Luận án: Tổ chức kế toán trách nhiệm trong các Tổng công ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải

doc
Số trang Luận án: Tổ chức kế toán trách nhiệm trong các Tổng công ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải 179 Cỡ tệp Luận án: Tổ chức kế toán trách nhiệm trong các Tổng công ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải 2 MB Lượt tải Luận án: Tổ chức kế toán trách nhiệm trong các Tổng công ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải 0 Lượt đọc Luận án: Tổ chức kế toán trách nhiệm trong các Tổng công ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải 33
Đánh giá Luận án: Tổ chức kế toán trách nhiệm trong các Tổng công ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải
4.9 ( 21 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Trang 1 PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kế toán trách nhiệm là một nội dung cơ bản của kế toán quản trị. Kế toán trách nhiệm xuất phát từ sự phân quyền trách nhiệm của nhà quản trị. Cơ sở của sự phân quyền phụ thuộc vào quyết định của nhà quản trị, thái độ, quy mô, đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh và các yếu tố khác. Từ khi được hình thành đến nay, kế toán trách nhiệm đã được vận dụng và có những đóng góp đáng kể vào sự thành công của nhiều doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế … trên khắp thế giới. Càng ngày, kế toán trách nhiệm càng có vai trò và vị trí quan trọng trong quản lý ở các doanh nghiệp trên thế giới. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, kế toán quản trị nói chung và kế toán trách nhiệm nói riêng là một lĩnh vực vẫn còn khá mới mẽ. Tổng công ty xây dựng là một đơn vị có nhiều công ty thành viên hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Phạm vi hoạt động của Tổng công ty xây dựng trải rộng, cơ chế quản lý tài chính đối với các công ty thành viên cũng khá đa dạng nên việc đánh giá thành quả quản lý của từng đơn vị, bộ phận, cá nhân ở các công ty và toàn bộ Tổng công ty vẫn còn nhiều bất cập. Bên cạnh đó, chất lượng các công trình xây dựng hiện nay có thể nói rất thấp, không đảm bảo đúng thiết kế và thật đáng báo động. Công trình xây dựng đường mới vừa làm xong chưa bàn giao đã xuống cấp, Công trình Thủy điện Sông Tranh 2 bị rò rỉ nước ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng 40.000 người dân sinh sống trong vùng, Công trình Thủy điện Ia Krêl vỡ đập do thấm nước, lỗi kỹ thuật … những thông tin như vậy tràn lan trên các mặt báo thường ngày. Thực trạng thất thoát, lãng phí và tiêu cực trong xây dựng cơ bản đã được đăng tải nhiều trên các phương tiện truyền thông và tại nhiều diễn đàn, gây nhức nhối trong toàn xã hội. Thi công không đảm bảo khối lượng theo thiết kế được phê duyệt hoặc thi công không đúng thiết kế dẫn đến phải phá đi làm lại; sử dụng vật liệu không đảm bảo chất lượng; khai khống khối lượng; ăn bớt vật liệu, chất lượng công trình không đảm bảo... gây lãng phí lớn trong quá trình thi công các công trình xây dựng. Ngoài ra, công tác tổ chức thi công các công trình xây dựng hiện nay đang gây ra một số Trang 2 vấn đề tác động đến môi trường và xã hội. Điển hình là các vụ việc người dân bức xúc vì bụi do các đơn vị thi công gây ra đã chặn đường không cho xe, máy đơn vị thi công làm chậm trễ tiến độ; không chịu hợp tác di dời… , thậm chí tiêu cực đến mức đã đập phá trụ sở làm việc của đơn vị thi công. Tuy nhiên, những vấn đề nêu trên không dễ gì tìm thấy được đối tượng hay bộ phận nào chịu trách nhiệm cũng như các công ty phải tiêu tốn thêm nhiều chi phí cho việc khắc phục hậu quả. Cạnh tranh toàn cầu ngày càng diễn ra gay gắt cộng với những thay đổi không ngừng của khoa học công nghệ, môi trường cạnh tranh dẫn đến các hệ thống kiểm soát cũ không đủ khả năng đáp ứng nếu không chịu cập nhật, điều chỉnh. Nhu cầu cung cấp thông tin cho nhà quản lý trong quá trình ra quyết định hiện nay bên cạnh các chỉ tiêu tài chính còn phải xét đến các chỉ tiêu phi tài chính …Trong báo cáo quốc gia về Thực hiện phát triển bền vững ở Việt Nam tại Hội nghị cấp cao của Liên hợp quốc về phát triển bền vững (RIO + 20), mục tiêu tổng quát của Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam là “Đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường”. Đây chính là trách nhiệm và thách thức lớn đặt ra cho các doanh nghiệp trong nước nói chung và các công ty xây dựng nói riêng. Vì vậy, trong tiến trình phát triển và hội nhập, vấn đề bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống … đòi hỏi các đơn vị thi công xây lắp phải chủ động quan tâm, đánh giá trách nhiệm quản lý của các bộ phận có liên quan đến các vấn đề trên. Để thực hiện được những vấn đề và các yêu cầu nêu trên, cần thiết phải có một công cụ kiểm soát hữu hiệu giúp cho nhà quản lý thực hiện việc kiểm soát quản lý trong môi trường cạnh tranh toàn cầu hiện nay; phù hợp với xu thế hội nhập, phát triển bền vững. Tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm trong các tổng công ty xây dựng là một trong những công cụ cần thiết có thể đáp ứng được các yêu cầu của thực tiễn, phù hợp với xu thế hiện nay. Trang 3 Xuất phát từ những yêu cầu cần thiết, khách quan đã nêu trên, tác giả đã quyết định chọn đề tài “Tổ chức kế toán trách nhiệm trong các Tổng công ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải” làm đề tài nghiên cứu cho luận án của mình. 2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu kế toán trách nhiệm 2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Nhu cầu về thông tin để hoạch định và kiểm soát tài chính hoạt động sản xuất kinh doanh đã thúc đẩy sự hình thành kế toán trách nhiệm (Responsibility Accounting). Từ khi Robert Anthony giới thiệu quyển sách kế toán quản trị năm 1956 tập trung vào ba vấn đề chính: giới thiệu kế toán quản trị là gì, làm thế nào có thể hệ thống và phân tích vấn đề mới để ra quyết định, giới thiệu các công cụ kiểm soát chi phí thích hợp, các nghiên cứu tiếp theo sau về kế toán quản trị nói chung, kế toán trách nhiệm nói riêng được nhiều sự quan tâm, nghiên cứu của các chuyên gia, nhà khoa học. - Martin N. Kellogg (1962) thông qua công trình “Fundamentals of Responsibility Accounting” đăng trên tạp chí “National Association of Accountants” đã trình bày những nghiên cứu về sự phát triển của kế toán trách nhiệm trong mối quan hệ giữa kế toán trách nhiệm với cơ cấu tổ chức, kế toán trách nhiệm với kế toán chi phí, kế toán trách nhiệm với ngân sách, kế toán trách nhiệm với kiểm soát chi phí. Kế toán trách nhiệm có mối quan hệ chặt chẽ với phân cấp quản lý và với kế toán chi phí. Nguyên tắc để thiết lập một hệ thống kế toán trách nhiệm là phải phân chia tổ chức thành các bộ phận, đơn vị theo từng chức năng cụ thể; phân công trách nhiệm cho các bộ phận đã được phân chia; yêu cầu các bộ phận này phải lập các báo cáo và thực hiện giám sát từng cấp quản lý. Ngoài ra, tác giả cũng đề cập đến hệ thống kế toán chi phí được sử dụng như là công cụ quản lý, trước hết phải gán trách nhiệm cho từng khoản chi phí. Để kiểm soát được chi phí thì cần phải tìm hiểu và xác định được nguồn gốc phát sinh chi phí. - Tác giả Joseph P. Vogel (1962) cũng đã bàn về kế toán trách nhiệm thông qua công trình “Rudiments of Responsibility Accounting in Public Utilities” đăng trên tạp chí “National Association of Accountants”. Kế toán trách nhiệm trước hết được sử dụng để kiểm soát chi phí. Tác giả đã đề cập đến việc xây dựng và thiết lập Trang 4 hệ thống kế toán trách nhiệm trong doanh nghiệp. Kế toán trách nhiệm được thiết kế