Luận văn thạc sĩ luật học: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam

docx
Số trang Luận văn thạc sĩ luật học: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam 222 Cỡ tệp Luận văn thạc sĩ luật học: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam 508 KB Lượt tải Luận văn thạc sĩ luật học: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam 0 Lượt đọc Luận văn thạc sĩ luật học: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam 10
Đánh giá Luận văn thạc sĩ luật học: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam
4.1 ( 4 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Lê Thẩm Du CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG LUẬT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT 1 NGUYỄN TIẾN HOÀN CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG LUẬT Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Tiến Việt HÀ NỘI - 2013 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Lê Thẩm Du MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA Lời cam đoan MỤC LỤC Danh mục các bảng 1 MỞ ĐẦU Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC NGUYÊN TẮC XỬ 9 LÝ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 1.1. Khái niệm, những cơ sở và ý nghĩa của việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam 9 1.1.1. Khái niệm các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam 10 1.1.2. Những cơ sở của việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam 15 1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam 19 1.2. 21 Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 21 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 26 1.3. 32 Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật quốc tế và pháp luật hình sự một số nước 1.3.1. Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong 32 pháp luật quốc tế 1.3.2. Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới 41 Chương 2: NỘI DUNG CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ NGƢỜI CHƢA 47 THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH 2.1. Nội dung các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm 47 tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành 2.2. Thực tiễn thi hành các nguyên tắc xử lý người chưa thành 63 niên phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành 2.2.1. Đánh giá thực trạng thi hành các nguyên tắc xử lý người chưa 63 thành niên phạm tội 2.2.2. Những tồn tại trong thực tiễn thi hành và vướng mắc trong lập pháp hình sự liên quan đến việc áp dụng các nguyên tắc xử lý 72 người chưa thành niên phạm tội Chương 3: hoàn thiện pháp luật và những giải pháp bảo đảm thi hành 78 các nguyên tắc xử lý ngƣời chƣa thành niên phạm tội trong bộ luật hình sự việt nam hiện hành 3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về các nguyên tắc 78 xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành 3.2. Hoàn thiện về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành 82 3.2.1. Nhận xét chung 82 3.2.2. Sửa đổi bổ sung các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên 88 phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành 3.3. Những giải pháp bảo đảm thi hành các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành 89 3.3.1. Xây dựng đội ngũ thẩm phán chuyên trách giải quyết án người chưa thành niên phạm tội và nghiên cứu thành lập Tòa án gia đình và người chưa thành niên 90 3.3.2. Tăng cường xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên phạm tội sang áp dụng biện pháp xử lý không chính thức 97 3.3.3. Tăng cường các biện pháp tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên phạm tội 101 kết luận 106 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 109 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang 1.1 So sánh độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một số nước 17 1.2 Sự hình thành và phát triển nhân cách con người 18 2.1 Tương quan giữa tổng số vụ án đã xét xử trên toàn quốc 64 bảng và tổng số vụ án có bị cáo là người chưa thành niên đã xét xử trên toàn quốc giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2012 2.2 Tương quan giữa tổng số bị cáo đã xét xử trên toàn quốc 65 với tổng số bị cáo là người chưa thành niên đã xét xử trên toàn quốc giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2012 2.3 Tương quan giữa tổng số bị cáo là người chưa thành niên 66 đã xét xử trên toàn quốc với tổng số người chưa thành niên được miễn trách nhiệm hình sự từ năm 2007 đến năm 2012 2.4 Các vụ án hình sự có bị cáo là người chưa thành niên và 67 kết quả giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội từ năm 2007 đến năm 2012 2.5 Các vụ án hình sự sơ thẩm có bị cáo là người chưa thành niên và việc áp dụng biện pháp tư pháp của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội từ năm 2007 đến năm 2012 74 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trước đây và hiện nay công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở nước ta luôn được coi là sự nghiệp lớn của đất nước và dân tộc, được đúc kết bởi tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục: Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người. Tiếp thu tư tưởng trên của Người, Đảng và Nhà nước ta khẳng định: "Chính sách chăm sóc, bảo vệ trẻ em tập trung vào thực hiện quyền trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn và lành mạnh, phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức" [16], và trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta cũng khẳng định lại: "Chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao động và học tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ em" [22]. Cho nên, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ em là một lĩnh vực chính sách đặc biệt - đều coi trẻ em - người chưa thành niên là đối tượng bảo vệ, chăm sóc và quan tâm đặc biệt. Với quan điểm nhất quán trong việc bảo vệ trẻ em, ngay từ khi Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua, Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới và là nước đầu tiên của Châu Á tham gia. Trên cơ sở đó, Nhà nước ta đã thúc đẩy hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền trẻ em, trong đó đã dành sự quan tâm đặc biệt cho đối tượng trẻ em vi phạm pháp luật, nhất là những trường hợp người chưa thành niên phạm tội. Xuất phát từ chính sách hình sự được ghi nhận trong Công ước về quyền trẻ em năm 1989 là: "Trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ cần được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt, kể cả bảo vệ thích hợp về mặt pháp lí trước cũng như sau khi ra đời" [33]. Bộ luật hình sự hiện hành đã xây dựng một chương riêng quy định đường lối xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội. Quy định này dựa trên cơ sở phân tích về tâm, sinh lý đối với người chưa thành niên. Đây là đối tượng chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như tâm, sinh lý, họ bị hạn chế về trình độ nhận thức cũng như về kinh nghiệm sống, thiếu những điều kiện về bản lĩnh, tự lập, khả năng tự kìm chế chưa cao nên họ dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm. Do đó, pháp luật hình sự Việt Nam đã đặt ra những nguyên tắc riêng khi xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên, đó là những nguyên tắc cơ bản có tính chất chỉ đạo, xuyên suốt trong quá trình khi xử lý người chưa thành niên phạm tội cũng như phân loại mức độ phải chịu trách nhiệm hình sự của từng lứa tuổi. Theo đó, người chưa thành niên ngay cả khi trở thành chủ thể của tội phạm thì việc bảo vệ các quyền và lợi ích của họ cũng được tôn trọng và đặt lên hàng đầu, lấy mục đích xử lý giáo dục, phòng ngừa là chính, làm sao để các em có thể quay lại trở thành công dân có ích. Tuy nhiên, trước tình trạng chung hiện nay, tội phạm có xu hướng trẻ hóa, tội phạm do người chưa thành niên ngày càng diễn biến phức tạp và gia tăng, chiếm 15-18%. Hàng năm các cơ quan thi hành pháp luật bắt giữ, truy tố hơn 115 nghìn người, trong đó có 16 - 18 nghìn trẻ vị thành niên [10]. Bên cạnh đó, một số quy định về nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội còn chưa cụ thể dẫn đến việc áp dụng các nguyên tắc này của các cơ quan tiến hành tố tụng còn chưa thống nhất và triệt để như việc áp dụng miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, tình trạng áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên còn phổ biến. Chỉ tính riêng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong năm 2012, Tòa án nhân dân các cấp đã tuyên phạt 286 bị cáo là người chưa thành niên hình phạt tù có thời hạn (trong đó có 220 trường hợp cho hưởng án treo)... (bảng 2.4 - trang 56). Do đó, nhằm bảo đảm thực hiện triệt để các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội, thời gian qua, trên sách báo pháp lý và các công trình nghiên cứu đã viết nhiều về người chưa thành niên phạm tội, ở việc phân tích tình hình tội phạm do người chưa thành niên phạm tội và những giải pháp đấu tranh, phòng ngừa hoặc ở các khía cạnh khác như trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội; các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội… mà chưa có một công trình nào đi sâu vào nghiên cứu riêng biệt, độc lập và dưới góc độ pháp lý hình sự chuyên đề về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam. Bên cạnh đó, ngày 19/6/2009, Quốc hội đã sửa đổi một số nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 1999. Theo đó, Điều 69 Bộ luật hình sự được sửa đổi, bổ sung thêm nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội đã được ghi nhận trong Công ước về quyền trẻ em và các chuẩn mực quốc tế khác, đó là biện pháp giam giữ chỉ được áp dụng cuối cùng khi không còn biện pháp thích hợp nào khác và trong thời hạn ngắn nhất. Cụ thể, khoản 5 Điều 69 được bổ sung thêm nguyên tắc chỉ đạo: "Khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cần hạn chế áp dụng hình phạt tù" [58], để mở ra khả năng cho người chưa thành niên phạm tội sớm tự cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho gia đình và cộng đồng. Vì những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài "Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam" để làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thời gian qua, ở các mức độ khác nhau đã có một số công trình khoa học đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài này hoặc xem xét nó trong tương quan là một phần, mục trong các giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận hoặc đề cập chung khi nghiên cứu vấn đề trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm hay vấn đề quyết định hình phạt hay dưới góc độ tội phạm học - phòng ngừa tội phạm do đối tượng đặc thù này thực hiện… Trước hết, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau: 1) PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, "Chương XVIII - Những đặc thù về trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội", Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2001, tái bản năm 2003, 2007 (Tập thể tác giả do GS. TSKH. Lê Cảm chủ biên); 2) TS. Hoàng Văn Hùng, "Chương XVI - Trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội", Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000 (tập thể tác giả do GS. TS Nguyễn Ngọc Hòa chỉ biên); 3) PGS. TS Trần Đình Nhã, "Chương XXIV - Trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội", Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2003 (tập thể tác giả do GS. TS Võ Khánh Vinh chủ biên); 4) GS. TS Nguyễn Xuân Yêm, "Chương 27 - Phòng ngừa các tội phạm do người chưa thành niên gây ra", Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; 5) ThS. Trịnh Đình Thể, Áp dụng chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006; 6) TS. Vũ Đức Khiển, Bùi Hữu Hùng, Phạm Xuân Chiến, Đỗ Văn Hán, Trần Phàn, Phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội, Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1987; 7) ThS. Trần Đức Châm, Thanh, thiếu niên làm trái pháp luật - Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; v.v… Bên cạnh đó, dưới góc độ khoa học cho thấy mới có một số công trình ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nhưng dưới khía cạnh pháp lý hình sự hoặc tội phạm học hay xem xét nội dung vấn đề trong tương quan với nhiều nội