Luận văn: Tăng cường huy động vốn tại Argibank

doc
Số trang Luận văn: Tăng cường huy động vốn tại Argibank 85 Cỡ tệp Luận văn: Tăng cường huy động vốn tại Argibank 603 KB Lượt tải Luận văn: Tăng cường huy động vốn tại Argibank 1 Lượt đọc Luận văn: Tăng cường huy động vốn tại Argibank 12
Đánh giá Luận văn: Tăng cường huy động vốn tại Argibank
4.7 ( 9 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

LỜI NÓI ĐẦU M ục tiêu mà tất cả các quốc gia đều mong muốn vươn tới đó là sự phát triển và thịnh vượng. Song để đạt được điều này, đòi hỏi mỗi nước đều phải tự xây dựng các chính sách kinh tế, chính trị, xã hội sao cho vừa phát huy nội lực, khắc phục được khó khăn và yếu kém vừa tránh được sự tụt hậu xa đối với xu thế chung. Việt Nam đang trong quá trình phát triển, xây dựng nền kinh tế thị trường theo hướng mở, nằm trong khu vực kinh tế Châu Á Thái Bình Dương vấp phải nhiều khó khăn thử thách: nền công nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất phục vụ xây dựng và phát triển kinh tế vừa thiếu vừa lạc hậu, hệ số cơ giới hoá thấp, đội ngũ cán bộ khoa học còn nhiều bất cập về số lượng và trình độ, nền tài chính quốc gia còn quá eo hẹp chưa đáp ứng mức cần thiết nhu cầu phát triển kinh tế xã hội . Trên thực tế, không quá khó khăn khi nhận thức rằng nguồn vốn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế nhưng sẽ là khó khăn khi đi tìm kiếm nó. Câu hỏi đặt ra là: vốn được khơi nguồn từ đâu? Nội lực rất nhiều nhưng có một vấn đề đặt ra: bằng cách nào để khơi thông, thu hút được ? Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế cạnh tranh hiện nay, có rất nhiều chủ thể, thông qua các con đường khác nhau có khả năng cung cấp dẫn vốn đáp ứng nhu cầu về vốn. Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận được là huy động vốn qua các trung gian tài chính Ngân hàng thương mại - là kênh quan trọng nhất, có hiệu quả nhất vì trong thế giới kinh doanh tiền tệ, NHTM được coi là trung gian tài chính quan trọng nhất. Cùng với việc nhận thức về vai trò của nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế đất nước, sau một thời gian thực tập tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội - chi nhánh trực thuộc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, rất quan tâm đến công tác huy động vốn, với phương châm kinh doanh nguồn vốn huy động để nâng cao hoạt động kinh doanh. Em xin chọn đề tài: “Tăng cường huy động vốn 1 tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội”. Với lượng thời gian thực tập, kiến thức hạn chế, kinh nghiệm thực tế chưa có, nhìn nhận một vấn đề lớn sẽ không thể tránh khỏi sai làm thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp của thầy để bài viết của em tốt hơn, hoàn thiện hơn. Kết cấu đề tài gồm 3 chương: Chương I : Hoạt động huy dộng vốn của NHTM. Chương II : Thực trạng huy động vốn tại NHNo & PTNT Hà Nội. Chương III : Giải pháp tăng cường huy động vốn tại NHNo & PTNT Hà Nội Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo Vũ Duy Hào và các anh chị trong phòng nguồn vốn và kế hoạch tổng hợp NHNo & PTNT Hà Nội đã hướng dẫn, chỉ bảo nhiệt tình, giúp em hoàn thành chuyên đề này. Hà nội, ngày tháng năm 2006 Sinh viên thực hiện Phạm Quang Ngọc 2 CHƯƠNG I: HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. 1.1.1. Khái quát về NHTM Hình thức ngân hàng sơ khai, đầu tiên là nhận tiền gửi và cho vay một phần số tiền đó. Hình thức này xuất hiện là do một số người có nhu cầu cất trữ số tiền của mình, trước nhu cầu đó một số thương gia đã đứng ra làm nhiệm vụ trông coi, cất giữ hộ tiền và tiến hành thu phí giữ hộ tiền. Trong quá trình cất giữ hộ, các thương gia đã nhận thấy trong kho cất giữ tiền của mình luôn tồn tại một lượng tiền dư thừa, vì thực tế không bao giờ người gửi tiền lại rút hết tiền và rút tiền cùng một lúc, thường có rất nhiều đến gửi tiền và rút tiền. Trong khi đó, có rất nhiều người có nhu cầu vay vốn để tiến hành hoạt động kinh doanh. Vì vậy các thương gia đã bắt đầu sử dụng một phần tiền thừa trong két ra để đem đầu tư và thu lãi, từ đó họ có thêm một phần lợi nhuận. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đã xuất hiện nhiều hình thức ngân hàng khác nhau, song đến nay ngân hàng đã trở thành một tổ chức kinh doanh tiền tệ chuyên nghiệp mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu vẫn là nhận tiền gửi của khách với cam kết hoàn trả lại đúng số tiền đó cộng thêm một phần lãi và sử dụng số tiền đó để cho vay, đầu tư và thực hiện một số nghiệp vụ khác. Ngân hàng được coi là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng hoá trong kinh tế thị trường, một động lực quan trọng cho sự phát triển của nền sản xuất xã hội.. Vì vậy, mỗi nước đều xây dựng những khung pháp lý quy định, giới hạn hoạt động cuả ngân hàng. Mỗi nước khác nhau sẽ có một khái niệm và mô hình tổ chức ngân hàng khác nhau. Thông thường, người ta phải dựa vào tính chất và mục đích, đối tượng hoạt động của nó trên thị trường tài chính. Luật ngân hàng của Pháp năm 1941 định nghĩa: “ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở hành nghề thường xuên nhận của công chúng dưới hình 3 thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”. Luật ngân hàng của Ấn Độ, năm 1959 bổ sung “ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”. Luật ngân hàng của Đan Mạch, năm 1930 “ Những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân...”. Các cách định nghĩa trên chỉ khác nhau về mặt thể hiện, song phân tích khai thác nội dung đều có một điểm chung là tính chất nhận tiền ký thác - tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, để sử dụng cho vay, chiết khấu và các nghiệp vụ kinh doanh khác. Đối với bản thân Việt Nam, trong bước chuyển đổi sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu có thể đan xen với nhau hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Theo hướng này, nền kinh tế hàng hoá phát triển tất yếu sẽ tạo ra tiền đề cần thiết đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại hình ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Pháp lệnh ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính năm 1990 định nghĩa: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”. Luật các tổ chức tín dụng (luật số 02/1997/QH10) điều 20: “ NHTM là loại hình tổ chức tín dụng được thưc hiện toàn bộ hoạt động kinh doanh khác có liên quan”. Trong đó “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Thông thường, các nước có thể sử dụng các loại mô hình NHTM như sau: mô hình truyền thống và mô hình hiện đại: 4 - Mô hình truyền thống: gồm có các ngân hàng đa năng và các ngân hàng chuyên doanh. - Mô hình phổ biến hiện nay (mô hình hiện đại): gồm có các ngân hàng thương mại - các định chế tài chính lớn, các ngân hàng phát triển, các ngân hàng có quy chế chuyên môn hoá, các ngân hàng có quy chế đặc biệt. Việt Nam, theo luật các tổ chức tín dụng, mỗi loại ngân hàng đều mang những nét đặc trưng phù hợp với điều kiện cuả thời kỳ đầu chuyển đổi của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cụ thể Việt Nam có các loại hình ngân hàng sau: - NHTM quốc doanh: Loại ngân hàng này được coi là chiếm vị thế trong hệ thống tổ chức tín dụng của nước ta. Hình thức sở hữu là doanh nghiệp Nhà nước, thành lập, cấp vốn chịu sự quản lý cuả Nhà nước, hoạt động trong tất cả các lĩnh vực ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, đối với mọi thành phần kinh tế, mọi lĩnh vực sản xuất lưu thông, xây dựng trong và ngoài nước. Hiện nay có 6 ngân hàng quốc doanh là: Ngân hàng công thương, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng người nghèo, Ngân hàng phát triển nhà ở Đồng bằng sông Cửu Long. - NHTM cổ phần: là loại hình ngân hàng phải được thành lập theo luật công ty cổ phần, thuộc sở hữu của các cổ đông, người góp vốn, trên cơ sở tự nguyện của các cổ đông trong việc góp vốn và hoạt động theo luật pháp quy định. - Ngân hàng liên doanh: là loại hình ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh, vốn điều lệ là vốn góp của ngân hàng Việt Nam và ngân hàng nước ngoài có trụ sở chính tại Việt Nam, chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. - Chi nhánh ngân hàng liên doanh: là một bộ phận của ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam chịu sự điều tiết của luật pháp Việt Nam. - Ngân hàng đầu tư: là những ngân hàng tập trung huy động vốn trung, dài hạn và đầu tư trung dài hạn vì sự phát triển, hoạt động đầu tư chủ yếu thông qua các dự án. - Ngân hàng chính sách: thông thường là những NHTM 100% vốn Nhà nước hoặc NHTM cổ phần (sở hữu Nhà nước và các tổ chức kinh tế quốc doanh) được thành lập để phục vụ một hoặc một số chính sách của 5 Nhà nước, nó hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, chênh lệch giữa chi phí huy động vốn và sử dụng vốn sẽ được Nhà nước bù đắp. - Ngân hàng hợp tác: là những tổ chức tín dụng thuộc sở hữu tập thể, được các thành viên tự nguyện thành lập lên không phải vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục tiêu tương trợ lẫn nhau về vốn và các dịch vụ ngân hàng. Nguyên tắc thành lập và hoạt động của loại hình này là tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, tự trang trải mọi chi phí và tự chịu trách nhiệm. 1.1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM. Ngân hàng là một trung gian tài chính, thông qua các nghiệp vụ của mình nhằm điều hoà, cung cấp vốn cho hoạt động của cả nền kinh tế. Với trình độ phát triển của khoa học hiện đại hiện nay, hoạt động của ngân hàng đã ngày càng trở nên phong phú hơn song ngân hàng vẫn luôn duy trì 3 mảng nghiệp vụ cơ bản sau: a. Nghiệp vụ huy động vốn. Đây là nghiệp vụ cơ bản, đầu tiên quan trọng nhất của một ngân hàng. Vốn được ngân hàng huy động dưới nhiều hình thức khác nhau và sử dụng (sau khi đảm bảo một tỷ lệ dự trữ bắt buộc) với trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi. Nguồn vốn của NHTM gồm vốn tự có (vốn chủ sở hữu), vốn vay, vốn khác. Ngân hàng thường sử dụng các nghiệp vụ huy động vốn sau:  Vốn tự có của ngân hàng: là nguồn vốn thuộc sở hữu của riêng các NHTM. Thực tế nguồn vốn này không ngừng tăng lên từ kết quả động kinh doanh của bản thân NHTM, nó đóng góp một phần đáng kể vào hoạt động kinh doanh cuả các NHTM.  Nghiệp vụ tiền gửi: phản ánh các khoản tiền gửi từ các doanh nghiệp vào để thanh toán hoặc nhằm mục đích bảo quản tài sản qua đó NHTM có thể huy động được. Ngoài ra các ngân hàng còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi của các cá nhân hay hộ gia đình gửi vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi.  Nghiệp vụ tiền vay: phản ánh quá trình tạo ra nguồn vốn bằng cách vay các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ và vay ngân hàng trung ương (NHTW) dưới các hình thức tái chiết khấu, vay có bảo đảm... mục đích tạo sự cân đối trong điều hành vốn của bản thân NHTM khi họ không tự cân đối được trên cơ sở khai thác tại chỗ. 6  Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá: Ngân hàng sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn có tính chất dài hạn của ngân hàng vào nền kinh tế. Ngoài ra, nghiệp vụ này còn giúp NHTM tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh doanh của mình.  Nghiệp vụ huy động vốn khác: Thông qua nghiệp vụ này NHTM có thể tạo vốn cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước. b. Nghiệp vụ sử dụng vốn. Ngân hàng là một tổ chức tài chính trung gian “đi vay để cho vay”. Do vậy mối quan tâm hàng đầu của ngân hàng sau khi đã huy động được một lượng vốn là làm sao sử dụng nguồn vốn mà không bị rơi vào tình trạng kẹt vốn. Ngân hàng cần phải nghiên cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn của mình.  Một là, ngân hàng tiến hành cho vay Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM. Theo thống kê, nhìn chung thì khoảng 60%- 75% thu nhập của ngân hàng là từ các hoạt động cho vay. Thành công hay thất bại của một ngân hàng tuỳ thuộc chủ yếu vào việc thực hiện kế hoạch tín dụng và thành công của tín dụng xuất phát từ chính sách cho vay của ngân hàng. Các loại cho vay có thể phân loại bằng nhiều cách, bao gồm: mục đích, hình thức bảo đảm, kỳ hạn, nguồn gốc và phương pháp hoàn trả... Theo mục đích việc cho vay bao gồm: cho vay bất động sản, cho vay thương mại, cho vay cá nhân, cho vay nông nghiệp, cho vay thuê mua và khác. Theo kỳ hạn: ngân hàng cung cấp các loại cho vay ngắn hạn (loại cho vay này nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán tạm thời, tiêu dùng và đầu tư ngắn hạn, thời hạn dưới 1 năm); cho vay trung và dài hạn (loại cho vay này phục vụ mục tiêu đầu tư trung và dài hạn của khách hàng, thời hạn thường trên 1 năm). 7 Theo hình thức bảo đảm, khoản mục cho vay sẽ bao gồm:  Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp; tài sản cầm cố; được sự bảo lãnh của của người thứ ba.  