Một số giải pháp thúc đẩy nghiên cứu khoa học cho học sinh - sinh viên trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh

pdf
Số trang Một số giải pháp thúc đẩy nghiên cứu khoa học cho học sinh - sinh viên trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh 6 Cỡ tệp Một số giải pháp thúc đẩy nghiên cứu khoa học cho học sinh - sinh viên trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh 658 KB Lượt tải Một số giải pháp thúc đẩy nghiên cứu khoa học cho học sinh - sinh viên trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh 0 Lượt đọc Một số giải pháp thúc đẩy nghiên cứu khoa học cho học sinh - sinh viên trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh 2
Đánh giá Một số giải pháp thúc đẩy nghiên cứu khoa học cho học sinh - sinh viên trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh
4.1 ( 14 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HCMSỐ 01 THÁNG 10 NĂM 2013 MỘT SỐ GIẢI PHÁP TH C ĐẨY NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CHO HỌC SINH SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH SUGGESTED SOLUTIONS TO IMPROVE SCIENTIFIC RESEARCHES FOR PUPIL AND STUDENT IN HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF FOOD INDUSTRY Phan Xuân Cƣờng – Nguyễn Thị Thu Trang* TÓM TẮT Nghiên cứu khoa học là quá trình nhận thức chân lý khoa học nhằm giúp con ngƣời có khả năng nhận thức và cải tạo thế giới. Đối với một trƣờng đại học thì đào tạo và nghiên cứu khoa học (NCKH) là hai hoạt động có mối quan hệ hữu cơ, trong đó NCKH là một trong những biện pháp để nâng cao chất lƣợng đào tạo. Tham gia NCKH giúp sinh viên trang bị cho mình năng lực sáng tạo, khả năng làm việc độc lập, trau dồi tri thức và các phƣơng pháp nhận thức khoa học. Măc dù vậy, nghiên cứu khoa học từ sinh viên trong các trƣờng đại học nói chung là một chủ đề mang tính tiềm năng nhƣng còn nhiều hạn chế mà cụ thể ở Trƣờng Đại học Công nghiệp Thực phẩm TP. Hồ Chí Minh thì số lƣợng đề tài nghiên cứu của học sinh – sinh viên của nhà trƣờng là một con số rất khiêm tốn nếu không muốn nói là chƣa có nghiên cứu khoa học. Do vậy, việc đề ra những giải pháp để tạo môi trƣờng thuận lợi thúc đẩy sinh viên học tập có chất lƣợng hơn, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên, nhằm tạo điều kiện nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực đáp ứng tốt yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc là việc làm cấp thiết. ABSTRACT Scientific research is a cognitive process of scientific truth that helps people improve knowledge and transform the world. To a university, training and doing scientific research are in mutual relationship, in which scientific research is considered as one of the methods to improve the quality of training. Coming into scientific research, students have an opportunity in improving skills of creativity, individual work, knowledge enrichment, and method of scientific cognitive methods. However, doing scientific research in most universities conducted by students is still in potential with many limitations. HUFI can be taken as a specific example. The number of scientific research done by students in this university is almost in minimum. Thus, suggesting solutions to encourage students study better, actively join in scientific research is a need. This can help improve the quality of labor force in order to meet requirements of modernizing and industrializing the country. 