Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử: Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục kháng chiến kiến quốc (1945-1954)

pdf
Số trang Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử: Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục kháng chiến kiến quốc (1945-1954) 103 Cỡ tệp Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử: Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục kháng chiến kiến quốc (1945-1954) 897 KB Lượt tải Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử: Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục kháng chiến kiến quốc (1945-1954) 1 Lượt đọc Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử: Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục kháng chiến kiến quốc (1945-1954) 8
Đánh giá Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử: Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục kháng chiến kiến quốc (1945-1954)
4.9 ( 11 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 103 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------- PHẠM NGUYÊN PHƯƠNG HỒ CHÍ MINH VỚI SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC KHÁNG CHIẾN KIẾN QUỐC 1945 - 1954 CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM MÃ SỐ: 60 22 56 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. LÊ MẬU HÃN HÀ NỘI, 2007 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU Chương 1. HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC 1 4 DÂN TỘC, DÂN CHỦ Ở NƯỚC TA (1945-1946) 4 1.1. Chính sách ngu dân của thực dân Pháp 1.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo xây dựng nền giáo dục dân tộc, dân 9 chủ những năm 1945-1946 1.2.1. Quan điểm về giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh 9 1.2.2. Chỉ đạo xây dựng nền giáo dục mới 11 Chương 2. HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC KHÁNG CHIẾN KIẾN QUỐC (1946-1954) 21 2.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo xây dựng nền giáo dục kháng chiến 21 kiến quốc những năm 1946-1950 2.1.1. Chủ trương chuyển hướng giáo dục phù hợp với hoàn cảnh kháng 21 chiến 2.1.2. Chỉ đạo xây dựng nền giáo dục kháng chiến kiến quốc 23 2.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo củng cố và phát triển nền giáo dục kháng chiến kiến quốc những năm 1951-1954 2.2.1. Nhiệm vụ mới của kháng chiến và kiến quốc 2.2.2. Chỉ đạo củng cố và phát triển nền giáo dục kháng chiến kiến quốc 44 44 45 Chương 3. Ý NGHĨA THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN TỪ SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC KHÁNG CHIẾN KIẾN QUỐC CỦA HỒ CHÍ MINH 3.1. Ý nghĩa thực tiễn 3.2. Ý nghĩa lý luận 3.3. Bài học kinh nghiệm và kiến nghị KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 59 69 61 63 67 70 74 MỞ ĐẦU 1. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu Nghiên cứu đề tài “Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục kháng chiến kiến quốc (1945-1954)” để thấy được quan điểm và sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nền giáo dục dân tộc, dân chủ phục vụ sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của nhân dân ta trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp như thế nào. Trên cơ sở nghiên cứu như vậy, tìm hiểu giá trị thực tiễn và lý luận từ sự nghiệp