Cho vay không có bảo đảm (tín chấp): là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa trên uy tín của bản thân khách hàng. Theo phương pháp hoàn trả, khoản mục cho vay sẽ bao gồm:  Cho vay trả góp (khách hàng phải trả vốn gốc và lãi theo định kỳ).  Cho vay phi trả góp (khách hàng thanh toán một lần theo kỳ hạn đã thoả thuận).  Cho vay hoàn trả theo yêu cầu (khách hàng vay có thể hoàn trả bất cứ lúc nào khi có thu nhập).  Hai là tiến hành đầu tư Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện của hàng loạt những nhu cầu khác nhau. Với tư cách là một chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ dịch vụ, đòi hỏi Ngân hàng phải luôn nắm bắt được thông tin, đa dạng các nghiệp vụ để cung cấp đầy đủ kịp thời nguồn vốn cho nền kinh tế. Ngoài hình thức phổ biến là cho vay, ngân hàng còn sử dụng vốn để đầu tư. Có 2 hình thức chủ yếu mà các ngân hàng thương mại có thể tiến hành là: Đầu tư vào mua bán kinh doanh các chứng khoán hoặc đầu tư góp vốn vào các doanh nghiệp, các công ty khác.  Đầu tư vào trang thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.   Ba là nghiệp vụ ngân quỹ. Lợi nhuận luôn là mục tiêu cuối cùng mà các chủ thể khi tham gia tiến hành sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đằng sau mục tiêu lớn lao ấy là hàng loạt các nhân tố cần quan tâm. Một trong những nhân tố đó là tính an toàn. Nghề ngân hàng là một nghề kinh doanh đầy mạo hiểm, trong hoạt động của mình, ngân hàng không thể bỏ qua sự “an toàn”. Vì vậy, ngoài việc cho vay và đầu tư để thu được lợi nhuận, ngân hàng còn phải sử dụng một phần nguồn vốn huy động được để đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện các quy định về dự trữ bắt buộc do Trung ương đề ra. 8 c. Nghiệp vụ khác. Là trung gian tài chính, ngân hàng có rất nhiều các lợi thế. Một trong những lợi thế đó là hình thức ngân hàng đóng vai trò trung gian tiến hành các hoạt động thanh toán cho khách hàng thông qua các hình thức như séc, thẻ thanh toán uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hoặc dựa trên việc hạch toán vào các tài khoản có liên quan đến đối tượng đó. Cụ thể:  Dịch vụ thanh toán hộ: trên cơ sở khách hàng gửi tiền và mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng, ngân hàng có thể đứng ra thanh toán hộ cho khách hàng của mình về các khoản tiền mua bán, dịch vụ thông qua việc thu hộ, chi hộ khách hàng bằng các hình thức trên.  Dịch vụ môi giới, mua, bán chứng cho khách hàng và làm đại lý phát hành chứng khoán cho công ty.  Các nghiệp vụ trung gian khác: dịch vụ uỷ thác, bảo quản hộ các chứng từ có giá cho khách hàng thuê két sắt. Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện một số dịch vụ trung gian khác. Tóm lại, ba nghiệp vụ trên nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho ngân hàng tồn tại và phát triển vững mạnh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Vì các nghiệp vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ thường xuyên tác động qua lại với nhau. Nguồn vốn huy động ảnh hưởng tới quyết định sử dụng vốn, ngược lại nhu cầu sử dụng vốn ảnh hưởng tới quy mô, cơ cấu của nguồn vốn huy động. Các nghiệp vụ trung gian tạo thêm thu nhập cho ngân hàng nhưng mục đích chính là thu hút khách hàng, qua đó tạo điều kiện cho việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả. 1.1.3. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế. NHTM ra đời do yêu cầu của sự phát triển của nền kinh tế: cơ sở nền sản xuất và lưu thông hàng hoá, và nền kinh tế ngày càng phát triển càng cần đến hoạt động của các NHTM. Thông qua việc thực hiện các chức năng, vai trò của mình nhất là chức năng trung gian tín dụng NHTM đã trở thành một bộ phận thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Sự đóng góp này thể hiện như sau:  Thứ nhất ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế. Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và Nhà nước trong nền kinh tế. Theo sự suy luận này, muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân, giảm nhịp độ tiêu dùng. Tăng 9 thu nhập quốc dân đồng nghĩa với việc mở rộng quy mô về cả chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hoá, song khi đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế cần thiết phải có vốn. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển sẽ tạo ra càng nhiều nguồn vốn. Ngân hàng huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế (vốn tạm thời nhàn rỗi được giải phóng từ quá trình sản xuất, từ nguồn tiết kiệm của dân cư...) thông qua các nghiệp vụ đặc biệt là tín dụng, ngân hàng thương mại đã cung cấp vốn cho nền kinh tế, đáp ứng đầy đủ kịp thời cho quá trình tái sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế. Vì vậy, chúng ta có thể khẳng định chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính là ngân hàng thương mại.  Thứ hai, ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường . Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế trong quá trình vận động chịu tác động của rất nhiều các quy luật kinh tế khách quan như quy luật cung, cầu, cạnh tranh. Do vậy, nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, cải tiến máy móc trang thiết bị, tìm tòi sử dụng các nguyên vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp chính là nhân tố quan trọng giúp doanh nghiệp đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu của thị trường. Vì những hoạt động này đòi hỏi khối lượng vốn lớn (thông thường vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp). Giải quyết khó khăn này, doanh nghiệp có thể tìm đến với ngân hàng xin vay vốn. Hoạt động tín dụng đã khiến ngân hàng trở thành chiếc cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường, tạo chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh của ngân hàng.  Thứ ba, NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, hoạt động của NHTM nếu có hiệu quả sẽ thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong hệ thống, các NHTM đã góp phần mở rộng hay thu hẹp lượng tiền trong lưu thông. Hơn nữa, bằng việc cấp các khoản tín dụng cho nền kinh tế, NHTM thực hiện việc dắt dẫn các luồng tiền, tập hợp, phân chia vốn của thị trường điều khiển chúng một cách có hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết vĩ mô đúng theo phương châm “Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”. 10  Thứ tư, NHTM là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế. Xu thế chung hiện nay là toàn cầu hoá, khu vực hoá, sự phát triển của các quốc gia không thể tách rời, độc lập riêng biệt mà luôn cần phải có sự gia lưu hợp tác tương trợ lẫn nhau. Chính xu thế đó đã khiến các quốc gia tuy cách xa nhau về mặt địa lý vẫn xích lại gần nhau hơn. Bởi sự phát triển của nền kinh tế mỗi quốc gia luôn gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận không thể thiếu, cấu thành nên sự phát triển đó. NHTM với các hoạt động nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ khác nó đã góp phần thúc đẩy ngoại thương mở rộng, thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế. 1.2. HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 1.2.1. Khái niệm về vốn của ngân hàng thương mại. NHTM là một trung gian tài chính, ở mỗi nước khác nhau các trung gian tài chính lại được phân chia khác nhau. Tuy nhiên, luôn tồn tại một điểm chung là vai trò chủ đạo của các ngân hàng thương mại đóng góp khối lượng tài sản và tầm quan trọng đối với nền kinh tế. Để có được vị trí đó NHTM phải đặt yếu tố lợi nhuận lên hàng đầu và công cụ duy nhất mà các NHTM phải có trước tiên là vốn. Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc để thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Về thực chất, thì nguồn vốn của ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở hữu để thực hiện các mục đích khác nhau gửi vào ngân hàng. Như vậy ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. 11 1.2.2. Phân loại nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, thu được lợi nhuận cao là một doanh nghiệp biết tận dụng mọi “khả năng”, nắm bắt thông tin chớp mọi thời cơ. Với ngân hàng, “khả năng” hàm chứa những nhân tố bản thân ngân hàng sẵn có và đi khai thác. Vốn chính là “khả năng” của ngân hàng. Trong tổng nguồn vốn hoạt động của ngân hàng, mỗi loại lại có những tính chất và vai trò riêng, do vậy nhiệm vụ của ngân hàng là phải biết phân loại vốn “đầu vào”, trên cơ sở đó sẽ phân bổ “đầu ra” một cách hợp lý. Xét về kết cấu và tính chất vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại bao gồm: vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, vốn khác. Thông thường nguồn vốn của NHTM được phân chia như sau: b. Vốn tự có (Vốn CSH) Đây là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng, chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn, có 3 chức năng quan trọng khiến nó không thể thiếu trong hoạt động của mỗi ngân hàng: chức năng bảo vệ, chức năng điều chỉnh, chức năng hoạt động. Ba chức năng này đã giúp ngân hàng có thể đi vào hoạt động và đảm bảo an toàn cho quá trình hoạt động. Vốn tự có gồm:  Vốn tự có ban đầu: Vốn này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ và là điều kiện pháp lý bắt buộc khi bắt đầu thành lập ngân hàng. Nó được hình thành từ cá nhân, do ngân sách Nhà nước cấp, do bán cổ phần, cổ, từ sự đóng góp giữa các bên.  Vốn tự có bổ sung trong quá trình hoạt động: Vốn này có thể là được cấp thêm (bổ sung không mang tính chất thường xuyên vì nó chỉ có được khi cấp thêm, bán thêm cổ phần, cổ phiếu), bổ sung từ lợi nhuận (mang tính chất thường xuyên và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong vốn tự có của ngân hàng thương mại). Ngoài ra, vốn tự có còn được bổ sung từ quỹ phúc lợi, khen thưởng, dự phòng rủi ro (mỗi ngân hàng khác nhau sẽ quy định một tỷ lệ trích lập riêng), quỹ thặng dư vốn (phần chênh lệch đánh giá lại tài sản mang lại, nó phụ thuộc vào khả năng đầu cơ của mỗi hoạt động của mỗi NHTM).Tuy nguồn gốc hình thành của vốn tự có khác nhau nhưng chúng đều có điểm chung sau: 12  Không hoàn lại, vì ngân hàng sử dụng vốn tự có chủ yếu để mua sắm các loại TSCD, công nghệ ngân hàng, thành lập các chi nhánh, hùn vốn đầu tư cổ phiếu... nên nó chỉ giúp ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh của mình mà không hề trực tiếp mang lại lợi nhuận.  thông thường. c. Nhỏ, tỷ lệ vốn tự có/ tổng nguồn vốn =1/20, đây là tỷ lệ Vốn huy động: Nếu vốn tự có để đảm bảo sự an toàn trong hoạt động kinh doanh cuả các ngân hàng thương mại thì vốn huy động chính là nhân tố thúc đẩy hoạt động kinh doanh của ngân hàng mở rộng hay thu hẹp quy mô. Trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại đây là phần vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất, có vai trò quan trọng nhất. Nó được hình thành từ các nguồn sau:  Từ nguồn tiền gửi. Trong nền kinh tế luôn tồn tại những người thừa vốn và những người thiếu vốn. NHTM đã biết điều hoà cái mâu thuẫn này bằng việc sử dụng các công cụ, và các nghiệp vụ của mình huy động các nguồn vốn trong xã hội. Dưới đây là một số hình thức mà NHTM có thể sử dụng để huy động vốn từ nguồn tiền gửi:  Thứ nhất, tiền gửi thanh toán (hay tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi giao dịch). Đây là khoản tiền đúng như tên gọi của nó là thời gian gửi tiền không xác định, khách hàng (cá nhân , tổ chức) có quyền rút tiền ra bất cứ lúc nào. Mục đích của khách hàng đối với loại tiền này là hưởng những tiện ích trong thanh toán khi có nhu cầu chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Vì vậy đây là bộ phận tiền chỉ nhàn rỗi tạm thời không phải là khoản để dành.  Thứ hai, tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng. Ngược với khoản tiền gửi không kỳ hạn, đây là khoản tiền gửi với thời gian xác định. Nguyên tắc tiến hành khoản tiền gửi này là người gửi chỉ được rút tiền khi đến thời hạn như đã thoả thuận có thể là 1tháng, 3tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm hoặc hơn 1năm. Theo quy định, ngân hàng có quyền từ chối việc rút tiền trước thời hạn của người gửi tiền. Tuy nhiên, ở một số nước, quy định này đã được nới lỏng: các ngân hàng cho phép người gửi 13 tiền được rút ra trước hạn nhưng phải báo trước cho ngân hàng một khoảng thời gian nhất định, nếu không báo trước người gửi sẽ không được hưởng lãi suất hoặc rất thấp.  Thứ ba, tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Đi đôi với sự phát triển của nền kinh tế là sự gia tăng mức tăng thu nhập của người dân. Khi mức thu nhập vượt quá chi tiêu thì lúc đó sẽ xuất hiện hiện tượng tích trữ tiền. Hình thức tiền gửi tiết kiệm là hình thức thông qua đó người dân không những vừa đảm bảo số tiền của mình không bị mất mát (xét trong điều kiện nền kinh tế không có yếu tố lạm phát) mà còn “sinh sôi nảy nở thêm”. Tiền gửi loại này có rất nhiều các hình thức: Cổ điển và phổ biến nhất hiện nay là loại tiền gửi tiết kiệm (passbook saving account). Ngoài ra, còn có chứng chỉ tiết kiệm (Savings certificates). 