dung khác như quyết định hình phạt, trách nhiệm hình sự người chưa thành niên: 1) Đào Thị Nga, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, 1997; 2) Trần Văn Dũng, Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003; 3) Nguyễn Minh Khuê, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007; 4) Lưu Ngọc Cảnh, Các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010; v.v… Còn về các công trình dưới dạng bài viết đăng trên tạp chí khoa học pháp lý có thể kể đến các công trình sau: 1) GS. TSKH Lê Cảm, TS. Đỗ Thị Phượng, Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên: Những khía cạnh pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh luật học, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20-10/2004; 2) TS. Trần Văn Dũng, Quyết định hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Luật học, số 5/2000; 3) TS. Dương Tuyết Miên, Quyết định hình phạt đối với đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Luật học, số 4/2002; 4) TS. Trương Minh Mạnh, Phân loại tội phạm với việc quy định trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên, Tạp chí Kiểm sát, số 8/2002; 5) TS. Trịnh Tiến Việt, Những khía cạnh pháp lý hình sự về hình phạt và biện pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 13 (6), 14 (7)/2010; v.v… Tuy nhiên, hiện nay trong khoa học luật hình sự Việt Nam vẫn chưa có công trình nào đề cập một cách tương đối có hệ thống, đồng bộ và toàn diện về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội và đặc biệt là ở cấp độ một luận văn thạc sĩ đúng như tên gọi của đề tài - Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam. Do đó, với tư cách là một cán bộ ngành Kiểm sát - Cơ quan bảo vệ pháp luật, việc lựa chọn đề tài này góp phần làm sáng tỏ các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội, đồng thời đưa ra những kiến nghị khả thi, tiến tới xây dựng một hệ thống chính sách pháp luật và giải pháp nhất quán trong pháp luật và nhận thức về tội phạm người chưa thành niên, về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên, qua đó nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội. 3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về những vấn đề pháp lý cơ bản về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội như sau: 1) Khái niệm các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội; 2) Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi có Bộ luật hình sự năm 1999; 3) Nghiên cứu, phân tích một số quy định về nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội và các lý luận về hình sự trong pháp luật quốc tế và pháp luật hình sự một số nước trên thế giới; 4) Phân tích quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội; 5) Phân tích, đánh giá tình hình thi hành các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2012 và rút ra những tồn tại, hạn chế; 6) Đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam, cũng như các giải pháp bảo đảm thi hành các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam. 4. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về pháp luật nói chung, chính sách hình sự nói riêng, đặc biệt là các quan điểm, tư tưởng về cải tạo, giáo dục, phòng ngừa tội phạm đối với người chưa thành niên, cũng như việc áp dụng các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong nước và quốc tế. Các phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp điều tra án điển hình để phân tích các giá trị tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề khoa học cần được nghiên cứu trong luận văn này. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Xuất phát từ thực tiễn thi hành các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội và qua nghiên cứu các quan điểm, chủ đạo của Đảng và Nhà nước về việc xử lý người chưa thành niên phạm tội, chúng tôi lựa chọn đề tài này với mong muốn làm rõ một số vấn đề lý luận về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội; phân tích những quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các nguyên tắc xử lý đối với đối tượng này. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra những đề xuất, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội ở khía cạnh lý luận, xây dựng pháp luật và áp dụng trong thực tiễn. Bên cạnh đó, luận văn có ý nghĩa là tài liệu tham khảo cần thiết cho những nhà nghiên cứu pháp luật, sinh viên, nghiên cứu sinh chuyên ngành pháp luật, đặc biệt là cán bộ trong các cơ quan tư pháp đang hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự liên quan đến người chưa thành niên, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, cải tạo và phòng ngừa đối tượng người chưa thành niên, một đối tượng đặc thù ở nước ta hiện nay. 6. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Chương 2: Nội dung các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn thi hành. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp bảo đảm thi hành các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI KHÁI NIỆM, NHỮNG CƠ SỞ VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Đường lối nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng, bảo đảm quyền con người, lấy con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển, đặc biệt là đối với trẻ em. Với đối tượng này, Đảng ta đã chỉ rõ: Chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em là vấn đề có tính chiến lược, lâu dài, góp phần quan trọng cho việc chuẩn bị và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa Hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Đầu tư cho trẻ em là đầu tư cho tương lai đất nước,… [23]. Thực tế, sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị số 55-CT/TW ngày 28/6/2000 của Bộ Chính trị khóa VIII, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã có sự chuyển biến tích cực và đạt được một số kết quả quan trọng: Hệ thống pháp luật, chính sách bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã từng bước được hoàn thiện. Công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được tăng cường. Việc huy động và sử dụng nguồn lực để thực hiện mục tiêu vì trẻ em ngày càng có hiệu quả; chăm sóc sức khỏe, đảm bảo dinh dưỡng cho trẻ em được cải thiện đáng kể. Số trường đạt chuẩn quốc gia và tỉ lệ trẻ em đi học đúng độ tuổi ngày càng tăng; đã hoàn thành phổ cập trung học cơ sở… [23]. Tuy nhiên, tình trạng trẻ em vi phạm pháp luật ngày càng tăng "hàng năm có khoảng 18.000.000 người chưa thành niên vi phạm pháp luật, trong đó 15% phạm tội đặc biệt nghiêm trọng" [29]. Cũng như mọi chính sách pháp luật khác của Nhà nước, pháp luật hình sự Việt Nam luôn coi người chưa thành niên là đối tượng cần được bảo vệ, ngay cả khi các em là đối tượng vi phạm gây nguy hiểm cho xã hội. Khi các em là chủ thể của tội phạm thì việc xử lý các em phải tuân theo nguyên tắc bao trùm mang tính chất chỉ đạo thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta là lấy giáo dục làm nền tảng, trọng tâm trong quá trình xử lý vụ án. Chính vì vậy, Bộ luật hình sự đã quy định tại Điều 69, về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm. Khái niệm các nguyên tắc xử lý ngƣời chƣa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam Kế thừa và phát huy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kể từ khi thành lập cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em, hệ thống pháp luật, chính sách, chăm sóc bảo vệ trẻ em đã từng bước được hoàn thiện. Trẻ em được cộng đồng quan tâm, giáo dục và bảo vệ trước hành vi xâm hại và ngay cả khi các em là chủ thể của tội phạm thì pháp luật hình sự cũng dành cho các em sự quan tâm đặc biệt. Theo Bộ luật hình sự, việc xử lý, giải quyết các vụ án do người chưa thành niên phạm tội phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản. Đó là "Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội" được quy định tại Điều 69 Bộ luật hình sự. Trước khi có Bộ luật hình sự đầu tiên, tuy chưa có hệ thống hoàn chỉnh các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội nhưng cũng đã có một số nguyên tắc cơ bản được đề cập tại sách báo pháp lý hoặc văn bản hướng dẫn nghiệp vụ cấp ngành. Ví dụ: Bản tổng kết 452-HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc xét xử đối với người chưa thành niên phạm tội giết người, Chuyên đề sơ kết kinh nghiệm về việc xét xử vụ án về người chưa thành niên phạm tội gửi kèm Công văn số 37NCPL ngày 16/01/1976 của Tòa án nhân dân tối cao... Kể từ khi có Bộ luật hình sự đầu tiên (Bộ luật hình sự năm 1985) và cho đến Bộ luật hình sự hiện hành (Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009), các nguyên tắc này đã được pháp điển hóa và hoàn thiện nhưng cho đến nay, trong khoa học luật hình sự Việt Nam, các sách, báo chuyên khảo hoặc công trình nghiên cứu mới chỉ phân tích các nguyên tắc cũng như đường lối xử lý người chưa thành niên phạm tội chứ chưa thấy được và chỉ ra khái niệm khoa học về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Do vậy, ở trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi xin đưa ra khái niệm về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội nhưng trước khi đưa ra khái niệm này, theo chúng tôi cần phải làm rõ những đặc điểm đặc trưng của các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội như sau: Thứ nhất, các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta. Điều này được thể hiện xuyên suốt trong các nguyên tắc được ghi nhận tại Điều 69 Bộ luật hình sự mà điển hình là nguyên tắc thứ hai - người chưa thành niên có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục. Đây là nguyên tắc thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo đặc biệt - miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, nó phản ánh chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội và hành vi do họ thực hiện, đồng thời nhằm động viên, khuyến khích họ lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng, tái hòa nhập cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội. Ngoài ra, các nguyên tắc về mục đích xử lý người chưa thành niên phạm tội, về việc áp dụng các biện pháp xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội đều thể hiện tính nhân đạo đối với người chưa thành niên phạm tội. Thứ hai, các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam thể hiện tính cụ thể, nhân văn. Điều này được thể hiện ở chỗ không phải tất cả những người chưa thành niên phạm tội đều xử lý bằng hình sự. Theo khoa học luật hình sự, tội phạm do người chưa thành niên gây ra khi thỏa mãn năm điều kiện sau: Một là, phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội; Hai là, do người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với từng loại tội phạm và lỗi gây ra; Ba là, có lỗi, riêng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải có lỗi cố ý nếu phạm tội rất nghiêm trọng; Bốn là, hành vi nguy hiểm cho xã hội do người chưa thành niên thực hiện phải được Bộ luật hình sự quy định là tội phạm Năm là, người đó thực tế phải chịu trách nhiệm hình sự sau khi các cơ quan có thẩm quyền cân nhắc tính cần thiết phải xử lý bằng hình sự mà không thể áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc các biện pháp khác để quản lý, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Do vậy, bên cạnh việc xử lý hình sự người chưa thành niên phạm tội, pháp luật hình sự nước ta còn quy định các biện pháp xử lý khác như miễn trách nhiệm hình sự, áp dụng các biện pháp tư pháp v.v… Bên cạnh đó, trong quá trình giải quyết vụ án có người chưa thành niên phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng ngoài việc điều tra, xác minh sự thật khách quan quy định tại Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự còn phải "xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm" [54], để từ đó đưa ra biện pháp xử lý mang lại hiệu quả giáo dục tốt nhất cho người chưa thành niên phạm tội hoặc kiến nghị phòng ngừa tội phạm. Khi áp dụng chế tài xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội, những người tiến hành tố tụng chỉ được áp dụng hình phạt nếu thấy thực sự cần thiết và đặc biệt phải "hạn chế hình phạt tù. Khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng" [54, Điều 69]. Điều này đòi hỏi những người tiến hành tố tụng phải hiểu và đồng tình với quan niệm nhà tù là lựa chọn cuối cùng để xử