xây dựng nền giáo dục kháng chiến kiến quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là sự nghiệp xây dựng nền giáo dục kháng chiến kiến quốc 1945-1954 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hoặc nói cách khác là, sự ra đời, phát triển và thành tựu đạt được của nền giáo dục Việt Nam từ 1945 đến 1954 dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Trên 50 năm qua, nhiều tác giả, phần lớn là cán bộ cao cấp ngành giáo dục đã nghiên cứu về hoạt động giáo dục ở nước ta từ năm 1945 trở lại đây. Điểm tên một số công trình theo thời gian: Năm 1946, Vũ Đình Hòe có bài "Chính sách giáo dục mới và sự tổ chức các bậc học” (in trong quyển “Khoa cử và giáo dục”, Nxb.Văn hoá, Hà Nội, 1993, do Nguyễn Q Thắng soạn); Năm 1947, Nguyễn Khánh Toàn viết cuốn "Giáo dục dân chủ mới" do Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản; năm 1968, Hoàng Ngọc Dy có tập "Giới thiệu mấy nét về đường lối giáo dục của Đảng" NXB Giáo dục phát hành; năm 1990, NXB Giáo dục cho in cuốn "Những bài nói và viết về giáo dục" của Nguyễn Văn Huyên, và cuốn "45 năm phát triển giáo dục Việt Nam" của Phạm Minh Hạc; năm 1992, Phạm Minh Hạc (chủ biên) viết "Sơ thảo lịch sử giáo dục Việt Nam", NXB Giáo dục phát hành. Viết về giáo dục thời kỳ kháng chiến 1945-1954, có bài "10 năm xây dựng nền giáo dục phục vụ nhân dân" của Nguyễn Văn Huyên in trong tin Thông tấn xã Việt Nam tháng 12/1955 và chuyên đề "Quá trình xây dựng và phát triển nền giáo dục Việt Nam mới từ tháng 9/1945 đến tháng 7/1954" của Đỗ Thị Nguyệt Quang (làm luận án tiến sỹ) năm 1996. Những tác phẩm trên nghiên cứu về sự phát triển của nền giáo dục mới của nước ta ở những phương diện tương đối rộng theo phương pháp chung là mô tả và phân tích lịch sử. Đề tài "Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục kháng chiến kiến quốc 1945-1954", với góc độ của Bộ môn Lịch sử Đảng, sẽ nghiên cứu sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với một nhiệm vụ cách mạng quan trọng của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp là nhiệm vụ xây dựng nền giáo dục kháng chiến kiến quốc. Như vậy, đề tài lấy sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng đối với giáo dục kháng chiến kiến quốc làm chủ thể. 4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu Tài liệu: Gồm các văn bản viết và nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục và có liên quan đến giáo dục, các báo cáo, thống kê, ghi chép về giáo dục thời kỳ 1945-1954, các giáo trình và tác phẩm nghiên cứu về giáo dục… Phương pháp: Theo phương pháp lịch sử, mô tả, phân tích các sự kiện về giáo dục theo trình tự thời gian, theo một hệ thống biện chứng, có sự đối chiếu, so sánh để làm rõ logic của mối quan hệ giữa Lãnh tụ và hoạt động giáo dục. 5. Những đóng góp khi nghiên cứu Luận văn mong muốn đóng góp: - Làm rõ công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giáo dục kháng chiến kiến quốc 1945-1954. - Nêu những bài học có giá trị lý luận về giáo dục trên cơ sở tìm hiểu quan điểm giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 2 - Nêu những kiến nghị khả dĩ là giải pháp cho những hạn chế của hoạt động giáo dục hiện nay. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần trung tâm của Luận văn có 3 chương: Chương 1. Hồ Chí Minh với việc xây dựng nền giáo dục dân tộc, dân chủ ở nƣớc ta (1945-1946) Chương 2. Hồ Chí Minh với việc xây dựng nền giáo dục kháng chiến kiến quốc (1946-1954) Chương 3. Ý nghĩa thực tiễn và lý luận từ sự nghiệp xây dựng nền giáo dục kháng chiến kiến quốc của Hồ Chí Minh. 3 Chƣơng 1 HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC DÂN TỘC, DÂN CHỦ Ở NƢỚC TA (1945-1946) 1.1. Chính sách ngu dân của thực dân Pháp Ngày 1-9-1858, thực dân Pháp đã đưa hạm đội nổ súng tấn công vào Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Quân đội của chúng lần lượt chiếm Nam kỳ, Bắc kỳ, Trung kỳ. Triều đình Nhà Nguyễn bạc nhược không thể tổ chức được cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc. Trái lại, họ phản bội dân tộc, từng bước thoả hiệp, đầu hàng kẻ xâm lược bằng những hiệp ước bán nước. Nhân dân Việt Nam với truyền thống bất khuất, đã đứng lên chiến đấu dưới ngọn cờ nghĩa của các sỹ phu yêu nước ở cả ba miền Nam, Trung, Bắc. Nhưng các cuộc khởi nghĩa đó chưa có một đường lối chính trị đúng đắn để phát huy sức mạnh của dân tộc, nên chưa giành được thắng lợi. Việt Nam đã trở thành một thuộc địa của Pháp. Nhân dân Việt Nam mất hết quyền độc lập, tự do, và phải chịu những chính sách thống trị của thực dân Pháp vô cùng xảo quyệt và tàn bạo. Trong đó, ngu dân là một chính sách thống trị độc ác, nham hiểm của thực dân Pháp đối với dân tộc ta. Chính sách này, chúng thực hiện chủ yếu bằng việc kìm hãm và nô dịch nền giáo dục ở Việt Nam. * Dưới thời phong kiến tự chủ, nhân dân ta đã cố gắng tự thu xếp việc học hành của con em mình bằng những trường tư trong dân gian và đã đóng góp nhiều trí thức tài năng cho đất nước. Nhưng “Người Pháp đến đã làm thay đổi tất cả. Đời sống càng ngày càng khó khăn. Thuế má nặng nề, phu dịch thường xuyên. Các gia đình khá giả nay bị sa sút, không còn có thể nuôi thầy đồ dạy học cho con cái mình và con cái những người láng 4 giềng như xưa nữa. Những kẻ nghèo đói thì bị bần cùng, nên họ phải chống đói đã rồi mới có thể nghĩ đến chuyện học hành ” [34,398]. Năm 1906, Toàn quyền Đông Dương Pôn Bô đã ban hành một Nghị định về cải cách giáo dục. Mục đích của cuộc cải cách này là tìm cách xây dựng một nền giáo dục thực dân, dần dần thay thế nền giáo dục bản địa là nền giáo dục mà người Pháp khó kiểm soát. Ở Nam kỳ (theo chế độ thuộc địa của Pháp), đa số các tổng, xã đều có trường tiểu học Pháp-Việt dạy chữ Pháp và chữ quốc ngữ. Chữ Hán hầu như bị bãi bỏ. Ở Trung kỳ và Bắc kỳ là hai xứ thuộc chế độ chính trị bảo hộ và nửa bảo hộ của Pháp, số trường dạy chữ Pháp và chữ quốc ngữ còn thưa thớt, trong khi đó, trường dạy chữ Hán còn khá nhiều, nhất là ở Trung kỳ. Để lợi dụng phong kiến trong hệ thống cai trị và bóc lột, thực dân Pháp để tồn tại chế độ khoa cử của nhà Nguyễn đến gần hết thập kỷ thứ hai của thế kỷ XX. Năm 1906, Pháp đã mở Đại học Đông Dương, song chỉ đào tạo được một năm, sau ngừng đào tạo. Năm 1917, Toàn quyền Đông Dương Anbesarô mở đầu cho cuộc cải cách giáo dục tiếp theo bằng việc ban hành Nghị định “Học chính tổng quy” (gồm 7 chương với 538 điều). Bộ tổng quy về học chính này can thiệp sâu hơn vào hoạt động giáo dục, thâu tóm quyền lực và biểu đạt ý chí nô dịch giáo dục của thực dân Pháp: xoá bỏ nền giáo dục phong kiến, xác lập mô hình giáo dục phổ thông và thực