Một số điểm mới về thủ tục rút gọn theo bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 và một số kiến nghị

pdf
Số trang Một số điểm mới về thủ tục rút gọn theo bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 và một số kiến nghị 3 Cỡ tệp Một số điểm mới về thủ tục rút gọn theo bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 và một số kiến nghị 104 KB Lượt tải Một số điểm mới về thủ tục rút gọn theo bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 và một số kiến nghị 0 Lượt đọc Một số điểm mới về thủ tục rút gọn theo bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 và một số kiến nghị 8
Đánh giá Một số điểm mới về thủ tục rút gọn theo bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 và một số kiến nghị
5 ( 22 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Soá 6/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai MỘT SỐ ĐIỂM MỚI VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ Phạm Minh Chiêu1 Tóm tắt: Thủ tục rút gọn trong việc giải quyết vụ án hình sự là thủ tục tố tụng hình sự do pháp luật tố tụng hình sự quy định được áp dụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với một số tội phạm theo hướng rút ngắn thời hạn giải quyết vụ án bằng cách đơn giản hóa thủ tục tố tụng. Bài viết tác giả đề cập một số điểm mới về thủ tục rút gọn theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và một số kiến nghị nhằm trao đổi cùng bạn đọc Từ khóa: Thủ tục tố tụng; thủ tục rút gọn; cải cách tư pháp; biện pháp tư pháp. Nhận bài: 08/9/2017; Ngày hoàn thành biên tập: 27/9/2017; Ngày duyệt đăng: 28/11/2017 Abstract: Summary procedure in solving criminal case is criminal procedure rule regulated by the criminal procedure law and it is applied in process of investigation, prosecution, adjudication for some crimes under the way of shortening the time of solving case by simplifying procedure rule. The article mentions some new points on the summary procedure under the Criminal procedure Code 2015 and some recommendations. Keywords: procedural rule; summary procedure;legal reform;judicial measure. Date of receipt: 08/9/2017; Date of revision: 27/9/2017; Date of approval: 28/11/2017 Việc quy định thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng hình sự nhằm thể chế hóa các chủ trương, đường lối, quan điểm về cải cách tư pháp đã được xác định trong các nghị quyết, văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và tạo cơ sở pháp lý cho việc điều tra, truy tố, xét xử nhanh một số loại tội phạm. Bởi lẽ, việc áp dụng thủ tục chung đối với việc giải quyết những vụ án hình sự về các tội phạm ít nghiêm trọng, chứng cứ rõ ràng sẽ làm hạn chế hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Đồng thời gây ảnh hưởng tới quyền con người của người phạm tội do phải chịu tác động tiêu cực của các thủ tục tố tụng hình sự như có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp tư pháp, biện pháp cưỡng chế tố tụng khác, kéo dài thời hạn được xóa án tích. Đối với pháp nhân thương mại phạm tội, thì việc kéo dài thời hạn giải quyết vụ án hình sự do họ thực hiện còn có thể dẫn tới mất thời cơ sản xuất, kinh doanh từ đó dẫn tới hệ quả xấu cho người lao động. Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 đã góp phần hạn chế khắc phục những bất cập 1 trong quy định của BLTTHS năm 1988, tuy nhiên trong quá trình áp dụng đã gặp không ít khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác điều tra, truy tố xét xử, chính vì lẽ đó sau 12 năm BLTTHS năm 2015 ra đời, với những thay đổi rất lớn. Trong bài viết này chúng tôi đề cập về một số điểm mới của thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự. Thứ nhất, về số lượng điều luật trong chương về thủ tục rút gọn, thủ tục rút gọn là một trong các thủ tục đặc biệt được BLTTHS năm 2015 quy định, nếu như BLTTHS năm 2003 có 7 điểu (từ điều 318324) thì BLTTHS năm 2015 có đến 11 điều (từ điều 455-465). Thứ hai, về cơ quan có thẩm quyền áp dụng thủ tục rút gọn, nếu như BLTTHS năm 2003 chỉ có duy nhất chủ thể là Viện kiểm sát có thẩm quyền áp dụng và hủy bỏ thủ tục thì BLTTHS năm 2015 đã mở rộng thẩm quyền áp dụng, hủy bỏ thủ tục rút gọn cho cả 3 chủ thể: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Điểm mới đáng chú ý là BLTTHS năm 2015 đã quy định theo hướng bắt buộc các chủ thể có thẩm quyền là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn khi vụ án có đủ điều kiện luật định, mà không quy định có tính chất tùy nghi như quy định của BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên có Tiến sỹ, Học viện cảnh sát nhân dân 63 HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP sự giám sát