1. Khoa học nghiên cứu khoa học Từ “khoa học” xuất phát từ tiếng Latin “Scienta”, nghĩa là tri thức.Có rất nhiều cách hiểu về “khoa học”: Theo Webter‟s New Collegiste Dictionary, “khoa học” đƣợc định nghĩa là “những tri thức đạt đƣợc qua kinh nghiệm thực tế và nghiên cứu”; theo PGS.TS Dƣơng Văn Tiễn “Khoa học là hệ thống tri thức được hệ thống hóa, khái quát hóa từ thực tiễn kiểm nghiệm. Khoa học phản ánh dưới dạng logic, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những cấu trúc, những mối liên hệ bản chất, những quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy”[7;11]. Những tri thức mới này tốt hơn, có thể thay thế dần những cái cũ, không còn phù hợp. Hệ thống tri thức này hình thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội, bao gồm: tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học. Tri thức kinh nghiệm: là những hiểu biết đƣợc tích lũy qua hoạt động sống hàng ngày trong mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời và giữa con ngƣời với thiên nhiên. Tri thức kinh nghiệm đƣợc con ngƣời không ngừng sử dụng và phát triển trong hoạt động thực tế. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm chƣa thật sự đi sâu vào bản chất, chƣa thấy đƣợc hết các thuộc tính của * Phan Xuân Cƣờng – Nguyễn Thị Thu Trang – Khoa LLCT – Trƣờng ĐH Công nghiệp Thực phẩm Tp.HCM12 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ THỰC PHẨM sự vật và mối quan hệ bên trong giữa sự vật và con ngƣời. Tri thức khoa học: là những hiểu biết đƣợc tích lũy một cách có hệ thống nhờ hoạt động nghiên cứu khoa học(NCKH), các họat động này có mục tiêu xác định và sử dụng phƣơng pháp khoa học. Không giống nhƣ tri thức kinh nghiệm, tri thức khoa học dựa trên kết quả quan sát, thu thập đƣợc qua những thí nghiệm và qua các sự kiện xảy ra ngẫu nhiên trong hoạt động xã hội, trong tự nhiên. Nghiên cứu khoa học là một họat động tìm kiếm, xem xét, điều tra hoặc thử nghiệm. Dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức,… đạt đƣợc từ các thí nghiệm NCKH để phát hiện ra những cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội(đây là hƣớng nghiên cứu hàn lâm) hoặc để sáng tạo phƣơng pháp và phƣơng tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị hơn(đây là hƣớng nghiên cứu ứng dụng). Đặc điểm của nghiên cứu khoa học là: Tính mới (đặc tính quan trọng nhất của NCKH vì NCKH luôn hƣớng tớinhững phát hiện mới hoặc sáng tạo mới);Tính chính xác(đây là thuộc tính cơ bản của sản phẩm khoa học); Tính kế thừa (Bất kỳ một sáng tạo khoa học nào củng có tính kế thừa vàphát tiển kết quả nghiên cứu trƣớc đó); Tính mạo hiểm, phức tạp(đòi hỏi lòng kiên trì dũng cảm của ngƣời nghiêncứu);Tính cá nhân(sáng tạo khoa học gắn liền với bản sắc cá nhân nhƣ kiếnthức, kinh nghiệm, tình cảm, ý chí... của nhà khoa học);Tính kinh tế;Tính thông tin; Tính khách quan. Nhƣ vậy, “nghiên cứu khoa học là quá tr nh nhận thức chân lý khoa học, một hoạt động đặc thù bằng những phương pháp nghiên cứu nhất định để t m kiếm, chỉ ra một cách chính xác và có mục đích những điều mà con người chưa biết đến (hoặc biết chưa đầy đủ), tức là tạo ra sản phẩm PHAN XUÂN CƢỜNG mới dưới dạng tri thức mới, có giá trị mới về nhận thức hoặc phương pháp”[7;22]. Mục đích của nghiên cứu khoa học là nhận thức và cải tạo thế giới.Con ngƣời muốn làm NCKH phải có kiến thức nhất định về lĩnh vực nghiên cứu và cái chính là phải rèn luyện cách làm việc tự lực, có phƣơng pháp từ lúc ngồi trên ghế nhà trƣờng. 