1.1.2. Từ nguồn tiền vay Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa NHTM với NHTW, hoặc giữa các NHTM với nhau , các tổ chức tín dụng khác. Trong một số trường hợp khi các ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động thì NHTM có thể đi vay.  Vay của NHTW. NHTW là người cho vay cuối cùng trong nền kinh tế, là ngân hàng của các ngân hàng. Bất kỳ ngân hàng thương mại nào khi được NHTW cho phép thành lập và hoạt động đều được hưởng quyền vay tiền tại NHTW khi thiếu hụt dự trữ bắt buộc hay thiếu tiền đáp ứng nhu cầu thanh toán. Tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay của ngân hàng thương mại xin vay được chia thành: vốn vay ngắn hạn bổ sung, vay để thanh toán và vay để tái cấp vốn. Tuy nhiên do vốn vay NHTW là quan hệ trực tiếp giữa NHTM với NHTW nằm trong sự điều tiết của chính sách tiền tệ. Vì vậy, không phải lúc nào việc đi vay vốn vủa NHTW cũng diễn ra “suôn sẻ”.  Vay các TCTD Trong trường hợp đó, NHTM có thể huy động bằng cách vay vốn của các tổ chức tín dụng khác bằng việc mời họ tham gia hình thức cho vay đồng tài trợ cho các dự án phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống; hoặc hình thức vay qua đêm trên thị trường tiền tệ.  Một nguồn vốn vay khác mà ngân hàng có 14 thể huy động: là phát hành kỳ phiếu có mục đích, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác. Nếu những hình thức huy động trên là hình thức huy động mang tính bị động thì hình thức này là hình thức chủ động. Cụ thể: Khi ngân hàng phát hành trái phiếu, kỳ phiếu có nghĩa là ngân hàng phát hành một giấy nhận nợ đối với khách hàng của mình, nhằm huy động vốn có mục đích, có kỳ hạn rõ ràng. Giữa phát hành kỳ phiếu và trái phiếu khác nhau ở chỗ: kỳ phiếu có mục đích thường được sử dụng linh hoạt còn trái phiếu thường được phát hành với quy mô lớn đồng loạt trong cả hệ thống ngân hàng.  Vốn khác Nguồn vốn này có được là nhờ vào lợi thế hoạt động của ngân hàng thương mại. Ví dụ, trong quá trình làm trung gian thanh toán, ngân hàng đã tạo được một nguồn vốn gọi là nguồn vốn trong thanh toán: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi séc bảo chi, séc định mức và các khoản phong toả do ngân hàng chấp nhận các hối phiếu thương mại. Các khoản tiền này được gọi là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi vì thực tế nó tạm thời được trích vào tài khoản này và được nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng. Hay thông qua nghiệp vụ làm đại lý, ngân hàng thương mại cũng thu hút được một lượng vốn đáng kể trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng làm đại lý cho tổ chức tín dụng khác, nhận và chuyển vốn cho khách hàng hay một dự án đầu tư. Nguyên nhân, việc phát tiền được thực hiện theo tiến độ công việc nên ngân hàng có thể sử dụng tạm thời khoản tiền đó vào kinh doanh. 1.2.3. Sự cần thiết phải tăng cường công tác huy động vốn của NHTM. o Đối với nền kinh tế Như đã đề cập ở phần trên, ta đã they vốn thực sự có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Vốn có thể huy động qua nhiều kênh khác nhau, tuy nhiên có 3 kênh chủ yếu là: qua kênh ngân sách Nhà nước, qua thị trường chứng khoán, qua các tổ chức tài chính trung gian. Đối với các nước có thị trường vốn và thị trường tài chính, tiền tệ phát triển thì huy động vốn qua các kênh này không mấy khó khăn ngược lại đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì nguồn vốn của các trung gian tài chính - NHTM chính là kênh huy động vốn có hiệu quả phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Cụ thể: 15  Kênh ngân sách nhà nước không có khả năng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của thực tế đặt ra do mức động viên tài chính vào ngân sách nhà nước chỉ ở mức 20-21%, còn lại được phân phối vào các thành phần kinh tế và khu vực dân cư; gánh nặng trả nợ của ngân sách Nhà nước cho những món vay từ những năm 1990 trở về trước để đáp ứng nhu cầu chi để đầu tư phát triển, chi thường xuyên đã đến hạn thanh toán và nếu không trả sẽ dẫn đến nợ ngân sách Nhà nước chồng chất, tất yếu sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế xã hội .  Kênh thị trường chứng khoán: đây là kênh huy động vốn trung và dài hạn có hiệu nhất, tuy nhiên do thị trường chứng khoán Việt Nam mới đi vào hoạt động sự hiểu biết của công chúng còn hạn chế (thậm chí đối với nhiều người dân khái niệm về thị trường chứng khoán còn hết sức lạ lẫm và mơ hồ), hàng hoá còn nghèo nàn, hệ thống luật pháp còn chưa đầy đủ. Do vậy chỉ còn một kênh duy nhất là huy độngvốn thông qua NHTM. o Đối với hoạt động kinh doanh của NHTM Bất kỳ doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động kinh doanh cũng phải có vốn, vì vốn là năng lực chủ yếu quyết định đến khả năng, quy mô hoạt động. Ngân hàng là một doanh nghiệp, đòi hỏi một lượng lớn vốn mới có thể thực hiện kinh doanh. Nguồn vốn này cho phép ngân hàng mở rộng, đa dạng hoá các hình thức kinh doanh, giảm thiểu rủi ro trong khi thực hiện “đi vay và cho vay”. Sau đây là những lợi ích mà nguồn vốn đem lại cho ngân hàng: o kinh doanh. Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động Vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng vì khác với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng có những đặc trưng riêng, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài hạn). Quá trình kinh doanh tiền tệ của ngân hàng được mã hoá bằng công thức T-T’, trong đó T là nguồn vốn bỏ ra ban đầu, T’ là 16 nguồn vốn thu về sau một quá trình đầu tư, tiến hành hoạt động kinh doanh: T’>T. Từ công thức này, có thể khẳng định ngân hàng nào trường vốn là ngân hàng có nhiều thế mạnh trong cạnh tranh. Vì vậy, ngoài nguồn vốn ban đầu cần thiết (vốn điều lệ) theo quy định thì ngân hàng luôn phải chăm lo tới việc tăng trưởng nguồn vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình. o Vốn quyết định quy mô tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng. Trong điều kiện bình thường, đầu vào luôn ảnh hưởng trực tiếp tới đầu ra. Đối với ngân hàng, vốn chính là yếu tố đầu vào; tín dụng, đầu tư... là yếu tố đầu ra. Vì vậy, so với các ngân hàng lớn thì các ngân hàng nhỏ có khoản mục đầu tư và cho vay kém đa dạng hơn, phạm vi khối lượng cho vay của các ngân hàng này cũng nhỏ hơn. Trong khi các ngân hàng lớn cho vay được tại các thị trường trong vùng thậm chí trong nước và cả quốc tế, thì các ngân hàng nhỏ lại bị giới hạn trong phạm vi nhỏ, hẹp chủ yếu trong cộng đồng. Hơn nữa, vốn hạn hẹp nên các ngân hàng nhỏ thường không phản ứng nhanh nhạy được trước những đợt biến động về lãi suất, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thu hút vốn đầu tư từ tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế. Chúng ta có thể lấy một ví dụ trên địa bàn một ngân hàng nào đó nhu cầu vốn rất lớn, nếu ngân hàng không huy động vốn được thì không thể tiến hành cho vay, đến đây xảy ra 2 trường hợp: nếu khả năng vốn của ngân hàng dồi dào, thì chắc chắn ngân hàng sẽ đáp ứng được nhu cầu cho vay, có đủ điều kiện mở rộng thị trường tín dụng và các dịch vụ ngân hàng; ngược lại ngân hàng đó sẽ vấp phải vô vàn khó khăn. o Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên thương trường. “Mất tiền bạc là mất ít, mất danh dự là mất nhiều, mất niềm tin là mất tất cả”. Ngân hàng hoạt động dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau, vì bản chất của ngân hàng là “ đi vay để cho vay”, nếu không có uy tín thì ngân hàng không thể tồn tại và ngày càng mở rộng hoạt động của mình. Uy tín được thể hiện ở khả năng sẵn sàng chi trả cho khách hàng của ngân hàng. Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn. Vì vậy, loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và vốn khả dụng 17 của ngân hàng nói riêng. Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả, góp phần vừa giữ được chữ tín, vừa nâng cao thanh thế của ngân hàng trên thương trường. o Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh giúp các doanh nghiệp có khả năng tự hoàn thiện mình hơn. Với ngân hàng vốn chính là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Thực tế đã chứng minh: quy mô vốn, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại là điều kiện tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn, và nguồn vốn lớn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời hạn, lãi suất. Kết quả của sự gia tăng trên giúp ngân hàng kinh doanh đa năng trên thị trường, phân tán rủi ro, tạo thêm vốn cho ngân hàng và khi đó, tất yếu trên thương trường sức cạnh tranh của ngân hàng sẽ tăng lên. 1.3. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CHỦ YẾU CỦA NHTM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG NHTM làm nhiệm vụ đi vay (tạo vốn) và cho vay hoặc đầu tư với mục đích hưởng chênh lệch lãi suất. Quá trình tạo vốn của ngân hàng thương mại được thực hiện dưới các hình thức sau: 1.3.1 Nếu căn cứ theo thời gian huy động. o Huy động ngắn hạn :đặc điểm là chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng nguồn vốn huy động, được sử dụng chủ yếu để cho vay ngắn hạn nhỏ hơn 1 năm, lãi suất được huy động thường thấp o Huy động trung hạn: loại vốn này có thời hạn từ 1 đến 5 năm (Việt Nam chỉ từ 1 đến 3 năm), ngân hàng sử dụng chủ yếu cho các doanh nghiệp vay khoản tín dụng trung hạn: đầu tư cải tiến công nghệ, sản phẩm. o Huy động dài hạn: đây là khoản vay mà ngân hàng huy động từ 5 năm trở lên, chi phí cho việc huy động này cao, được ngân hàng dùng cho các khoản tín dụng dài hạn: đầu tư xây dựng cơ bản, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 18 1.3.2. Nếu căn cứ vào đối tượng huy động o Huy động vốn từ dân cư. Vốn này có nguồn gốc là những khoản dự phòng cho tiêu dùng và rủi ro trong tương lai. Khi xã hội ngày càng phát triển thì những khoản dự phòng này cũng tăng lên. Nắm bắt được quy luật này, NHTM đã sử dụng nghiệp vụ huy động để tăng thêm nguồn vốn, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và thu được lợi nhuận. o Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp do yêu cầu của hoạt đông sản xuất kinh doanh nên các đơn vị này thường gửi một khối lượng lớn tiền vào ngân hàng để hưởng tiện ích trong thanh toán. NHTM là một trung gian tài chính, nó quan hệ với các đối tượng này thông qua việc mở tài khoản, nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế và đáp ứng yêu cầu thanh toán của họ. Do có sự đan xen giữa các khoản phải thu và các khoản phải thanh toán nên luôn tồn tại một số dư tiền gửi nhất định tại ngân hàng. Nguồn này được ngân hàng huy động, có chi phí thấp và sử dụng cho vay không chỉ ngắn hạn mà còn cả trung hạn. Tuy nhiên nguồn này có hạn chế là tính ổn định và độ lớn phụ thuộc vào quy mô, loại hình của doanh nghiệp. o Huy động từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Việc vay vốn này nhằm giải quyết tình trạng thiếu vốn của ngân hàng. Theo quy định, ở Việt Nam vốn vay giữa hai ngân hàng được thoả thuận bằng hợp đồng tín dụng, vốn cho vay phải được bảo đảm bằng hình thức thế chấp hoặc cầm cố bằng tài sản đi vay; tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại NHTW, các chứng từ có giá khác. Trong trường hợp, các NHTM đã vay mượn lẫn nhau nhưng vẫn thiếu vốn, mất khả năng thanh toán thì NHTM có thể vay NHTW thông qua việc chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá. NHTW tiến hành vai trò “ người cứu cánh cuối cùng” bằng việc cho vay để bổ sung nguồn vốn tín dụng ngắn hạn theo kế hoạch đã phân phối cho các ngân hàng quốc doanh; tái chiết khấu các thương phiếu, trái phiếu kho bạc mà các tổ chức tín dụng đã cho khách hàng vay chưa đáo hạn. Ngoài hình thức vay NHTW, các NHTM còn tiến hành vay ở các ngân hàng và các tổ chức tín dụng, Việt Nam hoạt động vay mượn này chủ yếu được diễn ra thông qua thị trường nội tệ (hình thành giữa các NHTM, TCTD và NHTW, được thành lập 07/1993 sau một thời gian hoạt động đã 19 giúp các NHTM Việt Nam bổ sung nguồn vốn, khắc phục thiếu hụt trong thanh toán); qua thị trường ngoại tệ (thành lập 10/1994 giúp NHTM giải quyết sự khan hiếm ngoại tệ). 