lý người chưa thành niên phạm tội. Và đương nhiên, khi không phải lựa chọn một biện pháp nào để xử lý người chưa thành niên phạm tội mới là điều tốt lành không là lý tưởng mà còn là những hành động chiến lược lâu dài và rất cụ thể của tất cả chúng ta. Thứ ba, các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam đều nhằm mục đích giáo dục, tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên phạm tội. Nhấn mạnh điều này, các nhà làm luật đã quy định ngay tại nguyên tắc đầu tiên trong Điều 69 Bộ luật hình sự - Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Nó cho thấy các biện pháp áp dụng người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục họ thấy được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, sự nghiêm minh của pháp luật và giúp đỡ họ trở thành công dân có ích. Việc quy định án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi không được tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm cũng thể hiện đặc điểm này, việc quy định như vậy đã tạo điều kiện để người chưa thành niên có thể tái hòa nhập cộng đồng, phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần, cũng như tránh mặc cảm tội lỗi của bản thân người chưa thành niên và cái nhìn thiếu thiện cảm, dị nghị của xã hội đối với người đó sau nay khi đã trở thành người thành niên. Ngoài ra, các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội phản ánh tính hướng thiện của người chưa thành niên. Người chưa thành niên là đối tượng chưa phát triển đầy đủ về mặt thể chất cũng như tâm, sinh lý nên họ dễ bị lôi kéo, kích động vào hành vi phạm tội, tuy nhiên họ cũng dễ thay đổi, cải tạo, trở thành người lương thiện và công dân có ích cho xã hội nếu được quan tâm, giáo dục đúng phương pháp trong một môi trường sinh hoạt lành mạnh. Nhận thức được điều này, các nhà làm luật đã quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự nhằm đề cao tính hướng thiện, tự hoàn thiện bản thân của người chưa thành niên. Thứ tư, các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội hạn chế sử dụng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc đối với người chưa thành niên phạm tội. Người chưa thành niên phạm tội có thể được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại xã phường, thị trấn hoặc nếu bị áp dụng hình phạt thì chỉ thực sự cần thiết, hạn chế hình phạt tù, không áp dụng hình phạt tù chung thân, tử hình đối với người chưa thành niên. Điều này thể hiện không phải mọi trường hợp người chưa thành niên phạm tội đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ được đặt ra khi nó thật sự cần thiết và ngay cả khi người chưa thành niên phạm tội và bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì vẫn có khả năng không bị áp dụng hình phạt, thay vào đó họ có thể áp dụng các biện pháp tư pháp nếu biện pháp này đủ tác dụng cải tạo thành công dân có ích cho xã hội. Mặt khác, đối với người chưa thành niên phạm tội, hình phạt không phải biện pháp răn đe, phòng ngừa chung càng không phải là biện pháp trừng trị mà mục đích cuối cùng chỉ là giáo dục, cải tạo họ thành công dân có ích mà với lứa tuổi, tâm sinh lý đang trong quá trình hoàn thiện thì việc họ cần cả gia đình, nhà trường và xã hội có trách nhiệm nâng đỡ, giáo dục, hoàn thiện nó trong môi trường thân thiện, tự do thay vì chỉ có Cơ quan thi hành án hình sự hay chính quyền ủy ban nhân dân cấp xã, phường. Từ những đặc điểm trên chúng ta có thể đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam là những tư tưởng chủ đạo và là định hướng cơ bản thể hiện chính sách hình sự và nguyên tắc nhân đạo của Nhà nước đối với người chưa thành niên phạm tội, qua đó góp phần cải tạo, giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Những cơ sở của việc quy định các nguyên tắc xử lý ngƣời chƣa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam Nhà nước ta thừa nhận người chưa thành niên (trong đó bao gồm cả người chưa thành niên phạm tội) là một nhóm nhân khẩu - xã hội đặc thù, cần phải được sự bảo trợ của pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Sự bảo trợ đặc biệt này không chỉ khi người chưa thành niên là đối tượng của sự xâm hại mà ngay cả khi họ là chủ thể của hành vi phạm tội. Điều 65 Hiến pháp năm 1992 khẳng định: "Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục" [53]. Trước khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực, Nhà nước ta đã ban hành nhiều quy định về tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội như Nghị định số 60/CP của Chính phủ ngày 16/9/1993 quy định về bảo đảm các nguyên tắc cơ bản của quyền trẻ em - như không được tra tấn hoặc đối xử tàn tệ, xúc phạm nhân phẩm, danh dự; - Người chưa thành niên phạm tội không được giam giữ chung với người thành niên; - Trong thời gian bị giam giữ các em được giáo dục sửa chữa sai lầm, khuyết điểm được chăm sóc sức khỏe, học văn hóa, học nghề, vui chơi giải trí, và được tiếp xúc người thân. Tuy nhiên, văn bản pháp luật về người chưa thành niên trong thời kỳ này vẫn còn không ít sơ hở, thiếu nhất quán. Một trong những thiếu sót đó là các văn bản luật và dưới luật còn lạc hậu, chồng chéo hoặc chậm được ban hành cho phù hợp với tình hình, dù đã có nhiều nghị quyết, văn bản của Đảng, Nhà nước chỉ đạo, xác định nhưng những căn cứ pháp lý quy định trách nhiệm của các chủ thể thực hiện công tác phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội vẫn còn chưa rõ ràng; hoặc nếu có xác định thì còn chung chung, trùng lặp, chưa rõ ràng, rằng buộc trách nhiệm cụ thể. Đó là lỗ hổng của pháp luật, mặt khác cũng vô tình gây khó khăn cho khâu thực hiện. Trước tình hình cấp thiết đó, Nhà nước ta đã ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 và tiếp đó là luật sửa đổi bổ sung luật hình sự năm 2009 hoàn thiện các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội, khắc phục những thiếu sót trên. Cơ sở của việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội này chính là những căn cứ riêng thể hiện nội dung cơ bản và lợi ích xã hội tương ứng của chính sách hình sự về người chưa thành niên, đồng thời phản ánh quy luật phát triển khách quan tác động đến quá trình hình thành các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội có khả thi, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục nhằm đấu tranh có hiệu quả với tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện. Từ khái niệm trên, chúng ta có thể đưa ra những cơ sở của việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội như sau: Căn cứ thứ nhất, việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội phải dựa trên các tư tưởng pháp lý tiến bộ được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại. Nền văn minh nhân loại, tư tưởng tiến bộ ấy được đúc kết trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em, Quy tắc tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) và chính sách về người chưa thành niên của từng quốc gia. Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu tiến bộ đó, Nhà nước ta đã thúc đẩy hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền trẻ em, trong đó đã dành sự quan tâm đặc biệt cho đối tượng trẻ em vi phạm pháp luật, mà cụ thể Bộ luật hình sự đã quy định về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội, đó là những nguyên tắc có tính chỉ đạo, xuyên suốt trong quá trình giải quyết vụ án do người chưa thành niên phạm tội; hay như dựa vào các điều kiện kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội, lịch sử - truyền thống của đất nước có sự tham khảo, nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự nước ngoài chúng ta xây dựng nên độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (xem bảng 1.1). Bảng 1.1: So sánh độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một số nước Tuổi chịu Quốc gia trách Quốc gia nhiệm hình sự Anh - Xứ Wales 10 Đức Tuổi chịu trách Quốc gia nhiệm hình sự 14 Namibia Tuổi chịu trách nhiệm hình sự 10 Angiêri 13 Hi lạp 13 Hà Lan 12 Anđôra 16 Hônđurát 12 Niu Dilân 10 Áchentina 16 Hång K«ng 16 B¾c Ailen 10 Ácmênia 14 Hunggary 14 Na Uy 15 Ốxtr©ylia 10 Aix¬len 15 PhilÝppin 9 Áo 14 Ấn §é 7 Ba Lan 13 AdÐcbaidan 14 Ir¾c 9 Bå §µo Nha 16 7 Ailen 12 Rumani 16 B¸cba®èt Bªlarót 14 Ixraen 13 Nga 14 BØ 16 Italia 14 Xan Mari« 12 B«xnia 14 Giamaica 7 NhËt B¶n 14 Bulgari 14 Kad¾cxtan Cana®a 12 Kªnya §¶o X©yman 8 Hµn Quèc 14 Xcètlen 8 7 Xªnªgan 13 14 Xingapo 7 Chilª 16 C«oÐt 7 Xl«vakia 15 Trung Quèc 14 L¸tvia 16 Xl«vªnia 14 C«l«mbia 18 Lib¨ng 12 Nam Phi 10 C«xta Rica 12 Li Bi 8 14 Cuba 16 Lithuania 14 T©y Ban Nha Thôy SÜ Luychx¨mbu a Maxª®«nia 18 Tandania 15 14 Th¸i Lan 7 SÝp Céng hßa SÐc 7 15 7 §an M¹ch 15 Malaixia 10 £cua®o 12 Manta Ai CËp 15 M«ritiót 14 Ext«nia 16 Mªhic« PhÇn Lan 15 M«n®«va 9 T«g« Trini®¸t 15 7 Thæ NhÜ Kú 12 6 Ucraina 14 16 Hoa Kú 6 +/N Nguồn: Neal Hazel (2008), So sánh giữa các quốc gia về tư pháp người chưa thành niên, Ủy ban Tư pháp thanh thiếu niên của Anh và Xứ Wales-YJB, www.yjb.gov.uk. Cơ sở thứ hai, việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội dựa trên những luận chứng khoa học thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa khoa học pháp lý với các ngành khoa học khác. Trước xu thế tất yếu về hội nhập của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới, khi tình trạng tội phạm trong nước ngày càng trẻ hóa, tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ngày càng diễn biến phức tạp thì việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội cần phải có được ba tiêu chí cơ bản - khách quan, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục. Chính sách hình sự về người chưa thành niên phạm tội nói chung và nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội nói riêng không thể là một mục đích tự thân vận động nên để cho những vấn đề trên đạt được ba tiêu chí trên thì nhất thiết chúng ta phải ứng dụng các thành tựu khoa học khác như khoa học về tâm lý, sinh lý về người chưa thành niên, xã hội học về người chưa thành niên. Ví dụ: Qua nghiên cứu về tâm lý học con người, một tác giả của Việt Nam đã tổng kết về sự hình thành và phát triển nhân cách con người qua bảng 1.2. Bảng 1.2: Sự hình thành và phát triển nhân cách con người Lứa tuổi Giai đoạn Tuổi học sinh Thời kỳ Hoạt động chủ đạo Đặc trƣng tâm lý - Lĩnh hội nền tảng của tri Nhi đồng Học tập và thức và phương pháp, công từ 6 - 7 tuổi phát triển cụ nhận thức. đến 11 - 12 trí tuệ tuổi - Ham tìm tòi, khám phá. Nét "trội" trong mục tiêu cần chú ý giáo dục - Phương pháp học tập và phẩm chất trí tuệ. - "Lẽ phải". - Sử dụng công cụ nhận - Hiếu động. thức phổ thông. - Mất thăng bằng tâm lý. Thiếu niên Học tập - Dậy thì. - Xây dựng nhóm bạn bè từ 11 - 12 giao lưu - Quan hệ tâm tình bạn bè. tuổi đến 14 - "nhóm bạn - "Cải tổ nhân cách" và định tốt. 15 tuổi thân" hình bản ngã. - Hoàn thành thế giới quan. Thanh niên Học tập - Định hướng chuẩn bị nghề từ 14 - 15 hoạt động nghiệp. tuổi đến 17 - xã hội nghề 18 tuổi nghiệp - Ham hoạt động xã hội. - Tình bạn thân và mối tình đầu. - ý thức công dân. - ý thức nghề nghiệp. - Hoài bão xã hội. - Tình bạn, tình yêu. Nguồn: Phạm Minh Hạc(1992), Tâm lý học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Qua nghiên cứu về khoa học tâm lý người chưa thành niên chúng ta nhận thấy ở độ tuổi này các em thường nghịch ngợm, muốn tỏ lòng dũng cảm, không muốn thua kém người khác, đánh giá sai tình huống và các giá trị chuẩn mực trong các mối quan hệ xã hội, dễ dàng chịu sự ảnh hưởng người khác qua đó chúng ta nhận thấy động cơ của phần đông người chưa thành niên phạm tội thường mang tính đặc thù của tuổi trẻ nên khả năng phục thiện của các em nhanh hơn. Bên cạnh đó, đối với người chưa thành niên, khi tâm lý cá nhân đang hình thành, thì những thiếu sót của việc giáo dục trong gia đình, nhà trường, nơi sản xuất, nơi cư trú trong nhiều trường hợp lại là nguyên nhân trực tiếp đẩy họ bước vào con đường phạm tội. Chính những điều này là luận chứng khoa học, giao người chưa thành niên phạm tội cho gia đình, xã hội giáo dục. Cơ sở thứ ba, dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án trong việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên thực hiện. Với chức năng là các cơ quan trực tiếp đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm là người chưa thành niên nói riêng, các cơ quan bảo vệ pháp luật trong quá trình hoạt động của mình phải đúc kết những kinh nghiệm, bài học thực tiễn trong quá trình giải quyết những vụ án do người chưa thành niên thực hiện. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và đặc biệt là Tòa án phải làm rõ những nguyên nhân điều kiện dẫn đến người chưa thành niên phạm tội, kiến nghị khắc phục những điều kiện nguyên nhân đó. Tòa án thông qua hoạt động xét xử của mình, tổng kết các biện pháp xử lý (hình phạt, các biện pháp tư pháp) có tác dụng giáo dục, cải tạo người chưa thành niên phạm tội đồng thời cũng có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung. Ý nghĩa của việc quy định các nguyên tắc xử lý ngƣời chƣa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam Từ những nghiên cứu về khái niệm các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội và các đặc điểm của nó, chúng ta nhận thấy việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam có những ý nghĩa chính trị, xã hội, đạo đức và thực tiễn rất to lớn: Thứ nhất, việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội thể hiện sự minh chứng rõ ràng pháp luật hình sự Việt Nam được xây dựng trên triết lý, tư tưởng nhân đạo của dân tộc có sự kế thừa nền tảng các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nền văn minh nhân loại. Nó thể hiện nguyên tắc công bằng, nhân đạo và nhằm mục đích giáo dục phòng ngừa đối với người chưa thành niên - là nhóm nhân khẩu đặc biệt cần quan tâm, bảo vệ. Thứ hai, việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội dựa trên những cơ sở khoa học - thực tiễn khách quan, có căn cứ và đảm bảo sự thuyết phục chính là điều kiện chủ yếu và cần thiết mà nếu như thiếu nó thì việc đấu tranh, phòng ngừa với loại tội phạm người chưa thành niên sẽ không thành công. Bởi vậy nó là kim chỉ nam, là sợi chỉ xuyên suốt cho cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào đó để có cách giải quyết vụ án có người chưa thành niên phạm tội một cách công minh, có căn cứ, đảm bảo việc giáo dục, phòng ngừa đối với người chưa thành niên. Thứ ba, xuất phát từ những đòi hỏi cấp bách của thực tiễn xã hội nói chung, thực tiễn lập pháp và áp dụng pháp luật hình sự ở nước ta. Trải qua hơn hai thập kỷ kể từ khi Bộ luật hình sự đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất được ban hành (Bộ luật hình sự năm 1985), Nhà nước ta đã tiến hành pháp điển hóa lần hai Bộ luật hình sự với việc hoàn thiện các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội đã đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn, phù hợp với các quan hệ xã hội. Như vậy, với tất cả những lý lẽ phân tích ở trên không chỉ nói lên vai trò quan trọng của các nguyên tắc xử lý hình sự về người chưa thành niên phạm tội trong việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm người chưa thành niên mà còn là luận chứng cho việc nghiên cứu các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN TRƢỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 Nghiên cứu một cách có hệ thống lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội sẽ có được cách nhìn toàn diện và khái quát về quá trình phát triển, đồng thời rút ra được những giá trị cần được kế thừa của các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Tội phạm nói chung cũng như tội phạm do người chưa thành niên thực hiện nói riêng tồn tại rất lâu trong lịch sử. Cũng như mọi chế định khác của luật hình sự, qua mỗi hình thái kinh tế - xã hội các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội đều thể hiện tính giai cấp sâu sắc. Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi chỉ đi sâu nghiên cứu lịch sử hình thành và quá trình phát triển của các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội của Nhà nước ta từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, qua đó, cũng phân tích được phần nào tính ưu việt, tiến bộ và nhân đạo của chính sách về người chưa thành niên của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 Từ sau Cách mạng tháng Tám thành công đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 là thời kỳ Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mà sau này là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa phải tiến hành hai cuộc kháng chiến trường kỳ nhằm bảo vệ độc lập của dân tộc, vừa phải tiến hành công cuộc xây dựng đất nước. Trong tình hình ấy, công tác xây dựng pháp luật nói chung, cũng như pháp luật hình sự nói riêng, đặc biệt là quy định về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự còn nhiều hạn chế. Hầu hết các quy định về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội không được tập hợp một cách có hệ thống, mà nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau. Thậm chí vấn đề các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội thường được đề cập trong các báo cáo tổng kết có tính hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn của ngành tòa án. Tuy vậy, nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ các quy định của pháp luật hình sự trong thời kỳ này về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội cho thấy có những đặc trưng chủ yếu sau đây: Thứ nhất, về tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Pháp luật của thời kỳ này quy định người chưa thành niên là chưa đủ 18 tuổi, tuổi chịu trách nhiệm hình sự là từ 14 tuổi đến 18 tuổi. Tại Báo cáo tổng kết công tác 4 năm (1965 1968) của Tòa án nhân dân tối cao đã xác định: … Về nguyên tắc, từ đủ 14 tuổi tròn trở lên coi là có trách nhiệm về mặt hình sự. Nói chung đối với lứa tuổi từ 14 đến 16 thì chỉ bị truy tố, xét xử trong những trường hợp phạm các tội nghiêm trọng như giết người, cướp của, hiếp dâm… Riêng về hiếp dâm nói chung vẫn chủ yếu là giáo dục và cũng chỉ nên truy tố, xét xử trong trường hợp nghiêm trọng. - Đối với lứa tuổi từ 16 đến 18 tuổi, nếu hành vi phạm pháp có tính chất tương đối nghiêm trọng, nói chung cần xét xử, nhưng so với người lớn cần xử nhẹ hơn [66, tr. 14]. Như vậy, qua hướng dẫn trên đã xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự là 14 tuổi. Dưới độ tuổi này, người chưa thành niên dù thực hiện hành vi nguy hiểm đến mấy cũng không bị coi là người phạm tội. Điểm tiến bộ trong luật hình sự thời kỳ này là đã xác định độ tuổi 14 là độ tuổi bắt đầu chịu trách nhiệm hình sự, nhưng không phải mọi trường hợp người từ đủ 14 tuổi trở lên thực hiện hành vi bị coi là tội phạm đều bị đưa ra xét xử mà "đối với lứa tuổi từ 14 đến 16 thì chỉ bị truy tố, xét xử trong những trường hợp phạm các tội nghiêm trọng" [66, tr. 19]. Khi hướng dẫn đường lối xét xử đối với một số tội phạm cụ thể Tòa án nhân dân tối cao đã khẳng định đối với những người từ 14 tuổi tròn trở lên đến 16 tuổi, chỉ nên truy tố trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng như giết người, cướp của, hiếp dâm, riêng về hiếp dâm vẫn chủ yếu là giáo dục và cũng chỉ truy tố trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng. Còn đối với lứa tuổi từ 16 đến 18 tuổi chỉ được xử lý hình sự nếu hành vi phạm pháp có tính chất tương đối nghiêm trọng. Như vậy, trong thời kỳ này pháp luật đã có sự phân hóa từng giai đoạn độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên gắn với mức độ nghiêm trọng của từng loại tội phạm. Thứ hai, nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội được quy định trong thời kỳ này là trách nhiệm hình sự có tính chất giảm nhẹ và có mục đích giáo dục là chính. Tại Báo cáo công tác 4 năm (1965 - 1968) của Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn xét xử đối với người chưa thành niên nên xử nhẹ hơn so với người lớn, hay như tại Chuyên đề sơ kết kinh nghiệm về việc xét xử các vụ án người chưa thành niên phạm tội (gửi kèm theo Công văn số 37-NCPL ngày 16/01/1976 của Tòa án nhân dân tối cao), Tòa án nhân dân tối cao nhấn mạnh: "Phải coi việc phạm tội chưa đến tuổi trưởng thành là một trường hợp được giảm nhẹ tội, nghĩa là phải xử phạt nhẹ người chưa thành niên hơn người lớn tuổi phạm tội trong điều kiện tương tự. Đó là nguyên tắc cần được quán triệt" [66, tr. 36]. Cũng như trong Hướng dẫn số 329-HS2 ngày 11/2/1967 của Tòa án nhân dân tối cao: Khi xét xử cần chiếu cố thích đáng đến trình độ hiểu biết pháp luật non kém và khả năng dễ tiếp thu cải tạo giáo dục của họ, đến việc họ chưa nhận thức được đầy đủ tính chất nguy hiểm của hành vi của mình mà xử nhẹ hơn các can phạm đã lớn tuổi… chỉ vào khoảng 1/2 mức án đối với can phạm lớn tuổi [66, tr. 28]. Tính chất giảm nhẹ và mục đích giáo dục là chính của các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội được thể hiện trong các quy định của thời kỳ này là xuất phát từ chính sách nhân đạo và quan điểm chỉ đạo của Đảng lấy giáo dục phòng ngừa là chính đối với người chưa thành niên phạm tội. Tính chất giảm nhẹ và mục đích giáo dục phòng ngừa là chính của nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội còn được thể hiện cụ thể trong việc hướng dẫn áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân tối cao, đối với một số tội cụ thể. Ví dụ: Bản tổng kết số 452 - HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối cao về thực tiễn xét xử loại tội giết người đã đề cập đến: Vì tội giết người là một tội hết sức nguy hiểm mà lứa tuổi từ 14 tuổi tròn trở lên đã có thể nhận thức được ít nhiều tính chất, cho nên, nói chung, cần truy tố xử các trường hợp giết người mà can phạm có từ 14 tuổi tròn trở lên. Tuy nhiên, vì nhận thức của các phạm còn non nớt, cho nên cần xét xử nhẹ hơn so với người đã lớn… Mức hình phạt đối với các can phạm này nói chung chỉ nên từ khoảng 15 năm tù trở xuống. Đối với các can phạm đã có từ 16 tuổi tròn trở lên cho đến dưới 18 tuổi một ít cũng có thể xử nhẹ một phần so với can phạm đã lớn và đối với tất cả các loại can phạm này, nói chung, không nên áp dụng hình phạt tử hình [66, tr. 19] Hơn nữa, trong khi hướng dẫn xét xử đối với loại tội hiếp dâm do người chưa thành niên phạm tội thực hiện, Tòa án nhân dân tối cao đã chỉ rõ cơ sở của việc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên là sự hạn chế trong nhận thức tính chất nguy hiểm cho xã hội của loại tội này, cũng như mục đích giáo dục là chính của việc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Nhìn chung đối với loại tội này, cơ quan xét xử phải chú ý hơn nữa đến những suy nghĩ nhận thức của người chưa thành niên phạm tội, họ có những nhận thức khác so với một số loại tội phạm thông thường như trộm cắp, giết người…, ở loại tội này, bị cáo thường ít hiểu rằng hành vi đó là nguy hiểm là có tội. Còn đối với tội hiếp dâm, người chưa thành niên hành động theo bản năng tình dục của mình, họ không nghĩ rằng đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội, là phạm tội và sẽ bị xử nặng. Do vậy, nếu can phạm từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi, chủ yếu nên dùng các biện pháp giáo dục như giao cho cha, anh, chú, bác bảo lĩnh và giáo dục. Nếu can phạm từ đủ 16 đến 18 tuổi, trừ một số ít các trường hợp có tình tiết ít nghiêm trọng thì xử như hướng dẫn trên, nhìn chung cần xét xử về hình sự. Khi xét xử cần chiếu cố thích đáng đến trình độ hiểu biết pháp luật non kém và khả năng dễ tiếp thu cải tạo giáo dục của họ, đến việc họ chưa nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm của hành vi của mình mà xử nhẹ hơn các can phạm đã lớn tuổi… chỉ vào khoảng 1/2 mức án đối với can phạm lớn tuổi [66, tr. 4243]. Như vậy, điểm tiến bộ vượt bậc của luật hình sự thời kỳ này là việc áp dụng nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội có tính chất giảm nhẹ dựa trên sự đánh giá về mức độ nhận thức của bản thân người chưa thành niên về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ thực hiện. Đối với hành vi hiếp dâm, chủ thể đang ở độ tuổi vừa lớn dậy, họ không thể thấy hết mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thì không nhất thiết phải áp dụng hình phạt mà có thể áp dụng những biện pháp có tính chất giáo dục. Thứ ba, việc xử lý người chưa thành niên phạm tội phải căn cứ vào trình độ nhận thức, hoàn cảnh phạm tội và nhân thân của các em. Trên cơ sở cân nhắc sự phát triển về thể chất, khả năng nhận thức và các yếu tố tâm sinh lý Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn: Việc xử phạt nhiều, ít là tùy thuộc ở trình độ nhận thức và trạng thái tâm sinh lý của người chưa thành niên đến mức độ nào được thể hiện nói chung qua lứa tuổi cao thấp khác nhau, ở hoàn cảnh phạm pháp, ở tính chất nguy hiểm nhiều hay ít của hành vi phạm tội và của nhân thân người phạm tội cũng như yêu cầu của tình hình chung [66, tr. 36]. Như vậy, mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng luật hình sự nói riêng cũng như pháp luật nói chung của thời kỳ này đã quy định một cách khá cụ thể những nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội như vấn đề độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, mục đích xử lý người chưa thành niên phạm tội (chủ yếu mang tính giáo dục, phòng ngừa), các nguyên tắc xử lý và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội. Những quy định này là tiền đề cho việc xây dựng nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội thống nhất, cụ thể cho hai lần pháp điển hóa Bộ luật hình sự. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời trong hoàn cảnh đất nước đã thống nhất, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước tình hình đó, đòi hỏi chúng ta phải có một Bộ luật hình sự hoàn chỉnh để đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng mới: "Đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" (Lời nói đầu, Bộ luật hình sự năm 1985). Thực tiễn của công tác xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự nói chung, cũng như quy định về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội nói riêng, từ khi Cách mạng tháng Tám thành công cho đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985, cho thấy: Các văn bản pháp luật hình sự do chính quyền cách mạng ban hành trước đó thường chỉ là những văn bản riêng lẻ, quy định một nhóm tội hoặc trong một lĩnh vực cụ thể nào đó. Ngày 27/6/1985, Bộ luật hình sự năm 1985 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VI chính thức thông qua. Với bản chất tốt đẹp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước đã giành một sự quan tâm thích đáng cho công tác chăm sóc thiếu niên nhi đồng, đặc biệt là lứa tuổi thanh niên. Trên tinh thần đó, Bộ luật hình sự năm 1985 đã giành hẳn một chương quy định về người chưa thành niên phạm tội trong đó có các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội có thể rút ra một số đặc điểm sau đây: Thứ nhất, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự ở nước ta, các quy định về xử lý người chưa thành niên phạm tội được quy định thành một chương hoàn chỉnh (chương VII), trong đó đã quy định khá đầy đủ các vấn đề liên quan đến các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Đây được coi là một chương đặc thù vì đối tượng được áp dụng các quy định của chương này là người chưa thành niên phạm tội. Hơn nữa, Bộ luật hình sự năm 1985 còn thể hiện thống nhất một nguyên tắc chung là: Người chưa thành niên phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái với những quy định của chương này. Điều này có nghĩa khi áp dụng các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội, các cơ quan chức năng phải lấy quy định của chương này để ưu tiên áp dụng, đồng thời vận dụng các quy định khác thuộc phần chung nhưng phải "không trái" với quy định của chương này, nếu trái thì không được áp dụng. Thứ hai, tuổi chịu trách nhiệm hình sự cũng được các nhà lập pháp hình sự thời kỳ này quy định một cách cụ thể. Điều 58 Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định: "Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý, và người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm" [52]. Theo Điều 8 khoản 2 Bộ luật hình sự năm 1985 thì: Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây ra nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên năm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Những tội phạm khác là tội phạm ít nghiêm trọng [52]. Như vậy, điều luật quy định phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên. Nếu người chưa thành niên phạm tội là người đã đủ 16 tuổi trở lên thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi hành vi phạm tội mà họ thực hiện. Nếu họ là người từ đủ 14 đến 16 tuổi thì chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi tội mà họ thực hiện là tội nghiêm trọng và được thực hiện với lỗi cố ý. Còn nếu tội đó là tội ít nghiêm trọng, hoặc là tội nghiêm trọng nhưng người chưa thành niên lại thực hiện với lỗi vô ý thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Thứ ba, Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định cả một hệ thống các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều 59 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định các nguyên tắc cơ bản để xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên. Những nguyên tắc này bao gồm: Nguyên tắc thứ nhất: Việc xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện xảy ra phạm tội. Nguyên tắc trên thể hiện quan điểm nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta, đối với người chưa thành niên, mục của hình phạt không phải là để trừng trị họ mà để giáo dục, cải tạo họ thành công dân có ích. Để đạt được mục đích này Bộ luật hình sự năm 1985 yêu cầu trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm để từ đó quyết định có cần áp dụng hình phạt hay có thể áp dụng biện pháp giáo dục khác. Khi quyết định vấn đề này cần quán triệt nguyên tắc giáo dục là chính. Nguyên tắc thứ hai: Đối với người chưa thành niên phạm tội, Viện kiểm sát và Tòa án áp dụng chủ yếu những biện pháp giáo dục, phòng ngừa; gia đình, nhà trường và xã hội có trách nhiệm tham gia tích cực vào việc thực hiện những biện pháp ấy. Bộ luật hình sự năm 1985 đã chỉ rõ Viện kiểm sát và Tòa án chủ yếu áp dụng biện pháp giáo dục, phòng ngừa đối với người chưa thành niên, coi mặt công tác này là chính yếu trong đấu tranh, phòng chống tội phạm người chưa thành niên. Nguyên tắc này cũng xác định trách nhiệm của cơ quan nhà nước tổ chức xã hội trong việc tham gia tích cực vào thực hiện những biện pháp có tính chất giáo dục, phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội. Coi việc giúp đỡ, giáo dục người chưa thành niên phạm tội là trách nhiệm của toàn xã hội chứ không chỉ có các cơ quan tiến hành tố tụng, bởi có sự chung sức của toàn xã hội sẽ tạo cho em một môi trường phát triển lành mạnh, giúp các em nhanh chóng tự hoàn thiện bản thân và trở lại cộng đồng. Nguyên tắc thứ ba: Viện kiểm sát có thể quyết định miễn truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và nếu được gia đình và tổ chức xã hội nhận trách nhiệm giám sát, giáo dục. Chỉ đưa người chưa thành niên phạm tội ra xét xử và áp dụng hình phạt đối với họ trong trường hợp cần thiết, căn cứ vào tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa. Nguyên tắc này cho phép Viện kiểm sát có quyền miễn truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và nếu được gia đình hoặc một tổ chức xã hội nhận trách nhiệm giám sát, giáo dục. Người phạm tội nói chung cũng có thể được miễn trách nhiệm hình sự nhưng chỉ trong những trường hợp đặc biệt. Đối với người chưa thành niên phạm tội, điều kiện để có thể được miễn trách nhiệm hình sự thấp hơn so với điệu kiện miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nói chung. Với chức năng và nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát, việc quy định Viện kiểm sát có quyền quyết định miễn truy cứu trách nhiệm hình sự nêu trên vừa đảm bảo việc miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đúng pháp luật, vừa đảm bảo tính kịp thời ngay cả trong giai đoạn điều tra, tránh cho việc người chưa thành niên phải tham gia nhiều hoạt động tố tụng, ảnh hưởng đến tâm lý các em. Người chưa thành niên phạm tội chỉ được đưa ra xét xử trong những trường hợp cần thiết, đánh giá là cần thiết hay không cần thiết phụ thuộc vào các yếu tố, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, những đặc điểm phụ thuộc về nhân thân của người phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Việc quy định này tránh cho người chưa thành niên mặc cảm về hành vi phạm tội của mình, giúp các em nhanh chóng hòa nhập và tự cải tạo bản thân, bởi vì một người được coi là có tội chi khi người đó bị xét xử bằng bản án kết tội có hiệu lực của Tòa án, do vậy đối với trường hợp không cần thiết và việc giáo dục, cải tạo người chưa thành niên không bị ảnh hưởng thì không nhất thiết phải đưa họ ra xét xử. Nguyên tắc thứ tư: Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình người chưa thành niên phạm tội. Khi phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người chưa thành niên. Người chưa thành niên phạm tội được giam riêng. Không xử phạt tiền và áp dụng các hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội. Nguyên tắc này quy định không áp dụng hình phạt tử hình và tù chung thân đối với người chưa thành niên phạm tội. Đây là hai hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự thể hiện người phạm tội không còn khả năng giáo dục buộc phải loại bỏ hoặc cách ly vĩnh viễn họ ra khỏi xã hội. Việc quy định không áp dụng hai hình phạt này đối với người chưa thành niên phạm tội, dù họ phạm tội nghiêm trọng thế nào chăng nữa thì mọi trường hợp người chưa thành niên phạm tội vẫn có cơ hội để cải tạo thành người có ích cho xã hội. Điều này thể hiện nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình sự hiện đại. Đây là một quy định có tính chất tiến bộ nên trong các lần sửa đổi sau này, quy định này vẫn được tiếp tục ghi nhận. Trong trường hợp phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng. Điều 64 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định trực tiếp mức án cao nhất của hình phạt tù không được tuyên vượt quá khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội là mười lăm năm hoặc mười hai năm tù, tùy từng trường hợp phạm tội cụ thể. Để đảm bảo an toàn đối với chưa thành niên, việc giam giữ họ tại nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam phải có sự phân loại, có buồng giam giữ riêng, hạn chế sự tiếp xúc giữa họ với những đối tượng lưu manh. Nguyên tắc này cũng quy định Tòa án không được áp dụng hình phạt tiền và hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên bởi vì đối tượng này chưa nằm trong độ tuổi lao động nên việc họ tự có thu nhập là hầu như không có, việc áp dụng hình phạt tiền đối với họ là không khả thi và không có tác dụng. Hình phạt bổ sung là hình phạt bổ trợ cho hình phạt chính, có tác dụng hỗ trợ cho hình phạt chính, do vậy Tòa án không nên áp dụng hình phạt này đối với người chưa thành niên để làm xấu hơn tình trạng họ. Nguyên tắc thứ năm: Án đã tuyên đối với người phạm tội chưa đủ 16 tuổi thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Tính chất giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của quy định này thể hiện ở chỗ nếu người chưa thành niên từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi thực hiện tội phạm lần thứ hai thì cũng không được xác định là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm để tăng nặng hình phạt đối với họ. Mặt khác, tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm là tình tiết thể hiện nhân thân người phạm tội có khả năng giáo dục, cải tạo thấp nên việc quy định nguyên tắc này cũng tạo điều kiện cho người chưa thành niên phạm tội một lần nữa có cơ hội sửa chữa sai lầm của mình, cũng như tránh cho các em mặc cảm về nhân thân. Tóm lại, nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội là những nguyên tắc vừa có tính định hướng lại vừa cụ thể, những nguyên tắc này yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng khi xem xét vấn đề xử lý người chưa thành niên phạm tội trong những trường hợp phạm tội cụ thể phải có quan điểm toàn diện, trên tinh thần lấy giáo dục, phòng ngừa là chính. Bộ luật hình sự năm 1985 buộc các cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định được hai vấn đề có tính nguyên tắc đó là khả năng nhận thức của họ về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. Thể hiện một cách cụ thể nội dung các nguyên tắc trên, Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định hệ thống các biện pháp tư pháp và hình phạt có thể áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều đáng chú ý là Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định các biện pháp tư pháp lên trước sau đó quy định đến hệ thống