2. Vai trò của nghiên cứu khoa học đối với sinh viên trong các trƣờng đại học Đào tạo và nghiên cứu khoa học (NCKH) là hai hoạt động có mối quan hệ hữu cơ, hai nhiệm vụ cơ bản chiến lƣợc của một trƣờng đại học (ĐH), trong đó NCKH – một hình thức giáo dục (GD) ở đại học – là một trong những biện pháp để nâng cao chất lƣợng đào tạo. Các trƣờng đại học với chức năng “là trung tâm nghiên cứu khoa học, công nghệ, chuyển giao và ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống” [2] không chỉ đơn thuần dừng lại ở việc truyền thụ tri thức khoa học cơ bản, khoa học chuyên ngành, rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp cho sinh viên (SV), nhà trƣờng ĐH còn có nhiệm vụ tổ chức NCKH cho SV ở những hình thức và mức độ phù hợp. Nhƣ vậy, trong quá trình học tập của sinh viên thì việc trang bị và hoàn thiện năng lực NCKH bên cạnh những năng lực cơ bản khác là rất quan trọng. NCKH là một hình thức tổ chức dạy học cần thiết ở bậc ĐH, là một hình thức không thể thiếu đối với SV trong quá trình học tập.Việc tham gia NCKH phải là hoạt động đặc trƣng, là phƣơng pháp hiệu quả đối với SV, NCKH không chỉ là phƣơng pháp học tập mà còn là điều kiện, phƣơng tiện hành nghề của mọi SV sau này. Thiếu ý thức và kĩ năng NCKH, SVsẽ không hoàn thành tốt nhiệm học tập cũng nhƣ làm việc trong những môi trƣờng mới. Hơn thế nữa, việc tham gia NCKH giúp cho SV hình thành và bồi dƣỡng những phẩm chất 13 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ THỰC PHẨM cần thiết cho tƣơng lai: đó là tính kiên trì, nhẫn nại, khắc phục khó khăn, tìm tòi sáng tạo, khách quan, chính xác... giúp cho SV có các quyết định kịp thời, các biện pháp xử lý hiệu quả trong những tình huống bất thƣờng. Bên cạnh đó, tham gia NCKH giúp SVtrang bị cho mình năng lực sáng tạo, khả năng làm việc độc lập, trau dồi tri thức và các phƣơng pháp nhận thức khoa học đồng thời hình thành ở SV những phẩm chất của nhà nghiên cứu. Từ đó cho phép hình thành những chuyên gia năng động, tƣ duy sắc bén, có năng lực nghiên cứu và sáng tạo. Nghiên cứu khoa học từ sinh viên trong các trƣờng đại học hiện nay có thể nói là một chủ đề mang tính tiềm năng nhƣng còn nhiều điều hạn chế. Tính tiềm năng ở chỗ SV một lực lƣợng trẻ, đầy nhiệt huyết, dám nghĩ dám làm, có thời gian và một trí sáng tạo không ngừng đƣợc phát triển dƣới mái trƣờng đại học. Vấn đề còn hạn chế ở đây là do SV chƣa nhận thức đƣợc những lợi ích nào từ nghiên cứu khoa học mà SV đạt đƣợc khi phải chi phí bằng những tiềm năng nói trên để lao vào nghiên cứu trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay. Từ vấn đề này chúng ta hãy xem xét những khía cạnh của nó: mục đích nghiên cứu khoa học của SV là gì? Lợi ích của NCKH ra sao? Mục đích nghiên cứu khoa học của HS - SV Mục đích nghiên cứu khoa học của sinh viên dƣới mái trƣờng đại học có nhiều kiểu. Những nƣớc đã phát triển nhƣ Anh, Mỹ, Pháp, Úc . . . thì xem sinh viên đóng vai trò là những trợ lý nghiên cứu (Research Assistance – RA) cho các giảng viên có đề tài nghiên cứu, kinh nghiệm làm RA sẽ làm cho sinh viên có một bề dày kinh nghiệm để có khả năng độc lập PHAN XUÂN CƢỜNG nghiên cứu sau này.Hay để sinh viên nắm vững những tri thức hiện có liên quan đến thực tiễn và lý thuyết môn mình đang học thì có kiểu nghiên cứu trƣờng hợp (case study). Fulbright, một trong những chƣơng trình liên kết, là một chƣơng trình kiểu mẫu thực hiện kiểu nghiên cứu này, trong hầu hết các môn học đều có những case study liên quan đến bài giảng, sinh viên sẽ tuỳ theo chủ đề mà tìm những thông tin cập nhật nhất để giải quyết. Kết quả nghiên cứu sẽ làm cho sinh viên nắm chắc bài giảng và tự tin hơn về những gì trong thực tế mà nhiều khi chính giảng viên cũng cần học hỏi. Các trƣờng đại học Việt Nam cũng có những giải thƣởng nghiên cứu khoa học cấp Bộ, giải thƣởng