1.3.3. Căn cứ vào công cụ huy động Đây là hình thức huy động mà được các NHTM hay sử dụng nhất. Các công cụ huy động này gồm:  Huy động tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi có thể phát hành séc). Đây là loại tiền gửi mà chủ nhân có thể rút tiền hoặc trả cho bên thứ ba bằng cách phát hành séc; ở các nước phát triển loại tiền gửi này phần lớn được rút thông qua điện thoại hay máy rút tiền tự động ATM. Đặc điểm quan trọng, đối với người gửi là: chuyển nhượng dễ dàng, mục đích giao dịch là chính, thường được mệnh danh là tiền gửi theo yêu cầu, không đem lại lãi suất cụ thể. Đối với ngân hàng, chỉ cần bỏ ra một chút chi phí cho việc quản lý tài khoản hoặc trả lãi. Số dư của loại tiền này phụ thuộc vào từng thời kỳ trong năm và khả năng của ngân hàng trong việc dự đoán về sự biến động. Ngân hàng thường bảo quản loại tiền gửi trên hai loại tài khoản: tài khoản thanh toán và tài khoản vãng lai. Tài khoản thanh toán là loại tài khoản mà chủ nhân của tài khoản có toàn quyền sử dụng số tiền trong phạm vi số dư tiền gửi (loại tài khoản này luôn có số dư). Tài khoản vãng lai là tài khoản thường được sử dụng cho các tổ chức kinh tế, nó có thể có số dư bên có và bên nợ. Dư bên có phản ánh số tiền hiện có trong tài khoản của khách hàng, ngược lại số dư bên nợ phản ánh khoản tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng vay. Lãi suất bên nợ cũng như bên có đều do ngân hàng và khách hàng thoả thuận. Do tiền gửi có không có kỳ hạn có chi phí huy động thấp, nếu thu hút được số lượng khách hàng lớn, bảo đảm luôn có một số dư ổn định, ngân hàng có thể dễ dàng trong việc đa dạng hoá nghiệp vụ của mình thông qua việc mua các loại chứng khoán có tính linh hoạt cao như kỳ phiếu, tín phiếu kho bạc. Vì vậy, trên thực tế các ngân hàng đã dần dần xoá bỏ sự khác biệt giữa hai loại tài khoản này. Đối với Việt Nam thì loại tiền gửi này tồn tại thông qua các hình thức như sau: tài khoản tiền gửi của các tổ chức kinh tế, và khoản tiền gửi 20 của các cá nhân. Việt Nam là nước có tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt thấp, để khuyến khích việc thanh toán qua ngân hàng, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã từng áp dụng việc trả lãi cho loại tiền gửi này(0,5% đối với tài khoản tiền gửi giao dịch của các đơn vị, tổ chức kinh tế). Trên thế giới, ở các nước phát triển loại tiền gửi này chiếm một vị trí quan trọng trong kết cấu nguồn vốn của ngân hàng thương mại (ở Mỹ loại này chiếm khoảng 30% tiền gửi ngân hàng). Tóm lại, loại tiền gửi này có đặc điểm là tính ổn định thấp (muốn sử dụng có hiệu quả nguồn này phải mở rộng quy mô huy động vốn); chi phí huy động rẻ (có những ngân hàng áp dụng mức lãi 0% hoặc nếu có thì cũng rất thấp); luôn là đối tượng phải chịu dự trữ bắt buộc, điều này tạo nên một chi phí thực cao hơn chi phí danh nghĩa; có tính thanh khoản cao.  Huy động tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm Nếu tiền gửi không kỳ hạn số dư tăng giảm phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng gửi tiền, thì tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn lại phụ thuộc vào lãi suất.  Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền mà chủ nhân có quyền rút ra theo như thời hạn đã được thoả thuận với ngân hàng, mục đích của loại tiền gửi này là hưởng lãi chứ không phải là hưởng các tiện ích trong thanh toán. Đặc điểm của loại tiền gửi này là không được dùng để thanh toán; hiệu quả sử dụng nguồn này đối với ngân hàng rất cao vì nó có thời hạn rõ ràng; chi phí để huy động đối với ngân hàng là khá đắt vì lãi suất huy động thường cao (thông thường lãi suất tỷ lệ thuận theo thời gian: thời gian gửi càng dài thì lãi suất phải trả càng cao). Mỗi nước lại có cách huy động tiền gửi này riêng. Tiền gửi có kỳ hạn ở Mỹ chiếm 39% tiền gửi ngân hàng, đặc điểm là các chứng chỉ tiền gửi được ghi rõ hạn định và giá trị thanh toán, việc rút trước thời hạn sẽ bị phạt, đôi khi mức phạt vượt quá tiền lãi được hưởng tính đến ngày rút tiền. Ở Đức họ đã khắc phục việc rút vốn trước thời hạn gây bất lợi cho khách bằng cách cấp cho họ một khoản tín dụng và coi khoản tiền gửi theo kỳ hạn là khoản đảm bảo cho tín dụng đó. Lãi suất đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn có thể cố định hoặc linh hoạt tuỳ theo sự lựa chọn của khách hàng, với loại tiền gửi có lãi suất linh hoạt, khách hàng có thể gửi thêm tiền trước hạn định. 21 Việt Nam hình thức tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi (kỳ phiếu) đã xuất hiện với các thời hạn 3 tháng, 6 tháng. Tuy hình thức này mới được xuất hiện và được sử dụng vài năm trở lại đây nhưng nó đã phát huy được vai trò của mình trong việc tạo vốn cho các ngân hàng bằng chứng là tỷ trọng huy động vốn bằng cách phát hành kỳ phiếu ngân hàng cao hơn các hình thức huy động khác.  Tiền gửi tiết kiệm Đối với ngân hàng thương mại tiền gửi tiết kiệm là công cụ huy động vốn lưu truyền từ lâu.Vốn huy động từ các tài khoản tiết kiệm thường chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tiền gửi của các ngân hàng (ở Mỹ loại này chiếm khoảng 25%). Ngân hàng thường phân chia loại tiền này thành 3 loại: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: đặc điểm chủ tài khoản có thể rút ra bất kỳ lúc nào mà không phải báo trước, số dư tài khoản này thường không lớn, ưu điểm hơn tiền gửi giao dịch là số dư này ít biến động, ngân hàng thường phải trả lãi suất cao hơn so với tiền gửi thanh toán. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Nguyên tắc của loại tền này là một khi khách đã gửi tiền vào tài khoản này, họ sẽ không được rút ra (cả gốc lẫn lãi) trừ khi đã hết hạn gửi tiền. Tuy nhiên do yếu tố cạnh tranh thu hút tiền gửi, một số ngân hàng thương mại vẫn cho phép khách hàng rút tiền trước thời hạn; đồng thời để hạn chế việc khách hàng rút tiền trước thời hạn, một phần tiền lãi mà khách hàng được hưởng đã bị khấu trừ (có thể là ngân hàng không chấp nhận trả lãi cho một số tháng nào đó hoặc có thể khách hàng chỉ được hưởng mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn cho khoảng thời gian khách hàng gửi tiền). Ở Việt Nam đây là loại hình khá phổ biến và quen thuộc, kỳ hạn mà các ngân hàng Việt Nam thường áp dụng là huy động tiết kiệm với kỳ hạn từ 3 tháng đến 1 năm. Tiền gửi tiết kiệm dài hạn: Loại tiền này rất phổ biến ở một số nước công nghiệp, mục đích thu hút số tiền nhàn rỗi tạm thời trong thời hạn dài, đặc điểm chủ tài khoản có thể gửi vào với số lượng không hạn chế và mọi lúc, nhưng chỉ được rút ra khi đến hạn. Đây là loại hình tiết kiệm mà ngân hàng cần tận dụng để tạo các nguồn vốn có tính ổn định cao phục vụ cho hoạt động cấp tín dụng dài hạn cho mình. 22  Huy động qua phát hành công cụ nợ của ngân hàng thị trường. Đây là nguồn vốn ngân hàng huy động một cách chủ động trên thị trường tài chính gồm : thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Là trung gian tài chính, phải luôn đáp ứng nhu cầu về vốn, do vậy việc ngân hàng thiếu vốn là điều không thể khỏi. Trong những trường hợp này, ngân hàng có thể sử dụng nghiệp vụ huy động vốn trên thị trường tài chính: phát hành các giấy tờ có giá trị như các giấy tờ vay nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Việc chuyển nhượng các giấy tờ trên từ chủ sở hữu này sang chủ sở hữu khác phụ thuộc vào thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu và phát hành trái phiếu. Trái phiếu là một giấy tờ có giá, xác nhận khoản nợ của khách hàng đối với người chủ ngân hàng với cam kết như thanh toán một số tiền xác điịnh vào một ngày xác định trong tương lai với thời hạn xác định cho trước. Trái phiếu ngân hàng lại được phân ra thành nhiều loại, với các tiêu thức phân chia khác nhau Nếu theo thời hạn: trái phiếu ngắn hạn và dài hạn Nếu theo tính chất chuyển đổi: trái phiếu vô danh, trái phiếu ký danh Việc phát hành trái phiếu của ngân hàng được tiến hành trong toàn hệ thống ngân hàng chủ yếu là để huy động vốn trung và dài hạn phục vụ cho những kế hoạch kinh doanh có quy mô lớn và dài hạn. Do tính chủ động trong việc huy động vốn nên lãi suất trái phiếu phải hấp dẫn, cao hơn lãi suất của các công cụ nợ khác và tỷ lệ thuận với kỳ hạn của khoản nợ. Kỳ phiếu ngân hàng là một loại giấy nhận nợ ngắn hạn do ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn trong dân cư, chủ yếu là để phục vụ cho những kế hoạch kinh doanh xác định của ngân hàng như một dự án, một chương trình kinh tế. Kỳ phiếu ngân hàng được phát hành theo từng đợt hay còn gọi là kỳ phiếu có mục đích, phát hành dựa trên cơ sở tình hình nguồn vốn và nhu cầu sử dụng vốn trong thời kỳ trước mắt của ngân hàng. Loại này có ưu điểm vốn huy động được khá linh hoạt, có tính lỏng cao, dễ dàng chuyển đổi sang tiền hoặc các hình thức khác; mệnh giá, loại tiền sử dụng, phương thức trả lãi đa dạng đáp ứng nhu cầu của người mua. Lãi suất của kỳ phiếu thường ổn định và hấp dẫn (mức độ tuỳ thuộc vào mức độ cần thiết về vốn của ngân hàng). 23 1.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM Ngân hàng không thể tiến hành các hoạt động của mình có hiệu quả nếu không có đủ vốn hoặc huy động quá nhiều vốn mà không sử dụng hết tức là ngân hàng bị kẹt vốn. Do vậy hoạt động quan trọng nhất đối với mỗi ngân hàng là công tác huy động vốn hay còn gọi là tạo “đầu vào”. Đầu vào thuận lợi sẽ góp phần tạo “đầu ra” thông thoáng. Để có được “đầu vào”, ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều các nhân tố khác nhau. Sau đây là một vài những nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của các NHTM. 1.4.1.Môi trường kinh doanh. Nền kinh tế là một hệ thống bao gồm nhiều hoạt động kinh tế có liên quan biện chứng tác động ràng buộc lẫn nhau. Sự biến động của một hoạt động kinh tế đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực còn lại. Hoạt động kinh doanh của các NHTM được coi là chiếc cầu nối giữa các lĩnh vực kinh tế khác nhau trong nền kinh tế. Do vậy, sự tác động ổn định hay bất ổn định, tăng nhanh hay chậm chạp của nền kinh tế đều tác động mạnh mẽ đến hoạt động của ngân hàng. Rõ ràng, hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng của ngân hàng luôn gắn với môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh bao gồm:  Thứ nhất là môi trường pháp lý Như chúng ta đâ biết, hoạt động của ngân hàng có mức độ ảnh hưởng, tác động hết sức mạnh mẽ đối với nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào. Cụ thể việc huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng đều tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập của các chủ thể, tốc độ chu chuyển vốn, tình trạng thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát. Chính vì lẽ đó, hoạt động của ngân hàng phải chịu sự quản lý chặt chẽ gắt gao hơn so với các doanh nghiệp khác. Thực tế là ngân hàng phải chịu sự điêù chỉnh của rất nhiều chính sách, các quy định của chính phủ, của NHTW; đó là Luật các tổ chúc tín dụng, luật kinh tế, luật dân sự, hàng loạt hệ thống các quy định cụ thể trong từng thời kỳ về lãi suất, dự trữ, hạn mức. Do sự ràng buộc về luật pháp, các yếu tố của nghiệp vụ huy động vốn chắc chắn sẽ bị thay đổi và quy mô và hiệu quả của việc huy động vốn cũng bị tác động. Cụ thể, chính sách của Nhà nước, của NHTW: chính sách tiền tệ, tài chính, lãi suất, tín dụng thay đổi sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn cũng như chất lượng nguồn vốn của NHTM. 24  Thứ hai là môi trường chính trị Không một quốc gia nào có thể phát triển nếu môi trường chính trị không ổn định. Sự ổn định về chính trị hay về chính sách ngoại giao cũng tác động mạnh mẽ đến quan hệ vốn của ngân hàng với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Điều này cũng là nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của ngân hàng.  Thứ ba là môi trường kinh tế. Môi trường kinh tế cũng có ảnh hưởng lớn đối với công tác huy động vốn của NHTM. Môi trường kinh tế hàm chứa: tình trạng nền kinh tế, yếu tố cạnh tranh. Nền kinh tế phát triển hưng thịnh, thu nhập của các cá nhân, tổ chức kinh tế trong xã hội cao và ổn định thì tất yếu công việc huy động vốn của ngân hàng sẽ diễn ra thuận lợi, dễ dàng hơn. Ngược lại nếu nền kinh tế đang trong giai đoạn suy thoái thì khả năng khai thác vốn đưa vào nền kinh tế ắt hản sẽ bị hạn chế, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong công tác huy động vốn. Cạnh tranh là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh không phải lúc nào cũng tốt vì cạnh tranh có thể dẫn đến rất nhiều những tiêu cực, hạn chế. Vì vậy, cạnh tranh là một thách với sự phát triển vừa là nhân tố thúc đẩy sự phát triển. Để công tác huy động vốn nói riêng và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung đạt được hiệu quả, ngân hàng phải quan tâm đến vấn đề cạnh tranh. Cụ thể ngân hàng phải xác định rõ trong địa bàn hoạt động của mình có bao nhiêu ngân hàng, các đối thủ khác cũng cung cấp các dịch vụ tương như ngân hàng, có bao nhiêu cơ hội để đầu tư kinh doanh. Trên cơ sở đó ngân hàng sẽ tính toán đưa ra loại hình dịch vụ nào có hiệu quả nhất, ấn định một mức lãi suất phù hợp không chỉ với thị trường mà còn tiết kiệm được chi phí huy động.  