Luận văn Thạc sĩ Kinh tế tài nguyên thiên nhiên và môi trường: Phân tích kinh tế trên cơ sở luật và chính sách môi trường

pdf
Số trang Luận văn Thạc sĩ Kinh tế tài nguyên thiên nhiên và môi trường: Phân tích kinh tế trên cơ sở luật và chính sách môi trường 79 Cỡ tệp Luận văn Thạc sĩ Kinh tế tài nguyên thiên nhiên và môi trường: Phân tích kinh tế trên cơ sở luật và chính sách môi trường 1 MB Lượt tải Luận văn Thạc sĩ Kinh tế tài nguyên thiên nhiên và môi trường: Phân tích kinh tế trên cơ sở luật và chính sách môi trường 2 Lượt đọc Luận văn Thạc sĩ Kinh tế tài nguyên thiên nhiên và môi trường: Phân tích kinh tế trên cơ sở luật và chính sách môi trường 22
Đánh giá Luận văn Thạc sĩ Kinh tế tài nguyên thiên nhiên và môi trường: Phân tích kinh tế trên cơ sở luật và chính sách môi trường
4.6 ( 8 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 79 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Luận văn thạc sỹ Trang 1 Ngành: Kinh tế TNTN&MT MỞ ĐẦU I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Ngày nay, khi nhắc đến môi trường chúng ta luôn đi kèm với sự ô nhiễm bởi các chất hoá học, sinh học… gây ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ con người, các cơ thể sống khác. Ô nhiễm môi trường được chia thành ba dạng cơ bản như sau: Ô nhiễm môi trường đất Là hậu quả các hoạt động của con người làm thay đổi các nhân tố sinh thái vượt qua những giới hạn sinh thái của các quần xã trong đất. Với nhịp độ gia tăng dân số và tốc độ phát triển công nghiệp và hoạt động đô thị hoá như hiện nay thì diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, chất lượng đất ngày càng bị suy thoái. Riêng chỉ với ở Việt Nam, thực tế suy thoái tài nguyên đất là rất đáng lo ngại và nghiêm trọng. Ô nhiễm môi trường nước Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều xấu đi các tính chất vật lý - hoá học - sinh học của nước, với sự xuất hiện hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con người và sinh vật. Làm giảm độ đa dạng sinh vật trong nước. Xét về tốc độ lan truyền và quy mô ảnh hưởng thì ô nhiễm nước là vấn đề đáng lo ngại hơn ô nhiễm đất. Ở các đại dương, nguyên nhân chính gây ô nhiễm đó là các sự cố tràn dầu. Ô nhiễm nước có nguyên nhân từ các loại chất thải và nước thải công nghiệp được thải ra lưu vực các con sông mà chưa xử lý đúng mức; các loại phân bón hoá học và thuốc trừ sâu ngấm vào nguồn nước ngầm và nước ao hồ; nước thải sinh hoạt được thải ra từ các khu dân cư ven sông. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT Luận văn thạc sỹ Trang 2 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Ô nhiễm không khí Ô nhiễm không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây ra sự toả mùi, có mùi khó chịu, giảm tầm nhìn xa do bụi. Hiện nay, ô nhiễm khí quyển là vấn đề thời sự nóng bỏng của cả thế giới chứ không phải riêng của một quốc gia nào. Môi trường khí quyển đang có nhiều biến đổi rõ rệt và có ảnh hưởng xấu đến con người và các sinh vật. Những vấn đề nổi cộm trên cho thấy, nhân loại đã bị đặt vào một bài toán vô cùng khó khăn để khắc phục và làm giảm các tác động của ô nhiễm tới môi trường sống. Để giải quyết tương đối bài toán này, một công cụ hữu hiệu nhất là sử dụng Luật Môi trường. Tại Việt Nam, Luật Bảo vệ Môi trường được ban hành đầu tiên vào ngày 27 tháng 12 năm 1993. Đến ngày 29 tháng 11 năm 2005, Luật Bảo vệ Môi trường số 52/2005/QH11 đã sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ Môi trường năm 1993. Đến nay đã trải qua 18 năm thi hành và có bổ sung, sửa đổi, cùng nhiều văn bản hướng dẫn, triển khai, nhưng so với các nước phát triển, lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam còn khá mới và chỉ được quan tâm đặc biệt trong khoảng 5 năm trở lại đây do yêu cầu quản lý môi trường trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Bởi vậy, pháp luật về bảo vệ môi trường chưa điều chỉnh hết các mối quan hệ trong xã hội, một số văn bản còn chưa được ban hành hoặc đã ban hành nhưng không sát với thực tế, thiếu tính khả thi, không thể thi hành được. II. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI Sử dụng các mô hình kinh tế để phân tích, đo lường giá trị thiệt hại nhằm nâng cao hiệu lực của Luật và Chính sách môi trường, phục vụ cho công tác quản lý vi mô, vĩ mô. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT Luận văn thạc sỹ Trang 3 Ngành: Kinh tế TNTN&MT III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Dựa trên cơ sở kinh tế Phúc lợi, kinh tế Vi mô, kinh tế tài nguyên thiên nhiên và môi trường, Luật và Chính sách môi trường. IV. CÁCH TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu: Các tác động về mặt kinh tế của Luật và Chính sách môi trường. Nghiên cứu lý thuyết, sử dụng các công cụ, chỉ tiêu, biện pháp môi trường để phân tích. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT Luận văn thạc sỹ Trang 4 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Chương I TỔNG QUAN Hệ thống pháp luật Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, định hướng và mục đích của pháp luật có mối liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau, được phân định thành các ngành luật, các chế định pháp luật và được thể hiện trong các văn bản do cơ quan Nhà nước Việt Nam có thẩm quyền ban hành theo những hình thức, thủ tục nhất định. Việc gọi tên hệ thống pháp luật có nhiều quan điểm khác nhau, trong đó, có quan điểm cho rằng, hệ thống pháp luật bao gồm hai bộ phận là công pháp và tư pháp, quan điểm khác cho rằng cần phải phân biệt hai khái niệm: Hệ thống pháp luật và hệ thống pháp luật thực định và quan điểm chỉ có một khái niệm hệ thống pháp luật, không thể phân biệt rõ nét hai khái niệm hệ thống pháp luật và hệ thống pháp luật thực định. Theo quan điểm này, hệ thống pháp luật có nội dung rất rộng, bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành và những nguồn khác nữa của pháp luật tồn tại trên thực tế mà dựa trên cơ sở đó tính hiện thực của pháp luật đựơc bảo đảm và pháp luật phát huy hiệu lực. Theo quan điểm này hệ thống pháp luật là một khái niệm chung bao gồm hai mặt cụ thể là: Hệ thống cấu trúc của pháp luật và hệ thống văn bản pháp luật (hệ thống nguồn của pháp luật). Hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam bao gồm: Hiến pháp do Quốc hội ban hình và luật (bộ luật) do Quốc hội thông qua và Chủ tịch nước ký quyết định ban hành. Có thể kể một số bộ luật như: Luật sở hữu trí tuệ, luật hình sự, luật trách nhiệm dân sự, luật hợp đồng và luật bảo vệ môi trường. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT Luận văn thạc sỹ 1.1. Trang 5 Ngành: Kinh tế TNTN&MT LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT NAM Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, được Quốc hội Việt Nam khoá XI trong kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 và có hiệu lực vào ngày 01 tháng 7 năm 2006, là luật quy định về quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và việc bảo hộ các quyền đó. 1. Quyền sở hữu trí tuệ: quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. 2. Quyền tác giả: quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. 3. Quyền liên quan đến quyền tác giả: quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. 4. Quyền sở hữu công nghiệp: quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. 