phù hợp với cơ cấu tổ chức của từng doanh nghiệp, tùy thuộc vào quy mô hoạt động mà phân cấp quản lý. Kế toán trách nhiệm phải được xây dựng trên cơ sở phân cấp quản lý nhằm thu thập thông tin cũng như kiểm soát thông tin tại các bộ phận, từ đó cung cấp thông tin cho nhà quản trị ra quyết định một cách có hiệu quả. Việc làm này theo tác giả là không hề đơn giản. - Năm 1963, N.J. Gordon đã thông qua công trình “Toward a Theory of Responsibility Accounting System” đăng trên tạp chí “National Association of Accountants” đã trình bày những nghiên cứu về lý thuyết của hệ thống kế toán trách nhiệm. Cơ sở của hệ thống kế toán trách nhiệm là lý thuyết kinh tế về tổ chức. Kế toán trách nhiệm chỉ phát huy hiệu quả khi doanh nghiệp có phân cấp quản lý và có tổ chức. Lý thuyết tổ chức được quan tâm trong mối quan hệ với phân quyền. Vì vậy, nghiên cứu về kế toán trách nhiệm là nghiên cứu đến vấn đề về kinh tế lẫn xã hội. - Tác giả Ahmed Belkaoui (1981) thông qua công trình “The Relationship between self – disclosure Style and Attitude to Responsibility Accounting” đăng trên tạp chí “Organization and Society, Vol.6, N4, P 181-189” đã trình bày những nghiên cứu chuyên sâu về khái niệm, điều kiện thực hiện kế toán trách nhiệm trong tổ chức với phương pháp nghiên cứu cụ thể. Nhiều khái niệm mới liên quan đến kế toán trách nhiệm cũng được tác giả làm rõ như trung tâm trách nhiệm, trung tâm chi phí … Tác giả cũng đã nhấn mạnh rằng nhân tố con người, nhân tố cá nhân đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của hệ thống kế toán trách nhiệm vì nhà quản lý phải tự chịu trách nhiệm về hiệu quả của đơn vị mình. - Bên cạnh các nghiên cứu về lý thuyết, các nghiên cứu thực nghiệm về kế toán trách nhiệm cũng dần dần được triển khai, ứng dụng. Năm 1992, các tác giả Brian P.Bloomfield Rod Coombs, David J. Cooper, David Rea đã nghiên cứu, phân tích hệ thống thông tin quản lý trong bệnh viện tại Anh qua công trình “Machines and Manoeuvres: Responsibility Accounting and the Construction of Hospital Information Systems”. Năm 1977, tác giả Shih, Michael SH đã thực hiện quá trình điều tra làm thế nào các công ty thiết kế hệ thống đánh giá hiệu năng cho các nhà Trang 5 quản lý cây trồng qua công trình “Responsibility Accounting and Controllability: Determinants of Performance Evaluation Systems for Plant Managers in Canada” … - Bổ sung và nhấn mạnh thêm các nghiên cứu về kế toán trách nhiệm, các tác giả Rick Antle và Joel S. Demski (1998) thông qua công trình “The Controllability Principle in Responsibility Accounting” đăng trên tạp chí “The Accounting review, Vol. 63, No 4, P 700-718” đã làm sáng tỏ nguyên tắc có thể kiểm soát được trong kế toán trách nhiệm là như thế nào. Tác giả Emma I. Okoye (2009) thông qua công trình “Improvement of Managerial Performance in Manufactoring Organizations: An Application of Responsibility Accounting” đăng trên tạp chí “Journal of Management Sciences, Vol.9, No. 1, P 1-17” đã trình bày những nghiên cứu về mối quan hệ giữa kế toán trách nhiệm và thành quả quản lý trong các doanh nghiệp sản xuất; kế toán trách nhiệm là công cụ để đánh giá trách nhiệm quản lý… - Trong hơn một thập niên gần đây, vấn đề về môi trường, trách nhiệm xã hội, phát triển bền vững được nhiều quốc gia, tổ chức và các nhà khoa học quan tâm nhiều hơn. Các ấn phẩm, các quy định, luật lệ về môi trường, phát triển bền vững được công bố ngày càng nhiều hơn như: “Environmental Management Accounting Procedures and Principles” của UNITED NATIONS (2001); “Sustainability Report” của European Commission, “Integrated Financial and Sustainability Reporting in the United States” của IRRC Institute v.v…Các nghiên cứu về kế toán nói chung và kế toán trách nhiệm nói riêng cũng không nằm ngoài xu