Thứ tư là môi trường văn hoá. Mỗi quốc gia đều có một nền văn hoá riêng, văn hoá chính là yếu tố tạo nên bản sắc của các dân tộc: tập quán, thói quen, tâm lý... Đối với hoạt động ngân hàng, trong đó công tác huy động vốn là yếu tố chịu ảnh hưởng của môi trường văn hoá. Cụ thể ở các nước phát triển người dân có thói quen gửi tiền vào ngân hàng để hưởng những tiện ích trong thanh toán, hưởng lãi; và trong tiềm thức của họ ngân hàng là một cái gì đó không thể 25 thiếu được trong cuộc sống. Do vậy, ngân hàng không mấy khó khăn trong vấn đề huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, các tổ chức kinh tế xã hội. Ngược lại, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, việc huy động vốn của ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn vì người dân Việt Nam hiện nay vẫn chưa có thói quen thanh toán không sử dụng tiền mặt (theo thống kê có đến 50% giao dịch vẫn sử dụng tiền mặt). Hơn nữa ngân hàng lại chưa tạo được lòng tin đối người dân sau hàng loạt các sự kiện đã từng xảy ra đổi tiền năm 1985 - 1986 với tốc độ lạm phát chóng mặt ở mức 3 con số 600700% làm trắng tay nhiều người gửi tiền, sự sụp đổ của hơn 7500 quỹ tín dụng nhân dân ở thành thị và hợp tác xã tín dụng ở nông thôn 1989-1990, tiếp đến là hàng loạt các vụ án lớn liên quan đến ngành ngân hàng như dệt Nam Định, Tăng Minh Phụng – Epco, làm cho các ngân hàng thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng; chưa chú trọng lắm tới công tác Marketting, tiếp thị quảng cáo nên người dân còn hiểu biết rất ít về chủ trương chính sách của Nhà nước, hoạt động của ngân hàng vì vậy đến nay vẫn có tình trạng nhiều người dân có tiền nhưng không muốn gửi tiền vào ngân hàng vì không biết thủ tục,ngại mất thời gian... 1.4.2. Các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng Nếu môi trường kinh doanh có ảnh hưởng lớn với công tác huy động vốn thì yếu tố quyết định chính vẫn là các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng. Bởi môi trường kinh doanh chỉ tác động: gây ra khó khăn, hay tạo điều kiện thuận lợi còn việc vốn có được huy động hay không lại phải phụ thuộc vào chủ trương đường lối chính sách, kế hoạch của ngân hàng. Các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng quyết định việc huy động vốn có hiệu quả thường bao gồm những nhân tố sau:  Một là, chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể. Chiến lược kinh doanh được xây dựng dựa trên việc ngân hàng xác định vị trí hiện tại của mình trong hệ thống, thấy được điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội thách thức đồng thời dự đoán được sự thay đổi của môi trường kinh doanh trong tương lai. Thông qua chiến lược kinh doanh ngân hàng ngân hàng sẽ có thể quyết định thu hẹp hay mở rộng việc huy động vốn về mặt quy mô, có thể thay đổi tỷ lệ các loại nguồn, tăng hay giảm chi phí huy động. Nếu chiến lược kinh doanh đúng đắn, các nguồn vốn được khai thác một cách tối đa thì công tác huy động vốn sẽ phát huy được hiệu quả. 26  Hai là chiến lược khách hàng của ngân hàng về huy động vốn. Như chúng ta đã biết, ngày nay khi mà khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, đời sống của con người ngày càng được cải thiện và nâng lên, khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọn ngân hàng mà họ coi là thuận tiện hơn chứ không chỉ đơn thuần là nơi cất trữ tiền tệ và kiếm lời từ lãi suất. Thực tế này đòi hỏi các ngân hàng cần phải xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn trong hoạt động nói chung và trong hoạt động huy động vốn nói riêng. Để làm được điều này, trước tiên, ngân hàng cần tìm hiểu động cơ thói quen, mong muốn của người gửi tiền, thậm chí từng đối tượng khách hàng thông qua phân tích lợi ích của khách hàng. Cụ thể mục đích của doanh nghiệp là nhờ ngân hàng quản lý quỹ, ký quỹ hoặc nhờ chi trả trong thanh toán trong khi đó mục đích của cá nhân gửi tiền tiết kiệm lại là hưởng lãi. Mục đích của từng loại tiền gửi trên các tài khoản khác nhau cũng khác nhau như: tiền gửi giao dịch để phát hành séc thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn để dành cho tiêu dùng, đầu tư trong tương lai để hưởng lãi. Trên cơ sở những thông tin của khách hàng ngân hàng có thể đưa ra một hệ thống các chính sách và biện pháp để có được quy mô và chất lượng nguồn vốn mong muốn. Hệ thống các chính sách có liên quan đến huy động vốn bao gồm: Chính sách về giá cả, lãi suất tiền gửi, tỷ lệ hoa hồng, chi phí dịch vụ hay gọi chung là chính sách giá cả các sản phẩm và dịch vụ tài chính. Ngân hàngsử dụng hệ thống lãi suất tiền gửi như là một công cụ quan trọng trong việc huy động tiền gửi, thay đổi quy mô nguồn vốn. Để duy trì và thu hút thêm nguồn vốn ngân hàng cần ấn định mức lãi suất cạnh tranh thực hiện những ưu đãi về giá cho những khách hàng lớn, gửi tiền thường xuyên. Mặt khác nếu hệ thống lãi suất linh hoạt sẽ giúp ngân hàng tạo được sự phù hợp về quy mô và cơ cấu nguồn vốn. Các chính sách liên quan đến sản phẩm và dịch vụ tiền gửi của ngân hàng. Nhóm chính sách này nhằm đánh giá các loại sản phẩm dịch vụ cung ứng và chất lượng các dịch vụ đó: chất lượng tài khoản, kỳ hạn và các dịchvụ liên quan đến tiền gửi như rút tiền tự động, giao dịch tại nhà, rút ngắn thời gian thanh toán. Những năm gần đây các ngân hàng đã đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, đổi mới , hoàn thiện nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ phù hợp với yêu cầu thị trường, không ngừng mở rộng phát triển dịch vụ mới. 27 Các chính sách trong phục vụ và giao tiếp. Nhân viên ngân hàng là chiếc gương để cho khách hàng thấy được hình ảnh của ngân hàng. Trong điều kiện hiện nay - khó có thể duy trì sự khác biệt về sản phẩm và giá cả, nên chất lượng dịch vụ khách hàng đã trở thành công cụ cạnh tranh vô cùng quan trọng để thu hút vốn. Thái độ phục vụ thân thiện, chu đáo, hệ thống thanh toán được bố trí một cách khoa học là những điều cần thiết để giữ vững khách hàng có thêm khách hàng. Do đó, muốn củng cố uy tín của mình trên thị trường, gắn bó với khách hàng truyền thống, thu hút, hấp dẫn thêm khách hàng mới, ngân hàng không thể bỏ qua các chính sách trong phục vụ giao tiếp.  Ba là mạng lưới và các hình thức huy động. Mạng lưới hoạt động càng rộng và hình thức huy động càng phong phú, đa dạng thì kết qủa huy động vốn sẽ càng nhiều về số lượng và chất lượng cũng được nâng lên tương ứng. Thường muốn mở rộng quy mô tăng cường phát triển nguồn vốn ngân hàng không thể bỏ qua yếu tố mở rộng màng lưới hoạt động. Qua hoạt động và khảo sát tình hình thực tế, các ngân hàng có thể đưa ra kết luận: khách hàng không chỉ quan tâm đến lãi suất, dịch vụ tiện ích của ngân hàng mà họ còn quan tâm đến tính thuận tiện của việc gửi tiền. Chẳng hạn, nếu ngân hàng không mở rộng mạng lưới hoạt khó có thể huy động được những nguồn vốn nhỏ từ các tầng lớp dân cư vì tâm lý của người dân với một món tiền nhỏ họ rất ngại phải đi một quãng đường xa đến nơi gửi, quan điểm của họ thà để cất trữ ở nhà còn hơn, nếu ngân hàng không nhận biết điều này thì vô hình chung họ đã bỏ qua một khoản tiền nhàn rỗi. Việc mở thêm chi nhánh là quan trọng nhưng vị trí ở đâu để có thể huy được khoản tiền gửi đòi hỏi ngân hàng phải có sự nghiên cứu hết sức nghiêm túc. Thông thường các chi nhánh được mở ở mặt đường quốc lộ nơi đông dân cư để thuận tiện cho người dân gửi tiền, đối với các ngân hàng lớn thì nên mở các chi nhánh ngay tại trụ sở để phục vụ khách hàng tốt hơn và tạo mối quan hệ mật thiết với khách hàng. Ngoài ra, ngân hàng còn không ngừng nâng cấp các chi nhánh, trang thiết bị các phương tiện dịch vụ nâng cao chất lượng cán bộ ở các chi nhánh để có thể phục vụ, thu hút được nhiều tiền gửi hơn.  Bốn là trình độ công nghệ ngân hàng. Trình độ công nghệ ngân hàng bao gồm cơ sở vật chất phục vụ ngân hàng; các loại hình dịch vụ ngân hàng cung ứng; trình độ nghiệp vụ của cán 28 bộ, nhân viên ngân hàng. Cơ sở vật chất của ngân hàng càng khang trang hiện đại, công nghệ tiên tiến mang lại lợi ích thiết thực cho kinh doanh, luôn tạo điều kiện thu0ận lợi và phục vụ cho khách hàng tốt hơn, tạo lòng tin cho khách hàng. Thực tế khách hàng sẽ tin tưởng yên tâm hơn khi gửi tiền ở một ngân hàng có trình độ công nghệ trình độ công nghệ ngân hàng cao. Và khi khách hàng đã thực sự yên tâm gửi tiền thì ngân hàng dễ dàng trong việc huy động.  Năm là uy tín của ngân hàng. Có thể gọi đây chính là tài sản vô hình của ngân hàng. Uy tín bao gồm uy tín của ngân hàng trong toàn hệ thống, của các thành viên trong hội đồng quản trị, ban giám đốc. Sự nổi tiếng của ngân hàng là tài sản quý trong công tác huy động vốn vì trong lòng thị trường ngân hàng đã tạo một hình ảnh riêng, khi đó khách hàng sẽ tin tưởng vào ngân hàng, giúp ngân hàngcó khả năng ổn định khối lượng vốn huy động, tiết kiệm chi phí huy động (thực tế khi ngân hàng có tiếng tăm, họ dễ dàng thu hút vốn hơn các ngân hàng khác ngay cả khi lãi suất tiền gửi của ngân hàng đưa ra có thấp hơn).  Sáu là tính chất sở hữu của ngân hàng . Yếu tố này có ảnh hưởng trực tiếp, sâu sắc đến mô hình, cơ cấu tổ chức và cơ chế tài chính từ đó ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn và quản lý, sử dụng vốn. Hoạt động của ngân hàng thật sự phức tạp, nó chịu sự chi phối của rất nhiều các nhân tố khác: vĩ mô, vi mô, với mức độ khác nhau. Phần trình bày trên, theo tôi chỉ là những nhân tố ảnh hưởng chính đến công tác vốn của ngân hàng. 29 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHNO & PTNT HÀ NỘI 2.1. SƠ LƯỢC VỀ NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI 2.1.1. Sự hình thành, phát triển và cơ cấu tổ chức của Chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội là một chi nhánh trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, có trụ sở chính tại số 77 phố Lạc Trung - Hai Bà Trưng - Hà Nội. Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam ra đời theo quyết định số 56 và 59 tháng 8 năm 1988 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Sự ra đời của Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam theo yêu cầu cấp bách của nền kinh tế với mục đích chủ yếu là góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế, kiềm chế làm phát, ổn định tiền tệ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và trực tiếp giải quyết nâng cao đời sống của nông dân. NHNN&PTNT Việt Nam có vai trò là Ngân hàng quản lý Trung Ương, có hệ thống chi nhánh rộng khắp trong cả nước từ tỉnh đến huyện, xã gồm hơn 2500 chi nhánh. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam hoạt động theo mô hình Tổng công ty Nhà nước, theo quyết định số 90/TTg ngày 07 tháng 03 năm 1994 của Thủ Tướng Chính phủ, thời gian hoạt động là 99 năm, trụ sở tại Hà Nội, Ngân hàng có con dấu riêng và có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tên giao dịch : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Tên giao dịch quốc tế: Vietnam Bank for agriculture and Rural Development. Tên viết tắt: VBARD Trụ sở chính : Số 2 Láng Hạ - Đống Đa - Hà Nội. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam còn mở tài khoản tại các Ngân hàng khác cả trong nước và ngoài nước để phục vụ 30 thêm cho việc giao dịch và kinh doanh. Ngân hàng có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh và có quyền tự chủ về mặt tài chính. Ngày 15 tháng 10 năm 1996, Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam đổi tên thành Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam theo quyết định số 280/QĐ-NH5 do Thống đốc Ngân hàng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Cao Sỹ Khiêm ký. Tên giao dịch : NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM Tên giao dịch quốc tế: VIETNAM BANK FOR AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT Tên viết tắt: VBARD Trụ sở chính : Số 2 Láng Hạ - Đống Đa - Hà Nội. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội là một trong số hơn 2500 chi nhánh của hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Nó có vai trò trong việc tạo lập nguồn vốn, đáp ứng các nhu cầu tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn Hà Nội, cung cấp các hình thức dịch vụ Ngân hàng... góp phần thực hiện các chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của hệ thống Ngân hàng Thương mại Quốc doanh do Thống đốc Ngân hàng đề ra và đồng thời góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội của Thành phố Hà Nội. Tên giao dịch: NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI. Tên giao dich quốc tế: VIETNAM BANK FOR AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT HANOI BRANCH Trụ sở chính : Số 77 Phố Lạc Trung – Quận Hai Bà Trưng – Thành phố Hà Nội. Từ khi thành lập NHNN & PTNT Hà Nội thực hiện nhiệm vụ là huy động vốn và cho vay các thành phần kinh tế sản xuất Nông - Lâm Nghiệp , diêm nghiệp chế biến, công nghiệp thực phẩm và tất cả các thành phần kinh tế khác trên địa bàn nội thành và ngoại thành Hà Nội. 31 Tại thời điểm thành lập, ngân hàng có 6 phòng nghiệp vụ: 1. Phòng tín dụng 2. Phòng kế hoạch 3. Phòng tiền tệ kho quỹ 4. Phòng tổ chức cán bộ 5. Phòng tiết kiệm nguồn vốn 6. Văn phòng NHNN & PTNT có 12 chi nhánh huyện trực thuộc 1. Chi nhánh NHNN huyện Đông Anh 2. Chi nhánh NHNN huyện Thanh Trì 3. Chi nhánh NHNN huyện Từ Liêm 4. Chi nhánh NHNN huyện Gia Lâm 5. Chi nhánh NHNN huyện Mê Linh 6. Chi nhánh NHNN huyện Sóc Sơn 7. Chi nhánh NHNN huyện Hoài Đức 8. Chi nhánh NHNN huyện Đan Phượng 9. Chi nhánh NHNN huyện Thạch Thất 10. Chi nhánh NHNN huyện Phúc Thọ 11. Chi nhánh NHNN huyện Sơn Tây 12. Chi nhánh NHNN huyện Ba Vì Nguồn vốn là 18 tỷ đồng Dư nợ cho vay là 16 tỷ đồng Vào tháng 9/1991 tách 7 ngân hàng huyện về 2 chi nhánh tỉnh Hà tây và Vĩnh Phúc. Chi nhánh tỉnh Hà Tây bao gồm: 1. Hoài Đức 3. Ba Vì 5. Đan Phượng 2. Thạch Thất 4. Sơn Tây 6. Phúc Thọ Chi nhánh huyện Mê Linh về công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc Năm 1994 thành lập thêm chi nhánh chợ Hôm sau này chuyển thành chi nhánh quận Hai Bà Trưng. 