5. Quyền đối với giống cây trồng: quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu. 6. Tên thương mại: tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT Luận văn thạc sỹ 1.2. Trang 6 Ngành: Kinh tế TNTN&MT LUẬT HÌNH SỰ Khái niệm luật hình sự nói về những luật có chung tính chất là xác định những hành vi (tội) mà xã hội đó không muốn xảy ra, và đề ra những hình phạt riêng biệt và nặng nề hơn bình thường nếu thành viên xã hội đó phạm vào. Tùy theo loại tội và thẩm quyền, sự trừng phạt (về mặt) hình sự bao gồm tử hình, giam giữ, bị quản thúc hoặc bị phạt vạ. Những tội cổ xưa như sát nhân (giết người), phản quốc .v.v. luật hình sự nơi nào cũng có. Nhưng cũng có nhiều tội ở nước này đưa vào luật hình sự mà nước khác thì không. Ngay cả trong các bộ luật đôi khi cũng không rõ ràng về ranh giới giữa dân sự và hình sự. Luật hình sự thường được tiến hành khởi tố bởi chính quyền, không giống như luật dân sự thường được tiến hành khởi tố bởi người dân hay các pháp nhân khác. 1.3. LUẬT TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ Luật trách nhiệm dân sự là một nhánh pháp luật giải quyết các tranh chấp giữa các cá nhân và/hoặc các cơ quan tổ chức, theo đó bên bị thiệt hại có thể được đền bù cho những thiệt hại đó. Ví dụ, nếu một nạn nhân bị ôtô đâm đòi người lái xe bồi thường thiệt hại hoặc chấn thương do tai nạn gây ra, đây sẽ là một vụ kiện dân sự. 1.4. LUẬT HỢP ĐỒNG Để cho hợp đồng được ký kết giữa các chủ thể thực hiện có hiệu quả và đảm bảo được sự quản lý của Nhà nước thì Nhà nước ban hành nhiều qui phạm pháp luật để áp dụng trong việc cụ thể hóa các vấn đề của hợp đồng. Như vậy, pháp luật về hợp đồng gồm một hệ thống các văn bản pháp luật khác nhau, trong mỗi văn bản pháp luật đó sẽ bao gồm nhiều điều luật qui Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT Luận văn thạc sỹ Trang 7 Ngành: Kinh tế TNTN&MT định cụ thể hóa các nội dung của hợp đồng, định hình các qui tắc xử sự của các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Từ đó ta có thể kết luận pháp luật về hợp đồng như sau: Pháp luật về hợp đồng là một hệ thống các quy tắc sử xự của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện nhằm bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong hợp đồng. 1.5. LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước, dân tộc và nhân loại; Để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước và trách nhiệm của chính quyền các cấp, các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi cá nhân trong việc bảo vệ môi trường nhằm bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bảo đảm quyền con người được sống trong môi trường trong lành, phục vụ sự nghiệp phát triển lâu bền của đất nước, góp phần bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu; Luật bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua ngày 27/12/1993 và 29/11/2005. Luật này quy định về hoạt động bảo vệ môi trường, chính sách, biện pháp và nguồn lực để bảo vệ môi trường; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong bảo vệ môi trường. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT Luận văn thạc sỹ Trang 8 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Chương II THIẾT LẬP MỤC TIÊU VÀ CHỈ TIÊU SAU KHI KẾT THÚC MỘT CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG 2.1. CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG Chính sách môi trường cụ thể hoá Luật Bảo vệ Môi trường (trong nước) và các Công ước quốc tế về môi trường. Mỗi cấp quản lý hành chính đều có những chính sách môi trường riêng. Nó vừa cụ thể hoá luật pháp và những chính sách của các cấp cao hơn, vừa tính tới đặc thù địa phương. Sự đúng đắn và thành công của chính sách cấp địa phương có vai trò quan trọng trong đảm bảo sự thành công của chính sách cấp trung ương. 2.2. CÁC VẤN ĐỀ CHUẨN TẮC VÀ PHÂN TÍCH CÁC VẤN ĐỀ CHUẨN TẮC Hầu hết các nhà kinh tế đều lập luận rằng hiệu quả kinh tế đạt được khi sự chênh lệch giữa lợi ích và chi phí là tối đa. Điều này chính là một tiêu chí cơ bản để đánh giá các nỗ lực bảo vệ môi trường. Bởi vì xã hội có những nguồn lực có hạn để chi tiêu, phân tích lợi ích - chi phí có thể giúp làm sáng tỏ sự đánh đổi phức tạp để tạo ra các loại đầu tư xã hội khác nhau. Trong thực tế, có những khó khăn đáng kể mà phần lớn là vì những khó khăn vốn có trong việc đo lường lợi ích và chi phí. Ngoài ra, còn có mối quan tâm về sự công bằng và quá trình xem xét công đức, bởi vì các chính sách công chắc chắn liên quan đến người thắng và kẻ thua, ngay cả khi các lợi ích tổng hợp vượt quá chi phí tổng hợp. 2.2.1. Tiêu chuẩn đánh giá chính sách môi trường Hơn 100 năm trước, Vilfredo Pareto đề ra tiêu chuẩn nổi tiếng để đánh giá xem liệu một sự thay đổi của xã hội ví dự như chính sách công cộng, có làm cho thế giới tốt đẹp hơn không: Một sự thay đổi là Pareto hiệu quả nếu có Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT Luận văn thạc sỹ Trang 9 Ngành: Kinh tế TNTN&MT ít nhất một người được làm cho tốt hơn và không ai bị làm nghèo đi (1896). Tiêu chí này có sức hấp dẫn đáng kể. Nhưng hầu như không có chính sách công cộng nào đáp ứng các thử nghiệm là cải thiện Pareto thực sự, bởi vì khi một chính sách công cộng được đưa ra thì chắc chắn có một số người trong xã hội sẽ bị làm cho nghèo đi. Gần 50 năm sau đó, Nicholas Kaldor (1939) và John Hicks (1939) mặc nhiên công nhận một tiêu chí thực dụng hơn đó là xác định "sự cải thiện Pareto tiềm năng:" Tiêu chuẩn này được định nghĩa như sau: Một chính sách công cộng được xác đinh như là cải thiện phúc lợi nếu những người đạt được lợi ích từ sự thay đổi chính sách có thể bù đắp hoàn toàn những kẻ thua cuộc, thậm chí chỉ với (ít nhất) một người thắng cuộc sẽ vẫn tốt hơn là không ai thắng cuộc. Tiêu chuẩn Kaldor-Hicks, một kiểm định xem liệu lợi ích toàn xã hội có vượt quá chi phí toàn xã hội hay không, là nền tảng lý thuyết cho việc sử dụng phương thức phân tích được gọi là lợi ích - chi phí (hoặc giá trị hiện tại ròng) để phân tích. Cả tiêu chuẩn hiệu quả Pareto và tiêu chuẩn Kaldor-Hicks đều không kêu gọi hỗ trợ cho bất kỳ chính sách nào mà lợi ích lớn hơn chi phí. Thay vào đó, chìa khóa để xác định một chính sách có hiệu quả chính là khoảng cách giữa lợi ích và chi phí là lớn nhất. Nếu mục tiêu là để tối đa hóa khoảng cách giữa lợi ích - chi phí (lợi ích ròng), khi đó ∑[ ] Trong đó qi là khối lượng chất thải được xử lý của nguồn i (i=1-N); Bi là hàm lợi ích từ nguồn i; Ci là hàm chi phí từ nguồn i; là mức độ hiệu quả của việc bảo vệ môi trường (xử lý chất thải ô nhiễm môi trường). Điều kiện Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT Luận văn thạc sỹ Trang 10 Ngành: Kinh tế TNTN&MT then chốt nổi bật lên từ việc tối đa hóa bài toán trong phương trình (1) là lợi ích cận biên bằng với chi phí cận biên. Tiêu chuẩn Kaldor-Hicks rõ ràng là thực tế hơn so với tiêu chuẩn nghiêm ngặt của Pareto, nhưng thời gian tồn tại tiêu chuẩn của nó ít bền vững hơn và đã bị bác bỏ từ nhiều phía khác nhau. Các câu hỏi đã được đặt ra về việc liệu lợi ích và thiệt hại xã hội có thể được thể hiện thông qua sự kết hợp đơn giản của việc thay đổi phúc lợi của các cá nhân. Do đó, lưu ý rằng tiêu chuẩn Kaldor-Hicks không được coi là điều kiện cần cũng như điều kiện đủ để đưa ra một chính sách công. Trong những năm gần đây đã có nhiều cuộc tranh luận giữa các nhà kinh tế với nhau và giữa các nhà kinh tế với những người có liên quan mật thiết khác về ý nghĩa của việc thường xuyên sử dụng khái niệm “tính bền vững”. Phát triển bền vững, là quá trình vận hành đồng thời ba bình diện phát triển: Kinh tế tăng triển bền vững, xã hội thịnh vượng, công bằng, ổn định, văn hóa đa dạng và môi trường trong lành, tài nguyên được duy trì bên vững. Do vậy, hệ thống hoàn chỉnh các nguyên tắc đạo đức cho phát triển bền vững bao gồm các nguyên tắc phát triển bền vững trong cả “ba thế chân kiềng” kinh tế, xã hội, môi trường. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.