hình phạt chính có thể được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều này thể hiện một cách cụ thể nguyên tắc lấy giáo dục, phòng ngừa là chính, việc áp dụng hình phạt chỉ là biện pháp cuối cùng. CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC Các nguyên tắc xử lý ngƣời chƣa thành niên phạm tội trong pháp luật quốc tế Kể từ khi Liên hợp quốc ra đời, năm 1945, đặc biệt từ khi Bộ luật quốc tế về quyền con người (bao gồm Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948; Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị 1966; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966), quyền con người đã vượt khỏi phạm vi quốc gia trở thành Luật Quốc tế. Bên cạnh đó, ở tất cả các quốc gia, từ xưa đến nay, trẻ em là đối tượng được quan tâm, chăm sóc đặc biệt kể cả khi họ vi phạm pháp luật, thì nhân loại luôn dành cho các em sự cảm thông chia sẻ, giúp các em trở lại với cuộc sống bình thường, giúp đỡ các em khẳng định tư cách của mình trong gia đình và xã hội, trong học tập và lao động, bởi vậy, Liên hợp quốc đã ban hành nhiều văn kiện về tư pháp người chưa thành niên như: Công ước về quyền trẻ em năm 1989 cùng với hai Nghị định thư không bắt buộc của công ước này (Nghị định thư về "sử dụng trẻ em trong xung đột vũ trang", Nghị định thư về "buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm", đều được Việt Nam phê chuẩn ngày 20/12/2001); Những quy tắc tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật đối với Người chưa thành niên còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh, được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 29/11/1985; Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa tội phạm ở người chưa thành niên còn gọi là Hướng dẫn Riyadh, được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1990; Những quy tắc tối thiểu, phổ biến của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do - được Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1990. Đây là những văn kiện tổng hợp, đúc kết một cách rộng rãi kinh nghiệm của các quốc gia trên lĩnh vực Tư pháp người chưa thành niên chúng ta cần trân trọng, vận dụng như là những nghĩa vụ chính trị và kế thừa các giá trị tinh thần tốt đẹp của cộng đồng quốc tế. Cần lưu ý rằng những văn kiện trên đây chỉ đưa ra những hướng dẫn và quy tắc tối thiểu trên lĩnh vực này. Điều đó có nghĩa, mỗi quốc gia có thể vận dụng trong việc xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật mang tính sáng tạo, xây dung và khoan dung hơn theo nguyên tắc "lợi ích tốt nhất cho trẻ em". Các quy tắc và nguyên tắc nêu trên có chứa đựng một điều khoản cho thấy rằng, các quy tắc và nguyên tắc đó được thực hiện dựa trên những điều kiện kinh tế - xã hội và văn hóa hiện có của mỗi quốc gia. Các tiêu chuẩn nêu ra rất linh hoạt, nếu được áp dụng một cách thiện chí theo cách thức phù hợp nhất với với hoàn cảnh kinh tế - xã hội, văn hóa của từng quốc gia, chúng sẽ là một công cụ hữu hiệu giúp cải thiện cuộc sống của số lượng ngày càng tăng người chưa thành niên bị đẩy tới chỗ vi phạm pháp luật và chống lại xã hội. Dựa trên những quy định của pháp luật quốc tế về chưa thành niên, các quốc gia trên thế giới đã đưa ra các quy định về người chưa thành niên nói chung, người chưa thành niên phạm tội nói riêng, các chế tài xử lý người chưa thành niên phạm tội phù hợp với điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội, phong tục, tập quán, pháp luật của mỗi nước. Do vậy, những văn kiện trên chỉ đưa ra những hướng dẫn và quy tắc tối thiểu trên lĩnh vực này. Điều đó có nghĩa, mỗi quốc gia có thể vận dụng trong việc xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật mang tính sáng tạo, xây dung và khoan dung hơn theo nguyên tắc "lợi ích tốt nhất cho trẻ em". Chẳng hạn như: Tòa án người chưa thành niên ở Thái Lan được thành lập ngày 28/1/1952, ngoài mục đích xử lý người chưa thành niên phạm tội bằng những biện pháp đặc biệt thì thẩm quyền của Tòa án người chưa thành niên còn được phép giải quyết một số trường hợp tranh chấp gia đình liên quan tới hạnh phúc và lợi ích của người chưa thành niên. Mục tiêu và những quy tắc trong các văn kiện trên là: - Về mục tiêu: Toàn bộ hoạt động của hệ thống tư pháp người chưa thành niên nhằm giảm đi đến mức tối thiểu việc các cơ quan tư pháp phải xử lý đối với người chưa thành niên. Đồng thời làm giảm đi đến mức thấp nhất ảnh hưởng xấu có thể có khi không thể không áp dụng các chế tài pháp luật đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật. Do vậy, thực tiễn luật pháp quốc tế đã có biện pháp xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên biện pháp xử lý người chưa thành niên một cách không chính thức nằm ngoài hệ thống tư pháp chính thống nhằm hạn chế thấp nhất việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên. Tại Điều 40 (3) (b) Công ước quốc tế về quyền trẻ em quy định các quốc gia thành viên "bất cứ khi nào xét thấy phù hợp và nên làm" phải khuyến khích thúc đẩy việc thiết lập các biện pháp xử lý người chưa thành niên vi phạm pháp luật mà không cần viện đến các thủ tục tư pháp trong điều kiện bảo đảm quyền con người và sự nghiêm minh của pháp luật. Quy tắc về các chuẩn mực tối thiểu về quản lý tư pháp người chưa thành niên cũng trực tiếp khuyến khích thúc đẩy sử dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng: "Bất cứ khi nào xét thấy phù hợp, cần xem xét xử lý người chưa thành niên vi phạm pháp luật theo hướng không viện dẫn đến hoạt động xét xử chính thức của cơ quan thẩm quyền" [32, Quy tắc 11.1]. Hay: Cơ quan Công an, Kiểm sát và các cơ quan khác xử lý các vụ việc có người chưa thành niên cần được giao thẩm quyền tự quyết trong việc ra quyết định về các vụ án này mà không cần phải tổ chức xét xử chính thức. Quyết định đưa ra dựa trên các tiêu chí được quy định riêng cho mục đích này trong hệ thống pháp luật tương ứng đồng thời phải phù hợp với các nguyên tắc được quy định trong Bộ nguyên tắc này [32, Quy tắc 11.2]. Việc áp dụng các biện pháp ngoài tư pháp có thể quyết định trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Một, một số, hoặc tất cả các cơ quan đều có thể chiểu theo những quy tắc và chính sách trong hệ thống tương ứng mà quyết định áp dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng. Xử lý chuyển hướng không nhất thiết chỉ được sử dụng trong trường hợp phạm tội nhẹ, do đó các biện pháp này có thể được khai thác như một chiến lược rất hữu ích để thực hiện mục tiêu của hệ thống pháp luật quốc tế về người chưa thành niên. Bên cạnh đó, Bộ quy tắc này cũng quy định điều kiện cần và đủ để thi hành các biện pháp xử lý ngoài tư pháp đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật: "Để hỗ trợ các quyết định được đưa ra dựa trên thẩm quyền tự quyết trong các vụ việc có người chưa thành niên, cần có nỗ lực cung cấp các chương trình tại cộng đồng như quản lý giám sát ngắn hạn, giáo huấn chỉ dẫn, buộc bồi thường thiệt hại, đền bù cho người bị hại" [32, Quy tắc 11.4]. Quy tắc này khuyến khích đưa ra một số lựa chọn xử lý người chưa thành niên dựa vào cộng đồng mang tính khả thi. Các chương trình tư pháp phục hồi, bồi thường thiệt hại và ngăn ngừa vi phạm thông qua công tác quản lý, giám sát, giáo huấn chỉ dẫn có thể sẽ đặc biệt phù hợp và hữu ích trong từng trường hợp. Trong khi đó Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa tình trạng phạm tội của người chưa thành niên lại nhấn mạnh vai trò của các chương trình và dịch vụ tại cộng đồng trong ngăn ngừa và xử lý tội phạm trong giới trẻ. Hướng dẫn này quy định rằng "các cơ quan công quyền quản lý xã hội chỉ nên vào cuộc khi không còn biện pháp khả dĩ nào khác" [35, Điều 6]. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp xử lý người chưa thành niên ngoài tư pháp như chuyển người chưa thành niên đến các dịch vụ cộng đồng thích hợp hoặc các dịch vụ khác đều đòi hỏi phải có sự đồng thuận của người chưa thành niên hoặc cha mẹ hay người giám hộ của các em và phải chịu sự kiểm tra của một số cơ quan có thẩm quyền. Sự đồng thuận của người chưa thành niên hoặc cha mẹ các em là một điều kiện tiên quyết để áp dụng biện pháp xử lý ngoài tư pháp. Tại Quy tắc 11.3 trong Quy tắc về các chuẩn mực tối thiểu về quản lý tư pháp người chưa thành niên quy định rằng tất cả các tiến trình xử lý chuyển hướng tuyến người chưa thành niên ra những dịch vụ tại cộng đồng phù hợp hoặc các dịch vụ khác đều phải được sự đồng thuận của người chưa thành niên, cha mẹ hoặc người giám hộ của các em. Quy tắc này cũng nhấn mạnh rằng cần có sự quan tâm giám sát phù hợp để giảm mức thấp nhất nguy cơ bắt ép, đe dọa trong tất cả các giai đoạn của quy trình xử lý chuyển hướng ngay tại Phần giải thích: Phải đảm bảo người chưa thành niên không bị gây áp lực buộc phải đồng ý thực hiện chương trình xử lý chuyển hướng, chẳng hạn như áp lực nếu không đồng ý chuyển hướng thì phải ra trước tòa án. - Quy tắc tổng quát áp dụng trong hệ thống tư pháp người chưa thành niên là "lợi ích tốt nhất cho trẻ em". Và tôn trọng, bảo vệ tất cả các quyền con người của trẻ em. Quy tắc tổng quát này cần được vận dụng vào tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng, từ bắt giữ, khởi tố, điều tra đến truy tố, xét xử và cải tạo - giáo dục. Không trẻ em nào bị tước quyền tự do một cách tùy tiện, việc bắt, giam giữ, bỏ tù trẻ em phải được tiến hành theo pháp luật và chỉ được tính đến như biện pháp cuối cùng và trong thời gian ngắn nhất. Ngay tại lời nói đầu của Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về quyền trẻ em đã "xét rằng, trẻ em cần được chuẩn bị đầy đủ để cuộc sống cá nhân trong xã hội và cần được nuôi nấng, giáo dục theo tinh thần các lý tưởng được nêu ra trong Hiến Chương Liên hợp quốc, nhất là theo tinh thần hòa bình, phẩm giá, khoan dung, tự do, bình đẳng và đoàn kết" [33]. Ngoài ra tại mục 4 Điều 40 của Công ước này đã cụ thể hóa: Cần có sẵn nhiều biện pháp khác nhau, như là sự chăm sóc, các hướng dẫn và lệnh giám sát: tư vấn, tạm tha; sự chăm nom của cha mẹ nuôi, các chương trình giáo dục và dạy nghề và những biện pháp thay thế khác bên ngoài sự chăm sóc của các cơ quan và tổ chức trong thể chế, nhằm bảo đảm cho các trẻ em được đối xử một cách phù hợp với phúc lợi của các em và tương xứng với tình cảm và tội phạm của những em này [33]. Bản Quy tắc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước đoạt tự do thì quy định các biện pháp không giam giữ phải được khuyến khích phát triển và giám sát chặt chẽ (quy tắc 2..4). Bộ quy tắc này cũng khuyến khích thiết lập đa dạng các biện pháp xử lý dựa vào cộng đồng: Nhằm tạo ra các biện pháp xử lý linh hoạt để đáp ứng với bản chất và mức độ nghiêm trọng của từng hành vi vi phạm, với nhân thân và hoàn cảnh của người vi phạm cũng như với yêu cầu bảo vệ xã hội và tránh áp dụng hình phạt tù khi chưa cần thiết, hệ thống tư pháp hình sự cần thiết lập đa dạng các biện pháp xử lý không giam giữ trong các quyết định từ trước khi xét xử tới sau khi đưa ra hình phạt. Số lượng và loại hình các biện pháp không giam giữ nên được quyết định áp dụng sao cho vẫn có thể áp dụng các biện pháp trừng phạt khác [34, Quy tắc 2.3]. Bản Quy tắc về các chuẩn mực tối thiểu về quản lý tư pháp người chưa thành niên cũng đã nêu rõ: Hệ thống các cơ quan tài phán đối với người chưa thành niên cần chú trọng đến hạnh phúc của người chưa thành niên và đảm bảo rằng bất cứ việc xét xử nào đối với người chưa thành niên phạm pháp phải luôn luôn phù hợp với hoàn cảnh của người phạm tội cũng như hành vi vi phạm pháp luật [32, Quy tắc 5.1], Quy tắc này đã đề cập đến hai trong số những mục tiêu quan trọng nhất của hoạt động tài phán đối với người chưa thành niên. Mục tiêu thứ nhất là nhằm tăng cường hạnh phúc cho người chưa thành niên. Đây là điểm chính của những hệ thống pháp luật mà theo đó người chưa thành niên phạm tội được giao cho những tòa án gia đình hay những cơ quan hành chính đảm nhiệm nhưng cần chú trọng đến hạnh phúc của người chưa thành niên. Theo đó việc xét xử như vậy đã góp phần tránh được việc áp dụng những khung hình phạt. Mục tiêu thứ hai là "nguyên tắc về tính cân xứng". Nguyên tắc này có ưu việt là hạn chế những khung hình phạt, chủ yếu nhấn mạnh đến việc thưởng phạt công bằng khi xét đến động cơ phạm tội. - Một nội dụng quan trọng trong các