32 Năm 1995 thành lập thêm 2 chi nhánh là chi nhánh quận Tây Hồ và chi nhánh Giảng Võ sau này là chi nhánh quận Ba Đình Năm 1997 thành lập thêm chi nhánh quận Cầu Giấy Năm 1999 thành lập thêm chi nhánh quận Đống Đa Năm 2002 thành lập thêm Chương Dương chi nhánhTràng Tiền và chi nhánh Năm 2003 thành lập thêm chi nhánh Hàng Đào, chi nhánh Nghĩa Đô và chi nhánh chợ Hôm Tháng 12/2004 bàn giao 2 chi nhánh là chi nhánh Chương dương về trực thuộc chi nhánh quận Long Biên và chi nhánh Tây Hồ về trực thuộc chi nhánh Quảng An Tháng 5/2005 thành lập thêm chi nhánh Trần Duy Hưng Vào thời điểm 31/12/2005 chi nhánh NHNN Hà Nội có 12 chi nhánh cấp 2 và 44 phòng giao dịch Tại trụ sở chính có 11 phòng và tố nghiệp vụ: 1. Phòng tổ chức cán bộ 2. Phòng hành chính 3. Phòng tín dụng 4. Phòng thẩm định 5. Phòng kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế 6. Phòng vi tính 7. Phòng kế toán ngân quỹ 8. Phòng nguồn vốn và kế hoạch tổng hợp 9. Tổ tiếp thị 10. Tổ thẻ 11. Tổ kiểm tra kiểm toán nội bộ Thực hiện nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng, NHNN & PTNT Hà Nội có những chức năng chính sau: - Nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ - Cho vay ngăn, trung và dài hạn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ với mọi thành phần kinh tế 33 - Cho vay ủy thác theo chương trình đầu tư của Chính phủ trong và ngoài nước. - Thực hiện nghiệp vụ thanh toán trong và ngoài nước mua bán ngoại tệ, tài trợ ngoại thương - Thực hiện dịch vụ thanh toán chuyển tiền nhanh qua mạng vi tính trong phạm vi toàn quốc và qua mạng Swift trên toàn thế giới. - Dịch vụ chi trả hiền hối, giao nhận tiền tận nơi cho đơn vị, thu ngân lấy phiếu tiền mặt và thực hiện nghiệp vụ khác. Ngoài chức năng và nhiệm vụ chung của toàn NHNN & PTNT Hà Nội thì các phòng, tổ chức trực thuộc chi nhánh có những nhiệm vụ riêng như: 2.1.2. Các hoạt động chính của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội o Hoạt động huy động vốn: Bao gồm cả huy động vốn nội tệ và ngoại tệ với các hình thức chủ yếu là gửi tiết kiệm, kỳ phiếu của dân cư, tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng, huy động qua bán kỳ phiếu, trái phiếu Ngân hàng. Ngoài ra Ngân hàng còn huy động các nguồn khác như: đi vay từ các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước, các Ngân hàng thương mại khác, nhận vốn uỷ thác, tài trợ cho vay của các tổ chức quốc tế... o Hoạt động cho vay: Với mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình doanh nghiệp bao gồm cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. đồng tài trợ cả bằng đồng nội tệ và ngoại tệ... o Hoạt động kinh doanh ngoại tệ o Hoạt động thanh toán trong nước và quốc tế o Hoạt động bảo lãnh Những năm đầu thành lập khách hàng chủ yếu của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội là các đơn vị sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến và công nghiệp thực phẩm do Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Công thương bàn giao về. Hiện nay trong quá trình tổ chức, phân cấp địa bàn hoạt động kinh doanh đã làm cho tính chất nông nghiệp 34 trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng bị giảm đi. Hiện nay Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội hoạt động như mọi Ngân hàng thương mại khác, có khách hàng là các hộ, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong mọi ngành nghề, lĩnh vực. Chính sự thay đổi đối tượng phục vụ này đã làm ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Những ảnh hưởng do tính thời vụ, tác động của thời tiết, tốc độ quay vòng vốn chậm, quy mô vay vốn nhỏ... đã giảm dần nhưng thay vào đó, Ngân hàng phải chủ động mở rộng kinh doanh đến mọi thành phần kinh tế, mọi lĩnh vực, nghành nghề... nên cán bộ Ngân hàng buộc phải học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm nhằm nắm bắt được hoạt động của nhiều nghành nghề. Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội có một lợi thế lớn là NHTM trên địa bàn Hà Nội - đây là địa bàn có tiềm lực kinh tế lớn trong cả nước. Do vậy khả năng huy động và cho vay vốn. Vai trò của Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội đối với sự phát triển kinh tế xã hội của Thành phố Hà Nội đã dần tự được mình trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Đó là kết quả sự hợp tác giữa Ngân hàng với các doanh nghiệp, các cấp chính quyền và dân cư. Sự tăng trưởng và phát triển của Ngân hàng gắn liền với sự tăng trưởng phát triển của kinh tế Thành phố nói riêng và của cả nước nói chung. 2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP & PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI 2.2.1. Thực trạng kinh tế năm 2005 trên địa bàn Hà Nội. Trong năm 2005, năm cuối cùng thực hiện kế hoạch 5 năm (20012005) kinh tế thủ đô gặp nhiều khó khăn, thách thức: CPi tăng gần 8% so với năm 2004. Tuy nhiên với những kế hoạch và giải pháp đúng đắn của cấp uỷ và thành phố kinh tế thủ đô vãn duy trì và tăng trưởng cao, GDP tăng khoảng 1,7 lần, kim ngách xuất khẩu tăng 1,9 lần, GDP đầu người tăng 1,5 lan so với năm 2000. Tìn hình hoạt động tiền tệ – tín dụng nhìn chung không có biến động lớn mặc dù lãi suất huy động vốn có biến động nhưng đã dần ổn định vào cuối năm. Mặt khác, giá vàng và goại tệ USD, EUR và một số mặt hàng thiết yếu tuy có biến động tăng trong những tháng cuối năm song ảnh hưởng không lớn đến hoạt động kinh doanh của NHNo Hà Nôi nói riêng và hoạt động kinh doanh tiền tệ trên địa bàn nói chung. 35 2.2.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Hà Nội. Là một ngân hàng hoạt động trên địa bàn thủ đô Hà Nội, với thực trạng nền kinh tế như trên đã tạo ra cho NHNo&PTNT Hà Nội nhiều thuận lợi nhưng cũng có vô vàn khó khăn. Song với mục tiêu tồn tại phát triển tạo ra lợi nhuận, ngân hàng luôn nắm bắt tình hình kinh tế xã hội, trên cơ sở đó ngân hàng đưa ra các chính sách, giải pháp phù hợp và thực tế ngân hàng đã thu được những kết quả cao trong hoạt động kinh doanh. Sau đây là kết quả hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Hà Nội trong 3 năm 2003, 2004, 2005.  Hoạt động huy động vốn Huy động vốn là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Bởi nét đặc trưng của ngân hàng thương mại là nguồn vốn kinh doanh chủ yếu là nguồn huy động dưới các hình thức tiền gửi, tiền vay, do đó kinh doanh của ngân hàng phụ thuộc phần lớn vào kết quả của hoạt động huy động vốn: khả năng và quy mô huy động. Cùng với NHNo&PTNT thành phố Hồ Chí Minh, NHNo&PTNT Hà Nội được coi là một trong hai “ hồ chứa”, có nhiệm vụ phân phối điều hoà vốn tại hai thành phố lớn nhất của cả nước. Gánh một trọng trách lớn lao như vậy NHNo&PTNT Hà Nội đã rất chú trọng đến công tác huy động vốn và nếu như trước đây ngân hàng chủ yếu huy động để cho vay thì đến nay ngân hàng đã coi nhiệm vụ quan trọng là kinh doanh dựa trên nguồn vốn huy động và đầu tư tín dụng. Lợi nhuận của ngân hàng không chỉ có lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư tín dụng mà còn có lợi nhuận thu được từ nguồn vốn thừa được điều chuyển theo lệnh của tổng Giám đốc NHNo&PTNTViệt Nam với mức phí quy định hiện nay là 0,65% chung cho tất cả các nguồn vốn. Có thể nói, NHNo&PTNT Hà Nội đã rất chú trọng đến công tác huy động vốn, thông qua việc sử dụng rất nhiều các hình thức và biện pháp tích cực chủ động nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và tranh thủ những nguồn vốn khác nên qua các năm ngân hàng luôn có tốc độ tăng trưởng nguồn vốn tương đối cao và đều đặn. Phần này chỉ trình bày sơ bộ về kết quả của công tác huy động vốn tại ngân hàng năm 2005, chúng ta sẽ đi sâu và phân tích kỹ càng hơn trong phần thực trạng tình hình huy động vốn. 36 Tổng nguồn vốn đạt 11.601 tỷ VNĐ, tăng 2.325 tỷ so với năm 2004 + Tiền gửi dân cư: 2.965 tỷ chiếm 26,0% tăng 437 tỷ so với năm 2004. + Tiền gửi TCKT: 4.915 tỷ chiếm 42,36% tăng 954 tỷ so với năm 2004. + Tiền gửi TCTD: 403 tỷ chiếm 3,5% giảm 257 tỷ so với năm 2004 + Tiền gửi Kho bạc: 3.234 tỷ chiếm 27,9% tang 1.106 tỷ so với năm 2004. + Tiền ký quĩ: 84 tỷ. Cơ cấu huy động nguồn vốn: + Tiền gửi không kỳ hạn: 4.661 tỷ chiếm 40,2% tổng nguồn vốn. + Tiền gửi < 12 tháng: 3.457 tỷ chiếm 29,8% tổng nguồn vốn. + Tiền gửi > 12 tháng: 1.920 tỷ chiếm 16,6% tổng nguồn vốn. + Tiền gửi > 24 tháng: 959 tỷ chiếm 8,3% tổng nguồn vốn. + Tiền gửi khác: 604 tỷ chiếm 5,1% tổng nguồn vốn. * Đánh giá kết quả công tác huy động vốn năm 2005. + Trong năm 2005 công tác huy động vốn nói chung đặc biệt nguồn vốn huy động tư dân cư gặp nhiều khó khăn mặc dù lãi suet huy động luôn được điều chỉnh ngang bằng các NHTM trên địa bàn đã có cùng mức lãi suất, nhưng do các NHTM CP huy động với lãi suất cao hơn đã ảnh hưởng đến kết quả huy động vốn. Nhưng với uy tín, phong cách phục vụ và việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn dân cư đặc biệt đã giữ vững được mối quan hệ tốt với các tổ chức kinh tế có nguồn tiền gửi lớn như QHT, Kho bạc, Bia Hà Nội… Mặt khác NHNo Hà Nội đã thực hiện các hình thức huy động như huy động tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 01 đến 60 tháng với nhiều hình thức trả lãi bậc thang, tiết kiệm có kỳ hạn 12 tháng có khuyến mại BH con người. + Ngoại tệ: Huy động ngoại tệ năm 2005 tăng 128 tỷ so với năm 2004 (tương đương 8 triệu USD) đặc biệt tiết kiệm USD tăng 26 tỷ VNĐ, EUR tăng 41 tỷ VNĐ. 37 Thực tế năm 2005 nguồn vốn huy động tiết kiệm nội tệ tăng 670 tỷ, tiết kiệm ngoại tệ tăng gần 75 tỷ, TCKT tăng 955 tỷ, Kho bạc tăng trên 1.100 tỷ, mặc dù nền kinh tế có nhiều biến động, giá cả thị trường ở một số mặt hàng chủ yếu như tỷ giá ngoại tệ USD, giá xăng dầu, nguyên vất liệu, giấ gạo… giá vàng, tiề gửi của các TCKT, đặc biệt thực hiến việc điều chỉnh tăng lương vào tháng 10/2005 nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý người gửi. Bảng 1 : Kết quả huy động vốn Đơn vị : Tỷ VNĐ Tăng giám (%) Chi nhánh 1 Tổng nguồn 31/12/2004 31/12/2005 B/quân B/quân Tuyệt đối Tổng số đầu Tổng số đầu người người (%) 2 3 4 5 6=4-2 5.911 31,95 7.584 39,5 +1.673 +28,3 Cầu Giấy 617 18,15 524 13,1 -93 -15,1 Đống Đa 257 8,29 331 11,4 +74 +28,8 Thanh Xuân 245 8,45 330 11,8 +85 +34,7 Ba Đình 319 11,39 351 13 +32 +10,0 83 7,55 446 37,2 +363 +437,3 Hai Bà Trưng 611 21,07 553 17,8 -57 -9,5 Hoàn Kiếm 343 12,70 424 17,0 +80 +23,6 Tràng Tiền 581 29,05 593 31,2 +12 +1,0 Hàng Đào 86 7,17 129 10,8 +43 +50,0 Chợ Hôm 125 9,62 157 13,1 +32 +25,6 Nghĩa Đô 98 8,91 144 14,4 +45 +63,6 36 4,0 +36 11,601 26,0 +2.325 Trung tâm Tam Trinh Trần Duy Hưng Tổng cộng 9.276 21,57 7=4/2 +25,1 ( Nguồn số liệu : Từ báo cáo tổng kết nội bộ năm 2005 của NHNo & PTNT Hà Nội ). 