiên cứu tại trường đại học và các tổ chức nghiên cứu phi lợi nhuận phải có quan hệ hợp tác chính thức với doanh nghiệp nhỏ. Ít nhất 40% dự án SBTT cần được thực hiện bởi doanh nghiệp nhỏ có liên quan và ít nhất 30% công việc do 1 cơ quan nghiên cứu “đối tác” thực hiện; - Các chương trình hàm chứa sự liên kết rộng rãi. Ngoài liên kết giữa viện, trường và doanh nghiệp, còn có liên kết giữa nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng,... Chương trình Hệ gen học của Hà Lan nhằm vào toàn bộ dây chuyền từ nghiên cứu cơ bản đến những ứng dụng. Ở Hungary, Chương trình NC&PT Quốc gia tài trợ để tiến hành đồng bộ nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng với phát triển công nghệ,… Nhiều chương trình nghiên cứu của các nước đã lựa chọn một phổ khá rộng, bao gồm nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Bên cạnh đó, nhiều chương trình kết hợp đồng thời hoạt động nghiên cứu và hoạt động đào tạo. Ví dụ, khoảng 70% khoản ngân sách được yêu cầu cấp cho Chương trình “Sáng kiến Công nghệ Nano Quốc gia” (National Nanotechnology Initiative - NNI) được dùng tài trợ cho các nghiên cứu tại các trường đại học, điều này giúp đáp ứng nhu cầu đang tăng lên về số cán bộ có kỹ năng KH&CN nano. Những đặc điểm trên cho thấy tiềm năng của chương trình với ý nghĩa là công cụ phục vụ quản lý nhiệm vụ KH&CN.
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.