nghiệp ở Việt Nam do thực dân quản lý. Chúng lập ra trường Pháp để dạy học sinh người Pháp theo chương trình của “Chính quốc”, lập ra trường Pháp - Việt dạy cho học sinh người Việt theo chương trình dành cho “bản xứ ” . Năm 1919, nhà cầm quyền Pháp ra lệnh bãi bỏ thi hương, thi hội và cấm các trường tư hành nghề (trừ trường tư Thiên chúa giáo của các cố đạo phương Tây). Chúng cho một số xã đông dân được mở trường sơ học với một vài lớp đầu cấp, một số huyện lỵ, thị trấn, thị xã được mở trường tiểu học 6 năm, một số thành phố lớn mở trường cao đẳng tiểu học 4 năm (như 5 phổ thông cơ sở ngày nay), Hà Nội, Huế, Sài gòn mỗi thành phố được mở một trường cao trung (như trường trung học phổ thông ngày nay). Việc quy định mở trường như vậy là rất độc đoán, ngặt nghèo. Năm 1923, Toàn quyền Đông Dương Méclanh lại thực hiện một cuộc cải cách giáo dục nữa. Cuộc cải cách này thắt chặt hơn, bộc lộ đầu óc thực dân thâm hiểm hơn về chính sách giáo dục. Chúng nói rằng người Việt Nam rất hạn chế về sức học, nên chỉ cần mở trường sơ học là đủ (!). Ở Bắc kỳ cho mở trường “hương học”, ở trung kỳ cho mở trường “dự bị”, ở Nam kỳ cho mở trường “phù trợ dự bị”, ở thị trấn, thị xã được mở lớp “kiêm bị”. Tất cả các hệ thống trường lớp này, về chương trình đều không quá trình độ lớp 4 hiện nay. Còn các trường cao đẳng tiểu học, trường trung học chỉ có ở những thành phố lớn, nhưng số lượng trường hết sức ít ỏi. Ví dụ, ở thành phố Huế có trường Cao đẳng tiểu học Quốc học Huế, ở thành phố Hà Nội có trường Trung học Anbe sarô. Rõ ràng, thực dân Pháp cố tình kìm hãm giáo dục ở nước ta bằng cách hạn chế tối đa việc mở trường. Năm 1921, theo một thống kê được đưa ra công luận là ở xứ An Nam cứ trung bình 1000 làng thì có 10 trường học (trong khi đó lại có 1500 đại lý rượu và thuốc phiện cũng cho bấy nhiêu làng ấy) [34,25]. Năm 1923, nạn thiếu trường học vẫn diễn ra “một cách tệ hại”, “mỗi năm, cứ đến ngày khai trường, các bậc cha mẹ dù có đi gõ cửa khắp nơi, cầu xin mọi sự giúp đỡ, thậm chí xin nộp gấp đôi tiền ăn học mà họ vẫn không gửi được con cái đến trường... Người ta nói rằng ngân sách không đủ cho chính phủ xây thêm trường mới. Không hẳn thế đâu.” [34,154] Năm 1939, được coi là năm đỉnh cao của sự phát triển kinh tế và xã hội ở Đông Dương, mà ở nước ta cũng chỉ có hơn 400.000 học sinh tiểu học, 3000 học sinh trung học, 582 học sinh đại học trên tổng số 23 triệu dân lúc đó [52,160]. Năm học 1941-1942, tức là vào thời điểm sau hơn 80 năm được “khai hoá” về giáo dục, theo Niên giám thống kê Đông Dương, tập 7, năm 1942, người Pháp mới đầu tư mở được 8.775 trường sơ học với 486.362 học sinh, 6 503 trường tiểu học với 58.629 học sinh, 16 trường cao đẳng tiểu học với 5.521 học sinh, 3 trường trung học với 652 học sinh. Năm 1942, bậc sơ học gồm cả trường công và trường tư có 535.037 học sinh, trong khi đó, bậc trung học (không có trường tư vì trường tư không được mở) chỉ có 652 học sinh. Nghĩa là cứ 100 người đi học thì 99 người phải bỏ dở giữa chừng! Việc mở trường cao đẳng và đại học có tính chuyên nghiệp thì nhà cầm quyền lại càng tính toán và hạn chế. Đến cuối năm học 1943-1944, cả Đông Dương chỉ có 1259 sinh viên cao đẳng và đại học ở các trường Y dược, Thú y, Sư phạm, Nông lâm, Công chính, Thương mại, Khoa học, Luật khoa. Trong