38 Bảng 2 : Nguồn vốn cân đối năm 2005 Chi nhánh 1 Đơn vị : Tỷ VNĐ Nguồn cân đối Tăng giám (%) Bình quân năm Bình quân năm 2004 2005 (%) B/quân B/quân Tuyệt đối Tổng số đầu Tổng số đầu người người 2 3 4 5 5.922 32,01 5.282 27,5 -640 -12,1 Cầu Giấy 478 14,06 376 9,4 -102 -27,1 Đống Đa 351 11,32 192 6,6 -159 -82,8 Thanh Xuân 256 8,83 182 6,5 -74 -40,1 Ba Đình 359 12,82 274 10,1 -85 -31,0 Tam Trinh 122 11,09 300 25,0 +178 +145,9 Hai Bà Trưng 379 13,03 402 13,0 +24 +6,0 Hoàn Kiếm 328 12,15 316 12,6 -12 -3,7 Tràng Tiền 255 12,75 325 17,1 +70 +27,5 Hàng Đào 143 11,92 81 6,8 -62 -76,5 Chợ Hôm 167 12,85 143 11,9 -24 -16,8 Nghĩa Đô 40 3,64 90 9,0 +50 +125,0 0 0 3 0,3 +3 8.799 20,46 7.966 17,9 833 Trung tâm Trần Duy Hưng Tổng cộng 6=4-2 7=4/2 -10,4 ( Nguồn số liệu : Từ báo cáo tổng kết nội bộ năm 2005 của NHNo & PTNT Hà Nội ). Ưu điểm: + Trong năm 2005, đã không ngừng tìm mọi biện pháp đà tăng trưởng nguồn vốn tăng 25% so với năm 2004. Một số Ngân hàng đã làm tôt công tác khai thác tiếp thị thu hút thêm khách hàng có nguồn vốn nàn rỗi về giao dịch tiền gửi tại Chi nhánh. + Một số Chi nhánh có nguồn vốn tăng trưởn khá như Tam trinh tăng 437%, Nghĩa Đô tăng 63,6%, Hàng Đào tăng 50%, Trung tâm tăng 28,3%, Đống Đa tăng 28,8% so với năm 2004. Đặc biệt trong năm các đơn vị có nguồn huy động tiết kiêm nội ngoại tệ tăng trưởng khá như: Trung 39 tâm tăng 146 tỷ, Thanh Xuân tăng 72,5 tỷ, Hai Bà Trưng tăng 58 tỷ, Nghĩa Đô tăng 54 tỷ, Ba Đình tăng 51 tỷ… còn lại các đơn vị khác tăng thấp… + Công tác màng lưới: Trong năm đã chú trọng việc chỉnh trang và nâng cao chất lượng các phòng giao dịch đã mở. Đặc biệt việc thay đổi phong cách giao dịch của cán bô các phòng giao dịc đã tong bước được nâng cao. + Nguồn cân đối, mặc dù nguồn vốn tại thời điểm 31/12/2005 cao hơn năm 2004 la 2.325 tỷ song nguồn cân đối năm 2005 đạt 7.966 tỷ thấp hơn 833 tỷ so với năm 2004. Nguyên nhân là do thực hiện 10% tổng nguồn vốn dự trữ thanh toán nên ảnh hưởng lớn đến nguồn cân đối của toàn Chi nhánh, nên nguồn vốn cân đối của toàn thành phố cũng như của nhiều Ngân hàng Quận, khu vực, các Chi nhánh giảm nhiều, duy chỉ có các Chi nhánh Tam trinh tăng 178 tỷ, Hoàn Kiếm tăng 70 tỷ, Nghĩa Đô tăng 24 tỷ còn lại các Chi nhánh khác đều giảm. + Về ngoại tệ: do lãi suất huy động vốn năm 2005 được điều chỉnh kịp thời ngang bằng với các TCTD trên địa bàn nên huy động tiết kiệm chứng chỉ USD, EUR tăng 75 tỷ so với năm 2004 Tồn tại: Nguồn vốn tuy tăng trưởng nhanh nhưng không vững chắc, nguồn vốn từ Kho bạc chiếm 28%, TCKT lớn chiếm gần 26%, tiền gửi TCTD chiếm 3,5% tổng nguồn vốn, khi các Kho bạc rút vốn sẽ làm cho các nguồn vốn giảm đột ngột, các Ngân hàng có nguồn tiền gửi của các TCTD cao như Tam trinh 45%, Hai Bà Trưng 14%, Hàng Đào 54,6%... Ngân hàng Quận không có các nguồn vốn của các TCTD: Cầu Giấy, Tràng Tiền, Nghĩa Đô, Chợ Hôm, Ba Đình, Thanh Xuân, Đống Đa… Để đảm bảo sự ổn định nguồn vốn, các Ngân hàng đặc biệt các Ngân hàng có nguồn tiền gửi TCTD cần có biện pháp điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn . Huy động tiền gửi dân cư: Tổng nguồn vốn dân cư 31/12/2005 là 2.965 tỷ tăng 437 tỷ so với năm 2004 (chủ yếu tăng nguồn nội tệ). Thực tế nguồn vốn dân cư tăng 677 tỷ đồng trong tháng 12/2005, nguồn chứng chỉ huy động của các TCTD năm 2003 giảm 239,7 tỷ nên thực chất ngồn dân cư chỉ tăng 437 tỷ so với năm 2004. Nguồn ngoại tệ huy động từ dân cư đạt 846 tỷ tăng 75,4 tỷ so với năm 2004. 40 b. Hoạt động sử dụng vốn  Công tác đầu tư tín dụng. o Dư nợ Thực tế cho thấy hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận chủ yếu của NHNo&PTNT Hà Nội là hoạt động cho vay. Vì nguồn vốn huy động được tập trung chủ yếu cho các thành phần kinh tế trên địa bàn Hà Nội; phần vốn không sử dụng hết được ngân hàng điều chuyển về NHNo&PTNT Việt Nam để điều hoà cho các ngân hàng thiếu vốn. Lợi nhuận mang lại từ hoạt động cho vay thường chiếm tỷ trọng cao gần 90%, ngoài ra còn có lợi nhuận thu được từ các hoạt động khác như hoạt động kinh doanh ngoại tệ, hoạt động thanh toán thừa vốn. Sau đây là kết quả công tác cho vay trong 3 năm 2003, 2004, 2005 của NHNo & PTNT Hà Nội. Bảng 3: Cơ cấu dư nợ thành phần kinh tế và theo thời gian của NHNo&PTNT Hà Nội qua các năm 2003 – 2005 Đơn vị : Triệu đồng Năm 2003 2004 2005 2.797.815 3.139.265 2.690.609 1.562.780 1.615.227 970.120 + Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 755.823 1.093.508 1.159.864 + Hộ gia đình, cá nhân 479.212 430.530 560.625 + Ngắn hạn 1.818.754 2.062.176 1.631.276 + Trung hạn 556.299 551.851 382.883 + Dài hạn 422.762 525.238 676.450 Chỉ tiêu 1. Tổng dư nợ 2. Dư nợ theo thành phần kinh tế + Doanh nghiệp Nhà nước 3. Dư nợ theo thời hạn cho vay ( Nguồn số liệu : Từ báo cáo tổng kết phòng tín dụng năm 2003, 2004, 2005 của NHNo & PTNT Hà Nội ). 41 Trong năm 2005, tổng dư nợ đạt 2.690 tỷ, đạt 99,6% chỉ tiêu kế hoạch NHNo Việt Nam giao, đây là sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo và cán bộ tín dụng đã tích cực thu hút khách hàng, tìm kiếm dự án để mở rộng đầu tư tín dụng. * Kết cấu dư nợ như sau: + Dư nợ ngắn hạn: 1.631 tỷ, chếm 60,6% tổng dư nợ. + Dư nợ trung và dài hạn: 1.059 tỷ, chiếm 39,4% tổng dư nợ. * Chia theo loại dư nợ: + Dư nợ nội tệ : 1.961 tỷ, chiếm 92,9% tổng dư nợ. + Dư nợ ngoại tệ: 729 tỷ chiếm 21,2% tổng dư nợ. * Kết cấu dư nợ: + Doang nghiệp Nhà nước: 970 tỷ chiếm 36% tổng dư nợ, giảm 646 tỷ so với năm 2004. Doang nghiệp ngoài quốc doanh: 1368 tỷ chiếm 51% tổng dư nợ tăng 292 tỷ so với năm 2004. Cá nhân hộ sản xuất và tiêu dùng: 352 tỷ chiếm 13% tổng dư nợ, giảm 95 tỷ so với năm 2004. Trong năm 2005 Chi nhánh đã đầu tư tập trung chủ yếu cho các phương án, dự án thực sự có hiệu quả không phân biệt thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế làm ăn có hiệu quả nâng cao khả năng cạn tranh hàng hoá và sản phẩm của mình trong cơ chế thị trường và chuẩn bị hội nhập AFTA. Dư nợ cho vay trung và dài hạn đối với các thành phần kinh tế chiếm 39,4% tổng dư nợ. Đặc biệt trong năm 2005 Chi nhánh đã mở rộng phương thức cho vay đồng tài trợ với các NHTM trên địa bàn với những dự án lớn có hiệu quả. Không những thế Chi nhánh còn triển khai mở rộng cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ tư nhân cá thể làm ăn thực sự có hiệu quả, thực hiện đầy đủ theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam. Cùng với viêc đầu tư tín dụng trong hoạt động kinh doanh Chi nhánh đã không ngừng đổi mới, nâng cao phong cách giao dịch văn minh lịch sự đồng thời còn làm nhiệm vụ tư vấn giúp khách hàng các mặt nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng. 42 Đánh giá về công tác tín dụng: Ngân hàng đã tích cực tìm kiếm lựa cọn các dự án thực sự có hiệu quảkhông phân biệt thành phần kinh tế để cho vay, dư nợ trung dài hạn chiếm trên 39% so với tổng dư nợ, nhờ đổi mới phong cách giao dịch, với mức ãi suất cho vay hợp lý nên nhiều khách hàng vẫn quan hệ tín dụng, ngoài ra có têm một số doanh nghiệp mới về vay vốn song thực tế việc mở rộng đầu tư cho các doang nghiệp nhà nước gặp nhiều khó khăn nên bình quân dư nợ đầu người năm 2005 thấp hơn năm 2004 là 1.027 triệu/đầu người. Nhìn cung các ngân hàng đã thực sự quan tâm đến chất lượng tín dụng đã nhậ thức được vai trò của chất lượng tín dụng đối với kết quả hoạt động kinh doanh, công tác kiểm tra kiểm soát được thực hiện thường xuyên kịp thời nên hoạt động tín dụng một số Ngân hàng quận thực sự đi vào nền nếp, khắc phục được những tồn tại. Một số ngân hàng đã tích cực thu hồi nợ quá hạn đã xử lý rủi ro như Trung tâm, Đống Đa, Hoàn Kiếm, Thanh Xuân, nhưng còn hạn chế… Việc thu lãi cho vay trong năm 2005 đã được quan tâm hơn, tỷ lệ thu lãi bình quân toàn thành phố đạt từ 95 đến 98%. Tuy vậy dư nợ cho vay DNNN tuy giảm nhiều so với năm 2004 song vẫn còn lớn, cần tiếp tục mở rộng cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp tư nhân, hộ sản xuất kinh doanh àm ăn hiệu quả kinh doanh hạn chế rủi ro trong đầu tư tín dụng. Công tác kinh doanh đối ngoại. o Hoạt động kinh doanh đối ngoại cũng là hoạt động được NHNo & PTNT Hà Nội thực sự quan tâm bởi xu thế hiện nay là hội nhập và phát triển, các nước ngày càng thu hẹp khoảng cách cùng nhau hợp tác phát triển kinh tế. Do vậy, cần thiết phải có sự hỗ trợ của công tác kinh doanh đối ngoại của ngân hàng. Sau đây là công tác đối ngoại của NHNo&PTNT Hà Nội. Nhìn chung công tác này đạt được kết quả cao, qua các năm đều có sự gia tăng. Về xuất khẩu: - Gửi chứng từ đòi tiền 54 tăng 1 món, trị giá 1.464 ngàn USD tăng 436 ngàn so với năm 2004. 43 - Thu tiền 52 món tăng 6 món trị giá 1.427 ngàn USD tăng 431 ngàn USD so với năm 2004. - Chuyển tiền đến 408 món tăng 178 món giá trị đạt 12.132 ngàn USD tang 6.046 ngàn USD so với năm 2004. - Phí dịch vụ thu được 336 ngàn USD tăng 148 USD so với năm 2004. Về nhập khẩu: - Đã mở được 784 LC tăng 172 món trị giá 111,5 triệu USD tăng 33,1 triệu USD so với năm 2004. - Thanh toán được 889 LC tăng 312 món với số tiền 107,2 triệu USD tăng 42,2 triệu USD so với năm 2004. - Thanh toán nhờ thu 364 món tăng 121 món trị giá 16,890 triệu USD tăng 10,7 triệu USD so với năm 2004. - Chuyển tiền 1.682 món tăng 880 món trị giá 55,5 triệu USD so với năm 2004. Đánh giá về công tác kinh doanh đối ngoại: - Nhìn chung hoạt động thanh toán quốc tế tăng trưởng tương đối tốt đặc biệt là xuất nhập khẩu mặc dù là biến động về tỷ giá lớn đặc biệt trong những tháng cuối năm tỷ giá các loại ngoại tệ biến động gây nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp nập khẩu nhưng kim ngạch xuất khẩu nói chung tăng. - Thanh toán biên mậu có khối lượng giao dịch lớn, khách hàng đa dạng nên dịch vụ này đã được triển khai rộng rãi và đạt kết quả tốt, đã đa dạng hoá các hình thức thanh toán biên mậu như: chuyển tiền (thương mại và phi thương mại), thanh toán bằng hối phiếu, thanh toán bằng chứng từ chuyên dùng biên mậu, thanh toán bằng thư uỷ thác, tanh toán bằng thư tín dụng bằng đồng bản tệ doanh số đạt gần 17 triệu CNK. - Năm 2005 tiếp tục phát huy được mặt mạnh của công tác thanh toán đối ngoại từ các năm trước, tuy khó khăn về việc xuất khẩu của một số doanh nghiếp song luôn tạo điều kiện đáp ứng được cơ bản các nhu cầu thanh toán quốc tế mà không xảy ra sai sót. Tiếp tục mở rộng thanh toán trực tiếp đối với các Ngân hàng Quận để thu hút khách hàng thanh toán quốc tế trong khi quan hẹ kinh tế với nước ngoài ngày càng được mở rộng. 44 o Về công tác tài chính , thanh toán ,ngân quỹ. Về công tác tài chính: Hiệu quả cuối cùng của ngân hàng là đủ lương, thưởng và các chế độ thưởng phạt khác cho cán bộ công nhân viên. NHNo&PTNT Hà Nội luôn đảm bảo thu nhập cho cán bộ nhân viên theo cơ chế tiền lương của ngành, ngoài ra còn có lãi và làm đầy đủ nghĩa vụ với ngành cũng như với Ngân sách Nhà nước. Năm 2005 tiếp tục phải xủ lý nợ đọng, lãi suất đầu vào cao, song đã cố gắng thực hiện kế hoạch kinh doanh, tăng trưởng quy mô kinh doanh, tận thu lãi cho vay, thanh toán, tích cực tận thu các khoản nợ đã được xử lý rủi ro, động thời tiết kiệm các khoản chi phí trong quản lý kinh doanh nên hoàn thành mục tiêu kinh doanh năm 2005. Mặc dù phải trích rủi ro tín dụng 142,8 triệu đồng nhưng vẫn đủ QTN để chi lương cho CBNV theo quy định chung của NHNo&PTNT Việt Nam. Trong công tác kế toán đã tích cực áp dụng theo chương trình WB tuy có nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện nhưng cán bộ nhân viên nói chung, cán bộ kế toán nói riêng đã nghiên cứu khai thác chương trình không quản khó khăn về thời gian cũng như thao tác nghiệp vụ hoàn thành tốt nhiệm vụ khách hàng thuận lợi và chu đáo. Về công tác thanh toán: Với nguồn vốn lớn nên côn tác thanh toán năm 2005 càng trở nên phức tạp và khẩn trương hơn các năm trước, tuy vậy đã tổ chức tốt công tác thanh toán vốn cho các doanh nghiệp nhất là Quỹ hỗ trợ, Kho bạc Nhà nước, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, Bảo hiểm y tế, các tổng công ty 90-91 và các tổ chức kinh tế có nguồn tiền gửi lớn như Điện Lực, bia Hà Nội, kho bạc… gửi tại chi nhánh. Về công tác ngân quỹ: + Tổng thu tiền mặt năm 2005 ; 16.900 tỷ tăng 99,8% so với năm 2004. + Tổng chi tiền mặt năm 2005 : 16900 tỷ tăng 99,7% so với năm 2004. Trong đó: - Chi cho kho bạc : 250 tỷ - Nộp NHNN 3.040 tỷ. 45 2.2.3. Đánh giá chung về hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Hà Nội. Trong giai đoạn vừa qua NHNo Hà Nội đã hoàn thành các chỉ tiêu cơ bản kế hoạch kinh doanh của tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam. * Mặt được: - Nguồn vốn tiếp tục tăng trưởng, đặc biệt nguồn vốn huy động từ dân cư tăng ổn định đảm bảo thu hút vốn và hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. Màng lưới kinh doanh đã tiếp tục được nâng cấp chỉnh trang toàn diện tạo đà cho NHNo Hà Nội vươn lên trong cạnh tranh những năm sau này. - Chất lượng tín dụng ngày càng được nâng cao. - Tỷ lệ thu lãI cho vay khá tốt. - Tiếp tục xử lý rủi ro nợ tồn đọng theo 493. - Tinh thần lao động nhiệt tình của cán bộ nhân viên tuy làm với đặc thù của Chi nhánh có bộ phận phảI làm noài giờ nhiều nhưng vẫn vui vẻ hoàn thành tốt trách nhiệm. - Khoán tài chính và tiền lương đã có tác động tích cực làm chuyển biến đến hiệu quả hoạt động kinh doanh cũng như tinh thần lao động và trách nhiệm của các thành viên thuộc NHNo&PTNT Hà Nội. * Tồn tại: - Nguồn vốn tuy có tăng trưởng nhưng chưa vững chắc, kết cấu huy động từ dân cư chưa cao. - Khi thực hiện triển khai 493 mặc dù phản ánh được thực chất chất lượng tín dụng qua phân loại nợ theo nhóm đã ít nhiều ảnh hưởng đến hiệu quả kin doanh của NHNo&PTNT Hà Nội. - Các sản phẩm dịch vụ ngân hàng tuy đã được triển khai song hiệu quả chưa cao gây bất lợi cho NHNo&PTNT Hà Nội hội nhập trong tương lai. * Bài học kinh nghiệm: - Duy trì sự đoàn kết thống nhất của tập thể Đảng uỷ, Ban lãnh đạo, xác định đúng trách nhiệm, quyền lợi của mỗi cán bộ, viên chức trong toàn Chi nhánh. Đây là điều kiện tiên quyết để HNo Hà Nội hoàn thành kế koạch kinh doanh của NHNo Việt Nam giao. - Liên tục đổi mới phong cách giao dịch văn minh thương mại. 46 - Phát huy cơ chế điều hành tập trung, kiên quyết nhưng nhanh nhạy và giao quyền chủ động, linh hoạt cho các ngân hàng cơ sở trong các hoạt động kinh doanh các mặt nghiệp vụ ngân hàng. - Kiên quyết khoán tài chính tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng khối lượng và chất lượng kinh doanh trong tong đơn vị. - Tăng cường kiểm tra, kiểm soát đi lion với chấn chỉnh, khắc phục kịp thời những sai sót về nghiệp vụ đã phát hiện, đồng thời xử lý nghiêm túc các vi phạm quy định về nghiệp vụ đối với cán bộ kể cả cán bộ lãnh đạo. - Thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo và đào tạo lại nghiệp vụ chuyên môn, nhằm không ngừng nâng cao trình độ tác nghiệp của cán bộ. Không ngừng đổi mới phong cách văn minh lịch sự của cán bộ giao dịch trong toàn Chi nhánh. - Xử lý linh hoạt các vấn đề phát sinh trong quá trình kinh doanh, gắn lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài của Chi nhánh và lợi ích toàn hệ thống. 