chặt chẽ trong quá trình áp áp dụng thủ tục rút gọn đó là đối với quyết định áp dụng thủ tục rút gọn của Cơ quan điều tra, Tòa án được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định để kiểm sát việc áp dụng thủ tục rút gọn có đúng pháp luật hay không. Trong trường hợp xét thấy quyết định áp dụng thủ tục rút gọn của Cơ quan điều tra không đúng pháp luật, thì trong thời hạn 24 giờ Viện kiểm sát phải ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và gửi cho Cơ quan điều tra biết. Còn đối với quyết định áp dụng thủ tục rút gọn của Tòa án trong trường hợp không đúng pháp luật thì Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đã ra quyết định; Chánh án Tòa án phải xem xét, trả lời trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được kiến nghị của Viện kiểm sát. Quy định mới này đã khắc phục được tình trạng không chủ động và không đề cao được trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Tòa án trong việc giải quyết vụ án hình sự theo thủ tục rút gọn và tránh được sự vòng vo trong trình tự giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn: Cơ quan điều tra phải đề nghị để Viện kiểm sát ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn hoặc Tòa án phải trả lại hồ sơ để Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục này Thứ ba, về phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn, BLTHS 2003 chỉ quy định áp dụng từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm thì BLTTHS 2015 phạm vi được rộng hơn, bổ sung áp dụng thủ tục rút gọn trong cả giai đoạn xét xử phúc thẩm (Điều 455). Đặc biệt trong quá trình áp dụng thủ tục rút gọn, nếu một trong các điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn không còn hoặc vụ án thuộc trường hợp đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ điều tra hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dung thủ tục rút gọn (Điều 458). Thứ tư, về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn: điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn được mở rộng thêm trong giai đoạn xét xử phúc thẩm. Điều 319 BLTTHS năm 2003 quy định về 4 điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn, bao gồm: (1) Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang; (2) sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; (3) tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; (4) Người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng 64 Như vậy, thủ tục rút gọn quy định bắt buộc chỉ được áp dụng khi có đủ 4 điều kiện trên, thiếu một trong bốn điều kiện thì thủ tục rút gọn không được đặt ra. Thực tế áp dụng quy định này cho thấy, nhận thức của những người tiến hành tố tụng về điều kiện “người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng” là chưa thống nhất. Để khắc phục vướng mắc trên, Điều 456 BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi thay cụm từ “có căn cước, lai lịch rõ ràng” bằng cụm từ “có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng”. Đồng thời điều kiện thứ nhất bổ sung thêm trường hợp người đó tự thú. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định mở rộng hơn điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn, bổ sung thêm trường hợp người phạm tội tự thú về hành vi phạm tội của mình, đồng thời đáp ứng đủ 3 điều kiện còn lại quy định tại khoản 1 Điều 456. Do phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn được mở rộng đối với cả xét xử phúc thẩm, nên BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định mới các điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn xét xử phúc thẩm (khoản 2 Điều 456). Theo đó, thủ tục rút gọn được áp dụng trong xét xử phúc thẩm khi có một trong các điều kiện: (a) Vụ án đã được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo; (b) Vụ án chưa được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm nhưng có đủ 4 điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 456 BLTTHS năm 2015 và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo Thứ năm, về thời hạn điều tra Nhằm khắc phục những vướng mắc do thời hạn điều tra theo thủ tục rút gọn được quy định trong BLTTHS năm 2003 là quá ngắn (12 ngày) kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án; BLTTHS năm 2015 đã quy định kéo dài thời hạn này lên 20 ngày để đảm bảo thực hiện đầy đủ các thủ tục theo quy định Về những công việc cần làm sau khi kết thúc điều tra, BLTTHS năm 2003 mới chỉ quy định chung chung là, Cơ quan điều tra không phải làm bản kết luận điều tra mà ra quyết định đề nghị truy tố và gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát. Đến BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể hơn