số 1259 sinh viên, thì sinh viên Luật khoa là 394, Cao đẳng khoa học là 175, Cao đẳng công chính 84, Nông lâm 63, Thú y 39… [14,137]. Rõ ràng người Pháp có dụng ý về mục tiêu đào tạo. Họ cần nhiều sinh viên Luật để bổ sung vào đội ngũ công chức hành chính của bộ máy cai trị. Việc đi du học lại càng ngặt nghèo và thu hẹp. Toàn quyền Đông Dương trực tiếp phê học bạ, xét hồ sơ và quyết định từng trường hợp học sinh An Nam sang học tại Pháp. “Điều 500 (Bis) của nghị định ngày 20 tháng 6 năm 1921 về học chính ở Đông Dương nói như sau: Mọi người bản xứ, vô luận là dân thuộc địa Pháp hay dân do Pháp bảo hộ, muốn sang chính quốc tiếp tục học tập, đều phải được phép của quan toàn quyền. Quan toàn quyền sẽ quyết định sau khi hỏi ý kiến quan thủ hiến và quan giám đốc Nha học chính. Trước khi đi, đương sự phải có một học bạ đại học do Nha học chính cấp, có dán ảnh và ghi rõ lý lịch, địa chỉ cha mẹ, những trường đã học, các học bổng hoặc trợ cấp đã được hưởng, các bằng cấp đã có và địa chỉ người bảo lãnh ở Pháp. Học bạ đó phải được quan toàn quyền phê chuẩn...” [34,155 ]. 7 * Thực dân Pháp chẳng những đã hạn chế việc học hành của dân chúng bằng cách chỉ phổ cập nền giáo dục sơ đẳng “một cách quá bủn xỉn và nhỏ giọt” mà còn chú trọng đưa nội dung nhồi sọ vào chương trình và hoạt động giáo dục “làm cho u mê để thống trị” . Đó là thực trạng và bản chất của nền giáo dục ở Việt Nam thời Pháp thống trị. Nhà cầm quyền Pháp đã cố tâm hủy bỏ Hán học vì chúng thấy Hán học có thể đưa vào Việt Nam những tư tưởng tiến bộ phương Tây qua Trung Quốc và Nhật Bản, Hán học đã đào tạo một lớp sỹ phu lãnh đạo phong trào chống Pháp đầy dũng khí. Do đó, chúng đẩy mạnh việc chiếm độc quyền về giáo dục, để gạt bỏ cái gì là bản lĩnh dân tộc và nhào nặn tinh thần vong bản cho người dân thuộc địa. Nhồi sọ là nội dung căn bản nhất của nền giáo dục nô lệ, của chính sách ngu dân. “Trường học lập ra không phải để giáo dục cho thanh niên An Nam một nền học vấn tốt đẹp và chân thực, mở mang trí tuệ và phát triển tư tưởng cho họ, mà trái lại càng làm cho họ đần độn thêm. Ngoài mục đích giáo dục để đào tạo tùy phái, thông ngôn và viên chức nhỏ đủ cần thiết phục vụ cho bọn xâm lược, người ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa, vì một nền giáo dục như vậy chỉ làm hư hỏng mất tính nết của người đi học, chỉ dạy cho họ một lòng “trung thực” giả dối, chỉ dạy cho họ sùng bái những kẻ mạnh hơn mình, dạy cho thanh niên yêu một Tổ quốc không phải là Tổ quốc của mình và đang áp bức mình. Nó làm cho thanh niên trở nên ngu ngốc. Điều gì có thể rèn luyện được cho học sinh biết suy nghĩ, biết phân tích thì người ta không dạy ở nhà trường. Vấn đề nào có liên quan đến chính trị, xã hội và có thể làm cho người ta tỉnh ngộ đều bị bóp méo và xuyên tạc đi ” [34,399]. Những thủ đoạn độc ác của thực dân Pháp làm cho nhân dân ta bần cùng, khốn khổ không thể đi học được, và cố tình thu hẹp trường lớp để gạt ra hàng loạt những học sinh có năng lực học tập mà không có chỗ học đã dẫn đến một hậu quả hết sức đen tối. “Nạn mù chữ và thất học trầm trọng khắp trong nước: 95% dân chúng không biết đọc, biết viết, số học sinh tiểu học chỉ bằng 0,80% dân số, số học sinh trung học chưa đầy 0,30% dân số” 8
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.