nhà nghiên cứu trẻ, giải thƣởng Eureka…hằng năm cho sinh viên nhằm khuyến khích đƣợc sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học, tạo ra một phong trào sôi động từ những sinh viên trẻ và từ đó làm cho trƣờng đại học nâng cao đƣợc chất lƣợng đào tạo. Lợi ích từ nghiên cứu khoa học Bằng việc tham gia nghiên cứu khoa học các sinh viên sẽ phát hiện những vấn đề cần phải giải quyết trên cơ sở các mấu chốt, vấn đề nghiên cứu của đề tài.Dù ít hay nhiều, khi sinh viên tham gia nghiên cứu, một mặt chính sinh viên đã tự trang bị cho mình những kiến thức về phƣơng pháp luận, mặt khác đó là những hoài bão có thể giúp ích cho địa phƣơng và đất nƣớc sau này. Học phải đi đôi với hành, phƣơng châm đó đƣợc các trƣờng đại học – cao đẳng chuyên nghiệp quán triệt và thể hiện bằng nhiều chủ trƣơng kết hợp giữa trang bị kiến thức trên lớp và tạo điều kiện cho sinh viên nghiên cứu.Thực tế cho thấy, việc nghiên cứu trong sinh viên không chỉ nâng cao năng lực nghiên cứu mà còn giúp sinh viên lấp đầy dần những lổ hổng kiến thức 14 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ THỰC PHẨM từ các thầy cô hƣớng dẫn. Chính điều này làm cho sinh viên kiên trì hơn trên con đƣờng nghiên cứu còn nhiều khó khăn trở ngại. Và cuối cùng là một số quyền lợi và hình thức khen thƣởng đƣợc quy định r trong điều 17 và điều 19 trong quy định“Về hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viêntrong các cơ sở giáo dục đại học”(Ban hành kèm theo Thông tư số 19/ 2012/ TT-BGDĐTngày 01 tháng 6 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) và đƣợc cụ thể hóa bởi từng trƣờng: “Công bố kết quả nghiên cứu trên các kỷ yếu, tập san, tạp chí, thông báo khoa học của trường đại học và các phương tiện thông tin khác; Được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các kết quả nghiên cứu và công bố khoa học do sinh viên thực hiện theo quy định hiện hành; Được ưu tiên xét cấp học bổng; xét các danh hiệu thi đua và h nh thức khen thưởng nếu có thành tích nghiên cứu khoa học xuất sắc.”[1;7,8] Tóm lại, mục đích hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên là: “Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực tr nh độ cao, góp phần phát hiện và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Phát huy tính năng động, sáng tạo, khả năng nghiên cứu khoa học độc lập của sinh viên, h nh thành năng lực tự học cho sinh viên. Góp phần tạo ra tri thức, sản phẩm mới cho xã hội.”[1;1] Nhƣ vậy, việc NCKH trong sinh viên có hai lợi ích to lớn: Một là lợi ích của chính các sinh viên thực hiện về tinh thần, kiến thức và vật chất; góp phần vào việc đề xuất, hoạch định chủ trƣơng chính sách phát triển của nƣớc nhà. Hai là, kết quả nghiên cứu không chỉ ghi nhận sự trƣởng thành của đội ngũ nghiên cứu mà còn nâng cao vai trò, vị trí sinh viên trong nhà trƣờng và xã hội, là điểm ngắm của các tổ chức kinh tế-xã hội nhằm tạo nguôn nhân PHAN XUÂN CƢỜNG lực cho mình qua những học bổng hỗ trợ. Đó cũng là một trong những nhân tố thúc đẩy sinh viên tích cực nghiên cứu khoa học. 3. Thực trạng nghiên cứu khoa học của Học sinh - Sinh viên trƣờng đại học công nghiệp thực phẩm tp Hồ chí Minh Sau hơn 30 năm thành lập, đến nay Trƣờng Đại học Công nghiệp Thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh là một trƣờng trọng điểm về đào tạo cán bộ kỹ thuật, công nhân kỹ thuật các ngành công nghệ (trong đó chú trọng công nghệ chế biến nông sản thực phẩm) cho khu vực phía Nam. Trƣờng có 13 khoa đào tạo với 20 chuyên ngành đào tạo theo hƣớng công nghệ, kế toán, quản trị kinh doanh, thƣơng mại và