2.3. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP & PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI. Như đã đề cập ở phần trước, trong chiến lược hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Hà Nội hiện nay, công tác huy vốn được quan tâm nhiều nhất. Thứ nhất do pháp lệnh của tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam về việc các ngân hàng trong hệ thống NHNo được phép thực hiện việc điều chuyển vốn thừa, để thu phí trên nguồn vốn thừa này. Vì vậy đã tạo ra một nét đặc trưng riêng cũng như thuận lợi cho các ngân hàng thuộc hệ thống NHNo: kết hợp giữa kinh doanh nguồn vốn với đầu tư tín dụng. Thứ hai, do trọng trách của NHNo&PTNT Hà Nội được coi là “Hồ điều hoà vốn”, phối hợp với NHNo&PTNT thành phố Hồ Chí Minh trong việc điều hoà vốn cho hai thành phố lớn nhất của cả nước. Thứ ba, tình hình kinh tế xã hội, tính cạnh tranh gay gắt quyết liệt giữa các ngân hàng với nhau, giữa các ngân hàngvới các tổ chức khác cũng có các dịch vụ tương tự như dịch vụ của ngân hàng, nên trong những năm gần đây việc tìm “đầu ra” cho nguồn vốn huy động là khó khăn chung đối với cả hệ thống ngân hàng. 47 Đứng trước yêu cầu và tình hình thực tế trên NHNo&PTNT Hà Nội luôn cố gắng xây dựng đường lối chính sách, đưa ra phương hướng hoạt động , từ đó mở rộng và nâng cao hiệu quả của công tác huy động vốn. 2.3.1. Kết quả công tác huy động vốn giai đoạn 2003-2005. Trong 3 năm từ 2003 - 2005 tổng nguồn vốn huy động của NHNo & PTNT Hà Nội đã không ngừng tăng trưởng với cơ cấu phong phú, hình thức huy động ngày càng đa dạng. Đến 31/12/2005 tổng nguồn vốn đạt 11.601 tỷ đồng tăng 164% so với năm 2003 và tăng 125% so với năm 2004. Kết quả này đã góp phần không nhỏ vào việc mở rộng hoạt động kinh doanh, tăng lợi nhuận cũng như thị phần hoạt động của ngân hàng. Đến nay NHNo&PTNT Hà Nội trở thành một chi nhánh có quy mô hoạt động lớn trong hệ thống chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam, một tổ chức tín dụng vững mạnh và có uy tín trên địa bàn thủ đô Hà Nội. Tổng nguồn vốn huy động. Tổng nguồn năm 2003 là 7072 tỷ đồng, năm 2004 là 9276 tỷ đồng, năm 2005 là 11601 tỷ đồng. Số liệu này cho ta thấy tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng tăng tương đối nhanh và đều đặn qua các năm, năm sau cao hơn năm trước. Nếu lấy năm 2003 làm gốc thì tổng nguồn vốn năm 2004 tăng gấp 1,3 lần (tương đương với 131%), tăng tuyệt đối là 2204 tỷ đồng, năm 2005 tăng gấp 1,6 lần (tương đương với 164%), tăng tuyệt đối là 4529 tỷ đồng. Nếu lấy năm sau so sánh năm trước ta thấy nguồn vốn huy động năm 2004 so với năm 2003 tăng 131%, năm 2005 so với năm 2003 tăng 125%. Bảng 4 : Tình hình nguồn vốn của Ngân Hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội Đơn vị: Tỷ đồng Năm 2003 2004 2005 Chỉ tiêu Tổng vốn huy động 7.072 9.276 11.601 Tốc độ phát triển định gốc 100% 131% 164% Tốc độ phát triển liên hoàn 100% 131% 125% ( Nguồn số liệu từ Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2003, 2004, 2005 của NHNo & PTNT ). Cơ cấu nguồn vốn. 48 Có thể khẳng định ngân hàng có một cơ cấu vốn hết sức ổn định, vì số liệu thực tế cho thấy tỷ trọng nguồn vốn huy động lớn nhất là vốn huy động từ các tầng lớp dân cư bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi kỳ phiếu, đặc biệt nguồn vốn này ngày càng tăng với tốc độ nhanh và ổn định. Bảng 5: Bảng kết cấu nguồn vốn của NHNo&PTNT Hà Nội Đơn vị: tỷ đồng. Năm Chỉ tiêu Tổng nguồn vốn huy động Tiền gửi dân cư Tiền gửi TCKT, TCXH Tiền gửi TCTD Tiền gửi Kho bạc Tiền ký quĩ ( Nguồn số liệu từ Báo cáo tổng kết nội hoạch tổng hợp các năm 2004, 2005 ). 2004 2005 9.276 2.528 3.961 660 2.127 11.601 2.965 4.915 403 3.234 84 bộ của phòng nguồn vốn và kế Bảng 6: Bảng tỷ trọng kết cấu nguồn vốn NHNo&PTNT Hà Nội Đơn vị: % Năm Chỉ tiêu Tổng nguồn vốn huy động Tiền gửi dân cư Tiền gửi TCKT, TCXH Tiền gửi TCTD Tiền gửi kho bạc Tiền ký quĩ ( Nguồn số liệu từ Báo cáo tổng kết nội hoạch tổng hợp các năm 2004, 2005 ). 2004 2005 100 27,3 42,7 7,1 22,9 100 26 42,36 3,5 27,9 0,24 bộ của phòng nguồn vốn và kế Qua số liệu bảng 2 ta thấy về cơ cấu nguồn vốn thì hầu hết các nguồn đều tăng trừ nguồn tiền gửi TCTD. Vốn huy động từ TCKT, TCXH chiếm tỷ trọng cao nhất, năm 2004 chiếm 42,7% và năm 2005 chiếm 42,36% tổng nguồn vốn. Bên cạnh đó vốn huy động từ tầng lớp dân cư cũng tăng nhanh, năm 2005 đã tăng 437 tỷ so với năm 2004. Với kết quả 49 trên đã chứng minh trong chiến lược huy động vốn của NHNo&PTNT Hà Nội, việc tăng cường huy động vốn từ các tầng lớp dân cư có vai trò rất quan trọng. Ngoài sự gia tăng về nguồn vốn huy động từ tầng lớp dân cư, nhìn vào bảng 2 ta nhận thấy nguồn vốn huy động từ các TCKT và tiền gửi Kho bạc tăng rất nhanh. Năm 2005 tiền gửi TCKT tăng 954 tỷ và tiền gửi Kho bạc tăng 1.106 tỷ so với năm 2004. Để đạt được kết quả trên do NHNo&PTNT Hà Nội đã thực hiện đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, với 12 chi nhánh, 38 điểm huy động vốn và nhiều sản phẩm dịch vụ tiện ích đối với khách hàng gửi tiền như huy động tiền gửi bậc thang, tiết kiệm khuyến mại, tiết kiệm khuyến mại bằng hiện vật, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm dự thưởng bằng vàng có khuyến mại với nhiêu hình thức trả lãi tháng, quý, năm, lãi trước, đồng thời NHNo&PTNT Hà Nội đã chủ động điều chỉnh lãi suất huy động vốn một cách linh hoạt phù hợp lãi suất của các TCTD trên địa bàn, đặc biệt là lãi suất huy động vốn ngoại tệ và sự biến động giá cả theo tong thời điểm đã góp phần nâng cao chất, số lượng huy động vốn từ dân cư. Không những thế phong cách giao dịch mới được thay đổi ngày một tốt hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất trong giao dịch với khách hàng. 2.3.2. Màng lưới huy động vốn. Một trong những giải pháp đầu tiên để một ngân hàng tiến hành huy động được nguồn vốn là việc mở rộng màng lưới huy động. NHNo&PTNT Hà Nội là một ngân hàng hoạt động trên địa bàn thủ đô Hà Nội, một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của cả nước. Nơi đây có trụ sở chính của NHNN Việt Nam, 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, quỹ tín dụng nhân dân trung ương, hàng chục ngân hàng thương mại cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các sở giao dịch, ngân hàng liên doanh, công ty cho thuê tài chính, công ty tài chính, ngân hàng người nghèo; gắn liền với nó là mạng lưới đông đảo các chi nhánh của ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, quỹ tín dụng nhân dân trung ương của thành phố Hồ Chí Minh. Do vậy để huy động được vốn NHNo & PTNT Hà Nội phải không ngừng mở rộng màng lưới. Đến hết năm 2005, ngân hàng có một mạng lưới hoạt động gồm 12 chi nhánh ngân hàng cấp 2 với 44 phòng giao dịch. 2.3.3. Các hình thức huy động vốn tại NHNo&PTNT Hà Nội. Nhìn vào bảng tình hình nguồn vốn của NHNo&PTNT Hà Nội ta 50 thấy nguồn vốn của ngân hàng trong 3 năm 2003, 2004, 2005 chỉ có nguồn vốn huy động. Với số liệu này cho thấy trong 3 năm ngân hàng đã đạt được một quy mô vốn vững chắc, chênh lệch giữa các năm không quá lớn, không gây mất cân đối, ổn định trong kinh doanh. Nếu chỉ so sánh trong hai năm 2004, 2005 thì: Tổng nguồn vốn năm 2005 tăng 2.325 tỷ, tăng 25% so với năm 2004, tăng trên 400 tỷ so với kế hoạch Trung Ương giao. Trong đó: Tiền gửi tiết kiệm: 2.667 tỷ tăng 669 tỷ chiếm 23%, tăng 33,5% so với năm 2004. Tiền gửi TCKT: 4.915 tỷ chiếm 42,7%, tăng 24,1% so với năm 2004. Tiền gửi TCTD: 402 tỷ chiếm 3,6%, giảm 38,8% so với năm 2004. Tiền gửi kỳ phiếu: 298 tỷ chiếm 2,7%, giảm 43,7% so với năm 2004. Tiền gửi Kho bạc: 3.234 tỷ chiếm 28%, tăng 51,9% so với năm 2004 Tình hình huy động vốn qua việc sử dụng các công cụ huy động. a. Huy động vốn bằng tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế xã hội. Như chúng ta đã biết, đặc điểm của tiền gửi loại này là nhằm mục tiêu hưởng các tiện ích trong thanh toán chứ không phải vì mục tiêu hưởng lãi. Do vậy trong tất cả các loại nguồn mà ngân hàng có khả năng huy động thì đây là nguồn có chi phí huy động thấp nhất, tính ổn định thấp nhất vì ngân hàng luôn phải đáp ứng nhu cầu thanh toán thường xuyên của khách hàng. Trên địa bàn hoạt động rộng lớn và sầm uất như Hà Nội, một môi trường lý tưởng cho các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh đồng thời với lợi thế riêng của mình trong lĩnh vực thanh toán, chất lượng phục vụ, khả năng tiếp thị NHNo&PTNT Hà Nội đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn này. Kết quả là đến nay ngân hàng đã có các hình thức để huy động loại tiền gửi tiền gửi này như sau: Tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán). Tiền gửi có kỳ ngắn hạn (3 tháng, 6 tháng, 9 tháng). Tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng đến 24 tháng Tiền gửi có kỳ hạn trên 24 tháng.. Trong 3 năm, ta thấy nguồn này có xu hướng tăng dần. Cụ thể đến năm 2005 tiền gửi loại này là 4.915 tỷ chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng 51 nguồn (chiếm 42,7%). Nguồn này có vai trò rất quan trọng, nguyên nhân la do Ngân hàng đã làm tốt công tác tiếp thi thu hút thêm được khách hàng. b. Huy động vốn bằng tiền gửi tiết kiệm. Xã hội ngày càng phát triển thì đời sống của người dân ngày càng tăng. Đời sống tăng cũng đồng nghĩa với thu nhập tăng và đây chính là gốc rễ của tiết kiệm hay tích luỹ cho các nhu cầu trong tương lai. Hình thức tiền gửi tiết kiệm đáp ứng được nguyện vọng này đồng thời mang lại cho người dân lợi ích hưởng lãi nên từ khi xuất hiện đến nay, hình thức này đã trở nên quen thuộc đối với quần chúng nhân dân và đối với nước ta nó ngày càng có xu hướng tăng. Sự biến động của nguồn tiền này phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế, tỷ lệ lạm phát, tâm lý thói quen. Song đặc tính của nguồn này là tính kỳ hạn, ổn định do đó đây là nguồn đòi hỏi chi phí huy động khá cao. Điều này buộc ngân hàng phải căn cứ vào tình hình sử dụng vốn mà có các biện pháp huy động tiền gửi tiết kiệm với các chính sách huy động và thời hạn huy động khác nhau. NHNo&PTNT Hà Nội đã rất chú trọng huy động tối đa nguồn tiền này. Thực tế qua số liệu 3 năm 2003, 2004, 2005 nguồn tiền này tăng nhanh chóng. NHNo&PTNT Hà Nội hiện tại có các hình thức huy động tiết kiệm của dân cư. Huy động cả VND và USD Tiết kiệm không kỳ hạn . Tiết kiệm có kỳ hạn 1 tháng, 2tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, 13 tháng, dưới 24 tháng, trên 24 tháng và tiền gửi tiết kiệm khác. Số liệu các bảng sẽ chứng minh phần nào về sự thành công của NHNo&PTNT trong công tác huy động tiền gửi tiết kiệm của dân cư, đồng thời cho thấy tín dụng của ngân hàng đã đóng góp một cách có hiệu quả vào sự phát triển nền kinh tế thủ đô vì khi thu nhập dân chúng tăng lên thì họ mới có nhu cầu tích luỹ hay sử dụng đến hình thức gửi tiết kiệm. * Xét về quy mô thì tiền gửi tiết kiệm qua các năm 2003, 2004, 2005 này càng tăng. Năm 2003 là 1088 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 15,4% trong tổng nguồn huy động. Sang năm 2004 nguồn này tăng lên 1998 tỷ chiếm 21,5% tổng nguồn huy động. Đến năm 2005 nó đã tăng lên 2667 tỷ chiếm 23% trong tổng nguồn, tăng gấp hơn 2 lần so với năm 2003 (gấp 2,45 lần hay tăng 1579 tỷ). Nếu so sánh các năm với nhau thi năm 2004 tăng 83,6% so với năm 2003 và năm 2005 tăng 33,5% so với năm 2004. 52 Bảng 7 : Cơ cấu nguồn tiền gửi tiết kiệm phân chia theo thời gian tại NHNo & PTNH Hà Nội Năm 2003 Tiền gửi tiết kiệm Năm 2004 Năm 2005 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng (Tỷ đồng ) (%) (Tỷ đồng ) (%) (Tỷ đồng ) (%) I. Tiền gửi không kỳ hạn 50 4,6 55 2,8 25 0,9 II. Tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng 545 50,1 472 23,6 731 37,4 III. Tiêng gửi có kỳ hạn trên 12 tháng 493 45,3 1171 58,6 1357 51,0 553 20,7 2667 100 IV. Tiền gửi tiết kiệm khác V. Tiết kiệm bậc thang Tổng cộng 1088 100 300 15 1998 100 ( Nguồn số liệu từ Báo cáo tổng kết nội bộ của phòng nguồn vốn và kế hoạch tổng hợp các năm...
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.