văn kiện trên là những hướng dẫn và quy tắc về phòng ngừa người chưa thành niên vi phạm pháp luật và tái hòa nhập xã hội đối với người chưa thành niên phạm tội. Phòng ngừa người chưa thành niên phạm pháp, là một bộ phận chủ yếu của phòng ngừa tội phạm xã hội. Phòng ngừa người chưa thành niên phạm pháp đòi hỏi nỗ lực của toàn xã hội và phải dựa trên sự tôn trọng và sự phát triển hài hòa nhân cách của các em ngày từ thời thơ ấu; Nhà nước phải tạo môi trường lành mạnh cho thanh niên; bảo vệ gia đình, giúp đỡ những gia đình có hoàn cảnh khó khăn đó là việc làm hết sức có hiệu quả đối với phòng ngừa người chưa thành niên phạm pháp. Trong lĩnh vực tư pháp quốc tế về người chưa thành niên, "hòa nhập cộng đồng" là thuật ngữ chỉ các chương trình và biện pháp nhằm tạo thuận lợi cho sự thích nghi về mặt xã hội và tâm lý của người chưa thành niên. Bên cạnh đó, khái niệm "tái hòa nhập" thường chỉ các biện pháp hòa nhập xã hội được thiết kế đặc biệt để hỗ trợ người chưa thành niên trở về cộng đồng sau thời gian ở các cơ sở giam giữ như trường giáo dưỡng hoặc trại giam nhằm giúp đỡ họ đương đầu với thách thức nảy sinh trong quá trình trở về cộng đồng. Việc hỗ trợ này bao gồm giải quyết nhu cầu của người chưa thành niên và nhu cầu quản lý những nguy cơ mà người chưa thành niên đó có thể gây ra đối với cộng đồng. Công ước quốc tế quyền trẻ em quy định rằng các Quốc gia thành viên cần công nhận "nhu cầu thúc đẩy việc tái hòa nhập trẻ em và mong muốn đảm đương một vai trò có ích trong xã hội của trẻ em" [33, khoản 1 Điều 40]. Bộ quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về quản lý tư pháp người chưa thành niên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tạo ra các tiền đề, dịch vụ và những hỗ trợ cần thiết khác để đảm bảo lợi ích tốt nhất của người chưa thành niên trong suốt quá trình phục hồi của họ: "cần nỗ lực cung cấp cho người chưa thành thành niên, trong tất cả các giai đoạn tố tụng những sự hỗ trợ cần thiết hoặc hỗ trợ khác hiệu quả và thiết thực để thúc đẩy quá trình phục hồi của họ" [32]. Tư pháp quốc tế về người chưa thành niên quy định năm biện pháp tái hòa nhập đối với người chưa thành niên. Đó là: * Biện pháp tái hòa nhập trong cơ sở giam giữ Bản Quy tắc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước đoạt tự do nhìn nhận việc giáo dục và đào tạo nghề là hai trong số những biện pháp trọng yếu hỗ trợ người chưa thành niên chuẩn bị để tái hòa nhập thành công vào cộng đồng. Quy tắc số 38 của Bộ quy tắc này quy định tất cả người chưa thành niên trong độ tuổi đi học có quyền được hưởng dịch vụ giáo dục phù hợp với nhu cầu và khả năng của họ nhằm giúp họ chuẩn bị hòa nhập trở lại vào cộng đồng. Bên cạnh đó quy tắc cũng xác định cụ thể cách thức tổ chức các dịch vụ giáo dục và dạy nghề phù hợp. Bộ quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về quản lý tư pháp người chưa thành niên quy định: "khi bị giam giữ, người chưa thành niên cần được nhận những chăm sóc, bảo vệ và hỗ trợ phù hợp với nhu cầu riêng của họ - về xã hội, giáo dục, nghề nghiệp, tâm lý, y tế và thể chất - mà họ cần có tính đến độ tuổi, giới tính và tính cách của họ" [32, Quy tắc 13]. Cũng theo Bộ quy tắc này, mục tiêu của công tác đào tạo và chữa trị cho người chưa thành niên trong cơ sở giam giữ là nhằm mục đích chăm sóc, bảo vệ, giáo dục, dạy nghề cho người chưa thành niên nhằm giúp họ thực thi vai trò xây dựng và đóng góp của họ trong xã hội. * Biện pháp trả tự do sớm khỏi các cơ sở giam giữ Một trong những phương thức hỗ trợ tái hòa nhập cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật sau thời gian chấp hành trong các cơ sở giam giữ là rút ngắn tối đa thời gian chấp hành và tạo ra các cơ chế để họ được trả về cộng đồng sớm ngay sau khi có dấu hiệu chỉ ra rằng họ đã có khả năng thực hiện chức năng xã hội của mình một cách bình thường. Bộ quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về quản lý tư pháp người chưa thành niên quy định: "biện pháp trả tự do có điều kiện từ các cơ sở giam giữ cần được các cơ quan có thẩm quyền áp dụng tới mức tối đa cho phép và người chưa thành niên cần được trả tự do trong thời gian sớm nhất có thể" [32, quy tắc 28.1]. Bộ quy tắc này cũng nêu rõ: "Người chưa thành niên được trả tự do có điều kiện từ các cơ sở giam giữ cần được cơ quan có thẩm quyền hỗ trợ, giám sát và cần được cộng đồng hỗ trợ" [32, quy tắc 28.2]. * Biện pháp sự tham gia của cộng đồng vào tái hòa nhập cho người chưa thành niên Bộ quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về quản lý tư pháp người chưa thành niên đã nếu rõ sự phối hợp của cộng đồng là không thể thiếu trong tất cả hoạt động phục hồi cho người chưa thành niên. Cụ thể, Quy tắc nhấn mạnh: "Cần phải kêu gọi các cá nhân, tổ chức tình nguyện, các cơ quan đoàn thể địa phương và nguồn lực khác trong cộng đồng đóng góp có hiệu quả vào việc phục hồi cho người chưa thành niên trong môi trường cộng đồng và bất cứ khi nào có thể, trong phạm vi gia đình" [32, quy tắc 25.1]. Bên cạnh các quy định về các biện pháp trên tư pháp quốc tế về người chưa thành niên còn quy định về các biện pháp Dịch vụ chăm sóc sau giam giữ, biện pháp đào tạo cán bộ chuyên môn. Tuy nhiên, dù có quy định như thế nào đi chăng nữa thì các quy định trên của pháp luật quốc tế đều hướng tới mục tiêu mong muốn trẻ được phát triển đầy đủ và hài hòa kể cả khi là chủ thể của hành vi vi phạm pháp luật. Các cơ quan tư pháp, chính quyền và tổ chức xã hội địa phương cùng với gia đình phải đón nhận các em với sự cảm thông chia sẻ về quá khứ của các em, phải giúp đỡ để họ được trở lại với cuộc sống bình thường, phải giúp đỡ họ khẳng định tư cách của mình trong gia đình và xã hội, trong học tập và lao động. Các nguyên tắc xử lý ngƣời chƣa thành niên phạm tội trong pháp luật hình sự một số nƣớc trên thế giới Người chưa thành niên phạm tội là một hiện tượng, một thực tế tồn tại ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia đều giải quyết vấn đề người chưa thành niên phạm tội theo những mức độ, cách thức khác nhau tùy theo điều kiện, phong tục, tập quán và pháp luật mỗi nước. Cũng giống như ở Việt Nam, Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa Liên bang Nga năm 1996 sửa đổi, bổ sung năm 2010 cũng xây dựng một chương riêng quy định trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội với những điều luật tương đồng với pháp luật hình sự Việt Nam. Theo đó, trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên là lúc thực hiện tội phạm đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi và "Đối với người chưa thành niên phạm tội có thể quyết định hình phạt hoặc áp dụng biện pháp giáo dục bắt buộc" [70, Điều 88] và điều kiện để áp dụng biện pháp giáo dục là người chưa thành niên bị kết án về tội nghiêm trọng, được Tòa án miễn hình phạt khi thấy rằng nếu mục đích của hình phạt chỉ có thể đạt được bằng cách đưa người kết án vào cơ sở giáo dục (Điều 93). Bộ luật hình sự Liên bang Nga không áp dụng hình phạt tù chung thân, tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội (Điều 89), đối với hình phạt tước tự do (tù giam, tù có thời hạn) theo Điều 89 Bộ luật hình sự Liên bang Nga, người chưa thành niên cũng được áp dụng hình phạt nhẹ hơn so với người trưởng thành và chỉ áp dụng đối với người từ 16 tuổi trở lên: "Phạt giam được quyết định đối với người bị kết án chưa thành niên đủ 16 tuổi khi tuyên án, thời hạn từ 1 tháng đến 4 tháng" (đối với người trưởng thành thời hạn phạt giam từ 1 tháng đến 6 tháng - Điều 55); "Phạt tù được quyết định đối với người bị kết án chưa thành niên với thời hạn không quá 10 năm…" (đối với người trưởng thành thời hạn phạt tù không quá 20 năm Điều 57). Về việc hướng dẫn quyết định hình phạt, ngoài việc tuân theo nguyên tắc chung (tính có lỗi của hành vi phạm tội, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ) Bộ luật hình sự Liên bang Nga cũng quy định nguyên tắc riêng khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội: "…cần tính đến điều kiện sống và giáo dục của họ, mức độ phát triển tâm lý, những đặc điểm khác về nhân thân cũng như ảnh hưởng của người lớn đối với họ. Độ tuổi chưa thành niên như một tình tiết giảm nhẹ được cân nhắc cùng với các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ khác" [70, khoản 2, Điều 89]. Cũng giống như pháp luật hình sự của nước ta, Bộ luật hình sự Liên bang Nga cũng quy định về chế định miễn trách nhiệm hình sự và miễn chấp hành hình phạt có điều kiện đối với người chưa thành niên phạm tội. Theo đó, "người chưa thành niên bị kết án về tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng có thể được Tòa án miễn hình phạt và áp dụng biện pháp giáo dục bắt buộc" [70, Điều 92]. Tiếp thu và kế thừa những thành tự của nền tư pháp hình sự người chưa thành niên, Bộ luật hình sự Liên bang Nga đã cụ thể hóa các biện pháp xử lý chuyển hướng (xử lý không theo trình tự tố tụng tư pháp) đối với người chưa thành niên, với các hình thức: Cảnh cáo, giao cho cha mẹ hoặc người thay cha mẹ hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền, buộc bồi thường thiệt hại gây ra, hạn chế sự nhàn rỗi và đặt ra những đòi hỏi riêng đối với cư xử người chưa thành niên. (Điều 90, 91). Điểm đặc biệt của Bộ luật hình sự Liên bang Nga là "trong trường hợp đặc biệt, Tòa án cân nhắc tính chất của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội có thể áp dụng chương này đối với người phạm tội ở lứa tuổi từ 18 đến 20 tuổi, trừ biện pháp giáo dục hoặc chữa bệnh dành riêng cho người chưa thành niên" '[70, Điều 96], việc mở rộng đối tượng hưởng chính sách xử lý người chưa thành niên phạm tội đối với những người đã thành niên từ độ tuổi 18 đến 20 tuổi (trong trường hợp đặc biệt) thể hiện tính nhân văn trong pháp luật của Bộ luật hình sự Liên bang Nga, nó vẫn tạo điều kiện cho những người phạm tội tuổi đời còn trẻ có cơ hội được sửa chữa lỗi lầm, hoàn thiện bản thân để trở về cộng đồng, đóng góp cho xã hội. Không giống như pháp luật hình sự của Cộng hòa Liên bang Nga, pháp luật hình sự của Thái Lan không quy định chính sách hình sự đối với người chưa thành niên thành hệ thống chương, điều khoản cụ thể mà nó được nằm rải rác ở những điều luật khác nhau. Theo Điều 72 Bộ luật hình sự Thái Lan, thì một đứa trẻ chưa đến 7 tuổi cũng bị áp dụng hình phạt vì những tội đã được pháp luật quy định. Trẻ em từ 7 đến 14 tuổi nếu phạm tội cũng bị xét xử và có thể chịu hình phạt tù nhưng Tòa án sẽ quyết định biện pháp xử lý đặc biệt bằng cách đưa vào một trường cải tạo hoặc gửi trẻ em đó cho một người hay một cơ quan nào mà Tòa án thấy có khả năng thích hợp với việc cải tạo, giáo dục trẻ em đó (Điều 74 Bộ luật hình sự Thái Lan). Người chưa thành niên từ 14 đến 17 tuổi có thể bị phạt và được hưởng hình phạt đặc biệt. Trong trường hợp ở độ tuổi này, trước khi xét xử, tuyên án, Tòa án bao giờ cũng xem xét kỹ hoàn cảnh, nhân thân và môi trường của người đó (Điều 75 Bộ luật hình sự Thái Lan). Mục đích tố tụng tư pháp với người chưa thành niên là tạo cho họ một cơ hội để sửa chữa, thay đổi hành vi và mong muốn sau cùng là giúp họ trở thành những công dân tốt cho xã hội chứ không nhằm vào mục đích xử phạt các em như xử phạt người lớn. Ở Thái Lan, ngày 28/1/1952, Thái Lan đã thành lập Tòa án người chưa thành niên trung ương. Mục đích của việc thành lập Tòa án này là: Dành cho trẻ em và những người chưa thành niên dưới 18 tuổi một biện pháp xử lý đặc biệt khi họ vi phạm pháp luật hình sự. Tuy nhiên, thẩm quyền của Tòa án người chưa thành niên còn được phép giải quyết một số trường hợp tranh chấp gia đình liên quan tới hạnh phúc và lợi ích của trẻ em và người chưa thành niên [60]. Còn tại Nhật Bản, có Luật người chưa thành niên, nhưng phân tòa người chưa thành niên của Tòa án gia đình giải quyết các vụ việc liên quan đến người dưới 20 tuổi. Mục đích của Luật người chưa thành niên là không trừng phạt những người chưa thành niên phạm tội mà giúp đỡ cho họ phát triển tốt, tiến hành những biện pháp bảo vệ để thay đổi tính cách của người chưa thành niên phạm tội và tạo ra một môi trường giáo dục để điều chỉnh người chưa thành niên đã chót mắc phải sai lầm. Luật người chưa thành niên của Nhật Bản cho phép người chưa thành niên khi bị đưa ra xét xử tại Tòa án gia đình được có một hoặc hai người đại diện. Luật