những nội dung cần có trong quyết định đề nghị truy tố. Theo đó, quyết định đề nghị truy tố ghi tóm tắt Soá 6/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai hành vi phạm tội, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và xử lý vật chứng; đặc điểm nhân thân của bị can, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; lý do và căn cứ đề nghị truy tố; tội danh, điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự được áp dụng; ghi rõ thời gian, địa điểm, họ tên và chữ ký của người ra quyết định. Thứ sáu, về thời hạn tạm giữ, tạm giam BLTTHS năm 2003 quy định thời hạn tạm giam để điều tra, truy tố, xét xử không được quá 16 ngày (Điều 322); thời hạn tạm giữ duy nhất chỉ có 3 ngày nhưng không có gia hạn tạm giữ như thủ tục chung, thời hạn điều tra là 12 ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án. Việc BLTTHS 2003 quy định thời hạn tạm giam, điều tra quá ngắn trong khi trình tự, thủ tục để giải quyết vụ án vẫn giống như thủ tục chung, không được giản lược, kể cả các thủ tục về hành chính tư pháp, điều này đã gây tâm lý “sợ” làm án theo thủ tục rút gọn của Điều tra viên.. Do đó, BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi theo hướng kéo dài thời hạn tạm giam tối đa để điều tra, truy tố, xét xử đến 64 ngày; trong đó thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra tối đa là 20 ngày, trong giai đoạn truy tố tối đa là 5 ngày, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm tối đa là 17 ngày, trong giai đoạn xét xử phúc thẩm là 22 ngày Thứ bảy, về truy tố BLTTHS năm 2003 quy định thời hạn truy tố của Viện kiểm sát là 04 ngày, đến BLTTHS năm 2015 đã quy định thời hạn này là 05 ngày, tăng 01 ngày. Đồng thời, BLTTHS năm 2015 cũng quy định cụ thể về nội dung của quyết định truy tố; theo đó, quyết định truy tố sẽ tóm tắt hành vi phạm tội, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hai do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và việc xử lý vật chứng; đặc điểm nhân thân của bị can, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nêu rõ lý do và căn cứ truy tố; tội danh, điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự được áp dụng Thứ tám, về xét xử sơ thẩm Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì trình tự, thủ tục xét xử không được giản lược so với thủ tục tố tụng chung; Hội đồng xét xử vẫn gồm 01 Thẩm phán và 02 Hội thẩm, gây lãng phí về nhân lực, vật lực đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Do vậy, BLTTHS năm 2015 đã quy định phiên tòa xét xử sơ thẩm do 01 Thẩm phán tiến hành (Điều 463) Nhằm giảm bớt áp lực cho Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; đồng thời tạo thời gian hợp lý để bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình; BLTTHS năm 2015 đã quy định thời hạn xét xử sơ thẩm là 17 ngày, tăng 03 ngày so với quy định của BLTTHS năm 2003 (14 ngày) trong tổng thời hạn xét xử sơ thẩm 17 ngày, thì BLTTHS năm 2015 đã tăng thời hạn chuẩn bị xét xử từ 07 ngày lên 10 ngày; còn thời hạn từ lúc Thẩm phán có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến lúc mở phiên tòa vẫn giữ nguyên là 07 ngày như quy định của BLTTHS năm 2003. Việc tăng thời hạn trong giai đoạn này sẽ hạn chế được số án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung Các trình tự, thủ tục khác tại phiên tòa sơ thẩm được thực hiện theo thủ tục chung quy định trong BLTTHS năm 2015, nhưng có điểm đáng chú ý là không có thủ tục nghị án, vì phiên tòa xét xử sơ thẩm do 01 Thẩm phán tiến hành Thứ chín, về xét xử phúc thẩm Do phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn được mở rộng cả đối với xét xử phúc thẩm, nên BLTTHS năm 2015 đã bổ sung 02 điều luật mới (Điều 464 chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Điều 465 phiên tòa xét xử phúc thẩm) Tại khoản 2 Điều 464 quy định, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân công xét xử ban hành một trong các quyết định: Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm; đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án. Đồng thời, khoản 3 Điều luật này quy định, trong trường hợp Thẩm phán ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, thì trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày ra quyết định, Tòa án phải mở phiên tòa xét xử vụ án. Quy định trên cho thấy, thời hạn xét xử phúc phẩm theo thủ tục rút gọn là 22 ngày. Như vậy, so với thời hạn xét xử phúc thẩm của Tòa án cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu theo thủ tục chung (105 ngày) đã giảm đi rất nhiều để vụ án được giải quyết một cách nhanh nhất. (Xem tiếp trang 71) 65
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.