du lịch; hiện có hơn 365 giảng viên và khoảng 25.000 học sinh- sinh viên Tuy nhiên, số lƣợng đề tài nghiên cứu của học sinh – sinh viên của nhà trƣờng là một con số rất khiêm tốn nếu không muốn nói là chƣa có nghiên cứu khoa học. Trong năm 2013, chính sách chất lƣợng của trƣờng là hƣớng đến: Đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao về chuyên môn, tin học, ngoại ngữ, các kỹ năng tác nghiệp, tƣ duy, giao tiếp, làm việc theo nhóm trong nền kinh tế trí thức vì lợi ích của cộng đồng và xã hội; Tiếp cận các dịch vụ giáo dục khu vực và thế giới, đào tạo theo hệ thống tín chỉ, cải tiến liên tục chƣơng trình, phƣơng pháp dạy - học và cách quản lý của Trƣờng. Về lâu dài, sứ mạng của trƣờng đến 2015 là xây dựng môi trƣờng văn hoá, thân thiện, nhân văn trong nền kinh tế trí thức.Áp dụng công nghệ tiến tiến trong dạy - học, tạo cơ hội để ngƣời học tự học suốt đời.Cung ứng các dịch vụ giáo dục đáp ứng ngày càng cao yêu cầu chất lƣợng nguồn nhân lực của xã hội. Tầm nhìn 2020, trƣờng Đại học Công nghiệp Thực phẩm TP.HCM phấn đấu trở thành cơ sở 15 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ THỰC PHẨM đào tạo tiên tiến, hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, trở thành trung tâm nghiên cứu khoa học, kỹ thuật công nghệ phục vụ các yêu cầu phát triển của Việt nam và khu vực. Để làm đƣợc tất cả những việc ở trên thì vấn đề NCKH trong đội ngũ giảng viên cũng nhƣ học sinh - sinh viên sẽ là một động lực, điểm mấu chốt giúp nhà trƣờng đạt đƣợc mục tiêu trên. Tuy nhiên thực tế hiện nay cho chúng ta thấy việc NCKH từ SV nhà trƣờng gần nhƣ là không có.SV trƣờng đại học Công nghiệp Thực phẩm chƣa có một công trình NCKH thực sự, hiện SV của trƣờng đang đƣợc hƣớng dẫn những bƣớc ban đầu làm quen với NCKH bằng những bài tập lớn ở từng môn học hay là khoá luận cuối khóa. Về lí thuyết thì vấn đề NCKH trong SV đã đƣợc đặt ra, song trên thực tế việc hình thành và phát triển yếu tố nội lực từ chính ngƣời học để thúc đẩyquá trình học tập - nghiên cứu khoa học trong trƣờng lại chƣa triển khai đƣợc trong thực tế. Từ thực tế trên, đặt ra cho nhà trƣờng yêu cầu cấp bách là cần tạo môi trƣờng thuận lợi thúc đẩy sinhviên học tập có chất lƣợng hơn, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học của sinhviên, tạo ra một thế hệ mới có năng lực sáng tạo, tƣ duy linh hoạt, biết thích ứng với sựthay đổi và có đƣợc phẩm chất nhân cách của ngƣời nghiên cứu khoa học. 4. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy NCKH đối với Học sinh – Sinh viên Thứ nhất, nâng cao nhận thức về vai trò và tác dụng của NCKH đối với SV: thông qua công tác tuyên truyền, thông tin, thông báo thƣờng xuyên trên các bản tin của nhà trƣờng, các diễn đàn, hội nghị NCKH SV ... làm cho SV thấy đƣợc tầm quan trọng của NCKH đối với việc nâng cao trình độ PHAN XUÂN CƢỜNG chuyên môn và phát triển, hoàn thiện năng lực tƣ duy cho ngƣời học. Thứ hai, các khoa đào tạo của nhà trƣờng phải định kỳ hàng tháng tổ chức bồi dƣỡng phƣơng pháp NCKH cho SV: trang bị phƣơng pháp NCKH (phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể) cho SV ngay từ năm thứ nhất một cách có hệ thống và xuyên suốt quá trình SV học tập ở ĐH. Hiểu và vận dụng thành thạo phƣơng pháp NCKH sẽ giúp SV chủ động, tự tin, mạnh dạn tham gia NCKH với các hình thức và mức độ phù hợp, nâng cao chất lƣợng công trình NCKH của SV. Thứ ba, Nhà trƣờng có cơ chế khuyến khích đổi mới phƣơng pháp giảng dạy với tiêu chí “lấy ngƣời học làm trung tâm”: giảng viên cần tích cực sử dụng các phần mềm, phƣơng tiện dạy học tiên tiến cùng việc tăng