không quy định chi tiết các bước tiếp theo cần tiến hành như thế nào mà chỉ đưa ra chung rằng Tòa án gia đình phải tiến hành xét xử trên cơ sở "chân tình, có lợi" cho người chưa thành niên và "cần có mọi cố gắng để bảo vệ cho được những thuộc tính cao đẹp nhất của người chưa thành niên và để cho người chưa thành niên có niềm tin" và việc xét xử cần tiến hành công khai. Ở Hà Lan, lịch sử phát triển của chế tài áp dụng đối với người chưa thành niên trong Luật hình sự của Hà Lan đã góp phần tích cực vào việc hoàn thiện ngành luật hình sự của Hà Lan. Từ những yêu cầu thực tế của các cơ quan chức năng, cùng với những biến đổi của xã hội, việc nghiên cứu để tìm ra những chế tài thay thế là quan trọng và cần thiết. Khi người chưa thành niên phạm tội, người ta cân nhắc và áp dụng các chế tài thay thế, chỉ được phép tiến hành theo thủ tục tố tụng hình sự khi không còn cơ hội nào để có thể áp dụng chế tài thay thế. Trong vòng 10 năm qua, chế tài thay thế đã được áp dụng thường xuyên hơn đối với những vụ việc liên quan tới người chưa thành niên. Các chế tài thay thế áp dụng đối với người chưa thành niên không chỉ thay thế hình phạt tù mà còn thay thế cả những hình phạt truyền thống đang tồn tại như hình phạt tiền hay án treo. Có hai loại chế tài thay thế khác nhau được áp dụng với người chưa thành niên, đó là các dự án công tác (dịch vụ của cộng đồng đối với người chưa thành niên) và các dự án đào tạo. Mục tiêu chung của các chế tài thay thế là tăng cường hệ thống giáo dục và hệ thống quản lý xét xử người chưa thành niên mà hệ thống này sẽ giúp cho các em hạn chế được tái phạm. Một mặt các chế tài thay thế hạn chế được việc áp dụng những chế tài truyền thống. Bởi lẽ, việc bỏ tù hay tống giam không đem lại sự thay đổi hành vi của các em theo hướng tốt nếu không muốn nói là có tác động ngược lại do sự tách biệt tạm thời môi trường tốt của gia đình, nhà trường và xã hội. Mặt khác, chế tài thay thế còn góp một phần tích cực vào hệ thống giáo dục cải tạo đối với người chưa thành niên bởi những nguyên tắc cụ thể đã được chú trọng tới trong quá trình giáo dục cải tạo của từng đối tượng vi phạm. Chính bản thân các em, về nguyên tắc phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với những hành vi của mình và cũng chính các em phải thực hiện những nhiệm vụ cụ thể đem lại lợi ích không chỉ cho riêng mình mà còn mang lại lợi ích cho người khác. Các thủ tục hình sự chỉ được phép tiến hành áp dụng khi không còn cơ hội nào để có thể áp dụng chế tài thay thế. Các chế tài thay thế có thể áp dụng thay thế cho tất cả các loại tội phạm do người chưa thành niên gây ra và có thể áp dụng với bất cứ đối tượng người chưa thành niên nào vi phạm (từ vi phạm lần đầu hay tái phạm cho đến tội phạm là nam hay nữ). Như vậy có thể thấy rằng, ở mỗi quốc gia, tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội, lịch sử lập pháp, truyền thống và các yếu tố về tâm - sinh lý của con người, cũng như về tình hình phạm tội và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm ở người chưa thành niên mà có những quy định về độ tuổi, mức độ chịu trách nhiệm hình sự, thủ tục, cách thức xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên khác nhau. Song không thể phủ nhận một điều, đó là mục đích xem xét, xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên nhằm tạo điều kiện tốt nhất để các em sửa chữa sai lầm, phấn đấu trở thành người có đức, có tài giúp ích cho xã hội. Pháp luật của các nước đều hướng tới bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên từ mọi góc độ và pháp luật hình sự nước ta cũng không phải là ngoại lệ. Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành đã quy định tại Điều 69 sáu nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội, thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta, coi việc giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm để trở thành công dân có ích là việc làm quan quan trọng nhất mà mọi cá nhân, tổ chức phải có trách nhiệm. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật, các nguyên tắc trong cũng bộc lộ một số bất cập, tình trạng các cơ quan thực thi pháp luật mới chỉ chú trọng tới công tác chống tội phạm còn chưa chú ý về công tác phòng ngừa, bên cạnh đó các quy định về xử lý người chưa thành niên còn chung chung dẫn đến nhận thức giữa các cơ quan tiến hành tố tụng còn khác nhau. Chương 2 NỘI DUNG CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH NỘI DUNG CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH Trẻ em là đối tượng chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như tâm, sinh lý, họ bị hạn chế về trình độ nhận thức cũng như kinh nghiệm sống, thiếu những điều kiện về bản lĩnh, tự lập, khả năng tự kìm chế chưa cao nên họ dễ bị kích động, lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm. Do đó, ngay trong lời nói đầu của Công ước về quyền trẻ em năm 1989 ghi nhận: "Trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ cần được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt, kể cả bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời" [33]. Bên cạnh đó, quan điểm dành ưu tiên cho trẻ em, đặt vấn đề trẻ em lên trước luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm. Lúc sinh thời, Người cho rằng ưu tiên cho trẻ em chính là thực hiện quan điểm coi con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi chủ trương chính sách phát triển trước hết phải hướng vào mục tiêu con người. Người đã giải thích rất ngắn gọn và dễ hiểu: "Con người là vốn quý nhất mà thiếu niên, nhi đồng lại là cái vốn quý nhất trong cái vốn quý nhất đó" [39, tr. 133], cho đến ngày nay, quan điểm này vẫn luôn là sợi chỉ đỏ, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước ta đặc biệt là trong hoạt động chăm sóc và giáo dục trẻ em, ngay cả khi các em vì những tác động xã hội, bị mặt trái của nền kinh tế thị trường đẩy vào con đường tội phạm, thì các em vẫn luôn là "vốn quý nhất trong cái vốn quý nhất đó". Trách nhiệm của chúng ta, của những người làm pháp luật, nghiên cứu pháp, của những nhà lập pháp và thi hành pháp luật là phải tiếp tục giáo dục, giúp đỡ các em trở thành người có đức, có tài, thành công dân có ích cho xã hội, để các em vẫn mãi luôn là "người chủ của nước Việt Nam". Kế thừa những quan điểm trên, Nhà nước Việt Nam đã đặt ra nguyên tắc riêng khi xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên, đó là những nguyên tắc cơ bản có tính chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình xử lý người chưa thành niên phạm tội. Cụ thể, tại Điều 69 Bộ luật hình sự ghi nhận các nguyên tắc sau đây. Nguyên tắc thứ nhất - Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra phạm tội. Như vậy các nhà lập pháp hình sự đã xác định một cách trực tiếp trong Bộ luật hình sự mục đích của việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm khuyết điểm, trở thành công dân có ích cho xã hội, chứ không đề cập trực tiếp đến mục đích trừng trị. Điều này khác với quy định về mục đích của hình phạt và mục đích của Bộ luật hình sự nói chung. Điều 27 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người vi phạm tội mà còn nhằm giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội" [54]. Như vậy, theo quy định tại Điều 27, dù muốn hay không, đối với người phạm tội nói chung, mục đích của việc truy cứu trách nhiệm hình sự, mục đích của việc áp dụng hình phạt xét cho cùng vẫn có tính chất trừng trị. Đối với người chưa thành niên phạm tội, điều luật đề cập một cách chung nhất nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội chủ yếu là nhằm giáo dục giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm khuyết điểm. Do đó cũng cần hiểu rằng, đối với người chưa thành niên, mặc dù hành vi họ thực hiện bị Bộ luật hình sự coi là phạm tội nhưng việc có đưa ra truy tố xét xử hay không là vấn đề mà các cơ quan chức năng cần phải cân nhắc, và ngay từ giai đoạn xử lý đầu tiên đó mục tiêu giáo dục giúp đỡ người chưa thành niên phạm tội phải được đặt lên hàng đầu. Để thực hiện được nguyên tắc này, đòi hỏi các cơ quan tố tụng ngoài việc phải làm rõ những vấn đề được quy định tại Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự như xác định hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất mức độ của hành vi phạm tội… thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải làm rõ khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ thực hiện, nguyên nhân, điều kiện gây ra tội phạm để từ đó quyết định có đưa ra truy tố hay không? Nếu có thì phải áp dụng những biện pháp làm triệt tiêu nguyên nhân và điều kiện của tội phạm để nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tội phạm do người chưa thành niên gây ra. Điều này hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Điều 27 Bộ luật tố tụng hình sự: "Trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án có nhiệm vụ tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa" [55], trong phạm vi chức trách của mình, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể ban hành kiến nghị yêu cầu các cơ quan, tổ chức khắc phục những điều kiện, nguyên nhân phạm tội và những kiến nghị này phải được tôn trọng, chấp hành bằng các biện pháp nghiệp vụ như yêu cầu tự kiểm tra, phúc tra việc thực hiện kiến nghị. Như vậy, nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng mà trước hết là những Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán trực tiếp thụ lý giải quyết vụ án người chưa thành niên phạm tội ngoài việc phải chứng minh hành vi phạm tội và những tình tiết liên quan phải nắm rõ tâm lý, nhận thức của người chưa thành niên, điều kiện và nguyên nhân phạm tội của các em để có biện pháp xử lý vừa đảm bảo việc giáo dục, giúp đỡ các em sửa chữa sai lầm, vừa bảo đảm được việc phòng ngừa chung. Nguyên tắc thứ hai - Người chưa thành niên có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục. Căn cứ vào Điều 12 Bộ luật hình sự, đối tượng áp dụng nguyên tắc này là người chưa thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vì người chưa thành niên ở độ tuổi từ 14 đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng. Ở độ tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi về nguyên tắc người chưa thành niên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm mà họ đã thực hiện. So với điều kiện miễn trách nhiệm của người phạm tội đã thành niên, nguyên tắc thứ hai quy định điều kiện miễn trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội thấp hơn rất nhiều. Miễn trách nhiệm hình sự là không bắt buộc một người phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mà người đó đã phạm. Về nguyên tắc, một người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn một trong những điều kiện sau đây: + Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người vi phạm tội được phát giác, người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. + Trước khi hành vi phạm tội được phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện, điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm. + Khi có quyết định đại xá. Với nội dung các điều kiện trên cho thấy, miễn trách nhiệm hình sự là trong những chế định thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta, nó được đặt ra trong một số trường hợp nếu xét thấy không cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự, không cần buộc họ phải chịu hình biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt mà vẫn bảo đảm được yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm, vẫn đảm bảo được yêu cầu giáo dục người phạm tội để họ trở thành người có ích cho xã hội. Điều kiện để miễn trách nhiệm hình sự nói chung, dù là điều kiện khách quan do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, hay là điều kiện chủ quan: Sự tích cực chủ động "tự thú, khai rõ sự việc góp phần có hiệu quả trong việc điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế mức thấp nhất hậu quả của tội phạm" thì cũng đều có một tính chất chung là làm mất đi tính nguy hiểm hoặc là nguy hiểm của hành vi phạm tội. Đối với người chưa thành niên phạm tội, như chúng tôi đã trình bày ở nguyên tắc trên, các điều kiện mà Bộ luật hình sự quy định cho phép miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên ...
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.