cƣờng các bài tập thực hành trong giờ học nhằm tạo điều kiện cho SV phát triển khả năng tƣ duy độc lập cũng nhƣ dần hình thành các kĩ năng tự học, tự nghiên cứu. Tăng cƣờng tổ chức các hoạt động nghiên cứu thực tế chuyên môn trong quá trình đào tạo nhằm tránh quan niệm quá coi trọng tính chất hàn lâm, lí thuyết trong chƣơng trình dào tạo, ít quan tâm đến các vấn đề thực tiễn - vốn là điểm yếu của giáo dục đại học Việt Nam Thứ tƣ, Đoàn thanh niên cần tổ chức và thành lập các câu lạc bộ học thƣật (câu lạc bộ Anh văn, tin học, tri thức trẻ…) nhằm xây dựng kế hoạch NCKH toàn khoá cho SV: quy định các hình thức nghiên cứu đối với SV trong toàn khoá học thông qua việc thực hiện các bài tập hỗ trợ nghiên cứu từ đơn giản đến phức tạp (năm 1, 2 cần áp dụng các hình thức tiểu luận, niên luận. Từ năm thứ 3 trở đi, tăng cƣờng các hình thức nghiên cứu độc lập...), liên tục từ năm thứ nhất đến năm cuối dƣới sự hƣớng dẫn, tổ chức và kiểm soát của giảng viên sẽ dần 16 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ THỰC PHẨM hình thành ở SV phƣơng pháp tự học, tự nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học. Thứ năm, nhà trƣờng cần hỗ trợ một phần kinh phí cho Học sinh –Sinh viên nghiên cứu khoa học cấp trƣờng và cấp Thành đoàn. Thứ sáu, khen thƣởng kịp thời đối với SV tham gia NCKH: cần có chế độ khen thƣởng kịp thời đối với SV tham gia, đặc biệt là các SV đạt thành tích, cụ thể nhƣ: tặng giấy khen, tiền thƣởng, cộng điểm thƣởng vào điểm trung bình chung học tập của năm học, ƣu tiên giữ lại trƣờng những SV có thành tích cao trong NCKH cũng nhƣ chuyển tiếp ở các bậc học cao hơn. Kết luận NCKH là bản chất của đào tạo đại học. Bằng nhiều hình thức khác nhau, NCKH sẽ tạo ra những bƣớc đi ban đầu để SV tiếp cận với những vấn đề của thực tế cuộc sống cần phải đƣợc lí giải, thông qua đó, rèn luyện khả năng tƣ duy sáng tạo, từng bƣớc trau dồi phƣơng pháp luận NCKH, biết sử dụng hệ thống lý thuyết, phƣơng pháp nghiên cứu thích hợp để xem xét và giải quyết vấn đề có căn cứ khoa học. Vì vậy, để SV tự tin, chủ động, nhiệt tình tham gia NCKH, việc tăng cƣờng bồi dƣỡng năng lực NCKH đối với SV là yêu cầu có tính chất khách quan trong công tác đào tạo của các trƣờng đại học và cao đẳng nói chung và trƣờng đại học Công nghiệp Thực phẩm TP Hồ Chí Minh nói riêng.Đây cũng là cơ sở cần thiết để tiến hành đổi mới nội dung, phƣơng pháp giảng dạy, góp phần nâng cao chất lƣợng đào tạo.Nghiên cứu khoa học là một công việc không dễ dàng. Nhƣng với kiến thức sâu sắc và niềm đam mê cộng với một môi trƣờng học tập và nghiên cứu thuận lợi, chúng ta hoàn toàn tin tƣởng rằng nghiên cứu khoa học trong sinh viên trƣờng đại học Công nghiệp Thực phẩm TP Hồ Chí Minh sẽ gặt PHAN XUÂN CƢỜNG hái những kết quả tốt đẹp trong những năm tới đây. TÀI LIỆU TH M KHẢO [1] Bộ Giáo dục và Đào tạo 19-2012TT,(1-6- 2012), Quy định về hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trong các cơ sở giáo dục đại học, Hà Nội. [2] Đảng Cộng sản Việt Nam, (1996), Nghị quyết ội nghị lần thứ II Ban chấp hành TW khoá VIII. [3] Vũ Cao Đàm, (2000), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. [4] GS. Nguyễn Văn Lê, (2002), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Trẻ, Hà Nội. [5] Lƣu Xuân Mới, (2000), Lý luận dạy học đại học, NXB Giáo dục, Hà Nội. [6] TS. Phƣơng Kỳ Sơn, (2002), Phương pháp nghiên cứu khoa học, NXB Giáo dục, Hà Nội. [7] PGS.TS Dƣơng Văn Tiễn, (2006), Giáo tr nh Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Xây dựng, Hà Nội. 17
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.