thế đó. Nghiên cứu của Jaroslava HYRŠLOVÁ và Miroslav HÁJEK (2006) “Environmental Accounting - an Important part of an Information System in the Conditions when the Company Approach to the Environment Influences its Prosperity” được đăng trên tạp chí Economics and Management: Ekonomika ir Vadyba; nghiên cứu của Emma I. Okoye, 2009. “Improvement of Managerial Performance in Manufactoring Organizations: An Application of Responsibility Accounting” được đăng trên tạp chí “Journal of Management Sciences, Vol.9, No. 1,P 1-17”; nghiên cứu của Fredrik S. Larsson & Stefan Svensson, 2010 “Does Corporate Environmentalism have an Influence on Management Accounting Trang 6 Practices ? A study of companies in environmental-sensitive industries” đăng trên “School of Business, Economics and Law, University of Gothenburg” là những nghiên cứu rất có ý nghĩa về việc nghiên cứu và đưa vấn đề môi trường vào trong kế toán. Thêm vào đó, một trong những nghiên cứu về kế toán trách nhiệm xã hội cần phải kể đến đó là nghiên cứu của Sajad Gholami và các cộng sự (2012) “Social Responsibility Accounting: From Theory to Practice” được đăng trên tạp chí “Journal of Basic and Applied Scientific Research”. Nghiên cứu này đã chỉ ra bên cạnh các mục tiêu về tài chính, các doanh nghiệp phải chú trọng đến trách nhiệm đối với xã hội vì những hành vi phi đạo đức sẽ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của đơn vị. Các nghiên cứu về kế toán trách nhiệm cũng không tách rời xu hướng nêu trên. Nghiên cứu của Simmons, A (2002) “Turf wars at work” đăng trên tạp chí “Strategic Finance” (August): P.51-55 (Problems with Relationships between Responsibility Centers, and how to deal with them); nghiên cứu của Lin, Z. J. and Z. Yu (2002) “Responsibility Cost Control System in China: A Case of Management Accounting Application” đăng trên tạp chí “Management Accounting Research” (December): P.447-467; nghiên cứu của Schoute, M (2008) “Determinants of Responsibility Centre Choices – An Empirical Study at the Managerial Level” đăng trên tạp chí “Journal of Applied Management Accounting Research” (Winter): P.47-58; nghiên cứu của Garber, M (2011) “Profit Center Accounting: Theory and Practice” đăng trên “The CPA Journal” (April): P.6-12… Đặc biệt là nghiên cứu của Verschoor, C. C (2012) “Responsibility Reporting is getting more attention” đăng trên tạp chí “Strategic Finance” (December): 12, P.1415 nhấn mạnh tầm quan trọng của kế toán trách nhiệm cũng như đề nghị kế toán trách nhiệm cần phải được quan tâm, chú ý nhiều hơn nữa. Như vậy, trong những năm gần đây, kế toán nói chung và kế toán trách nhiệm nói riêng đã đi sâu vào những vấn đề về môi trường, trách nhiệm xã hội và phát triển bền vững. Để đánh giá thành quả của các bộ phận, các mô hình đánh giá thành quả đã được các nhà khoa học nghiên cứu, đề xuất thực hiện. Một trong những mô hình đánh giá kết hợp cả 3 vấn đề kinh tế (tài chính), môi trường và xã hội phục vụ phát triển bền vững đó là mô hình Knowledge Management Star (KM Trang 7 Star) do Nirmal Pal và các cộng sự công bố năm 2004 qua nghiên cứu “Knowledge QuoitientTM (KQ): A way to Measure the Knowledge Intensity of your Team” của đại học Penn State. Cụ thể mô hình này đánh giá thành quả của bộ phận dựa trên 5 khía cạnh: tài chính, tính bền vững, khách hàng, quy trình và nhận thức. Đây chính là tài liệu mà tác giả đã nghiên cứu và kết hợp với lý thuyết về kế toán trách nhiệm (Responsibility Accounting) để vận dụng, triển khai các ý tưởng xây dựng việc đánh giá trách nhiệm quản lý của các bộ phận trong chương 3 của luận án. Đây cũng chính là điểm mới mà chưa có tác giả nào trong nước công bố. Tóm lại, kế toán trách nhiệm là công cụ kiểm soát rất hiệu quả đã được các tác giả ngoài nước nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau. Đây là những nội dung rất bổ ích cho việc kế thừa để vận dụng tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm trong điều kiện thực tiễn ở Việt Nam. Tuy nhiên, có thể nói các công trình nghiên cứu được giới thiệu, trình bày trên đây tập trung chủ yếu ở tầm vĩ mô, hoặc có tính khái quát mà chưa đưa ra cụ thể về tổ chức kế toán trách nhiệm trong loại hình công ty xây dựng, trong xu thế hội nhập, phát triển bền vững. Đây chính là “lổ hổng” trong nghiên cứu mà tác giả đã phát hiện ra để tiếp tục nghiên cứu. 2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Việc nghiên cứu kế toán trách nhiệm nói chung và tổ chức kế toán trách nhiệm trong các tổng công ty nói riêng trong thời gian qua đã có một số cơ quan, tác giả đã đề cập và nghiên cứu. Ngoài ra, một số công trình đăng tải trên các tạp chí, sách, báo … về vấn đề này cũng được công bố. Tuy vậy, có thể nói mảng đề tài kế toán trách nhiệm nói chung hay kế toán trách nhiệm trong các tổng công ty nói riêng hiện nay trong nước có rất ít tài liệu cũng như tác giả nghiên cứu, trình bày. Có thể điểm sơ về tình hình nghiên cứu kế toán quản trị nói chung, kế toán trách nhiệm nói riêng trong nước thời gian qua như sau: Kế toán quản trị được các nhà nghiên cứu ở Việt Nam bắt đầu nghiên cứu từ đầu những năm 1990. Tác giả Nguyễn Việt (1995) trong Luận án “Vấn đề hoàn thiện kế toán Việt Nam” đã trình bày phương hướng và giải pháp xây dựng hệ thống kế toán tài chính và kế toán quản trị trong các doanh nghiệp Việt Nam. Đây là những đề xuất mang tính sơ khai trong bối cảnh kế toán quản trị bắt đầu được Trang 8 nghiên cứu. Do đó, những nội dung về kế toán quản trị được trình bày mang tính cơ bản. Năm 1997, tác giả Phạm Văn Dược đã nghiên cứu về “Phương hướng xây dựng nội dung và tổ chức vận dụng kế toán quản trị vào doanh nghiệp Việt Nam” trong đó so sánh về mặt lý luận sự giống và khác nhau giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính; vai trò, nội dung và các nghiệp vụ của kế toán quản trị. Tác giả đã có những nghiên cứu cụ thể và đề xuất các biện pháp ứng dụng kế toán quản trị vào thực tiễn trong các doanh nghiệp Việt Nam với 5 giải pháp vĩ mô và 6 giải pháp vi mô. Đây chính là bước khởi xướng cho những nghiên cứu tiếp nối về kế toán quản trị sau này. Tuy nhiên, do tính mới mẻ của kế toán quản trị và điều kiện nền kinh tế lúc bấy giờ nên những nghiên cứu này mang tính đính hướng, chung chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp chứ chưa đi vào cụ thể từng ngành nghề. Từ đầu những năm 2000, yêu cầu cấp thiết của xã hội đặt ra là phải xây dựng mô hình kế toán quản trị theo từng ngành kinh doanh để các doanh nghiệp trong ngành làm cơ sở xây dựng riêng cho mình. Do đó, đã xuất hiện một số nghiên cứu về các vấn đề cụ thể của kế toán quản trị áp dụng riêng cho các loại hình doanh nghiệp. Luận án “Kế toán quản trị và phân tích chi phí sản xuất trong ngành sản xuất công nghiệp” của Tiến sĩ Lê Đức Toàn, Luận án “Phương hướng xây dựng hệ thống báo cáo kế toán quản trị và tổ chức vận dụng vào các doanh nghiệp Việt Nam” của Tiến sĩ Phạm Quang, Luận án “Tổ chức kế toán quản trị chi phí và giá thành trong doanh nghiệp sản xuất ở Việt Nam” của Tiến sĩ Trần Văn Dung…đã đi theo xu hướng trên. Nhìn chung, các nghiên cứu lúc này chỉ mới đi sâu vào nội dung kế toán quản trị chứ chưa đề cập hoặc chỉ mới đề cập sơ khai về kế toán trách nhiệm. Tuy vậy, kế toán trách nhiệm đã có những manh nha ban đầu như việc tổ chức các trung tâm trách nhiệm, các công cụ sử dụng để đánh giá trách nhiệm quản lý về chi phí, đầu tư … Năm 2010, tác giả Phạm Văn Dược đã thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học “Tổ chức hệ thống báo cáo kế toán đánh giá trách nhiệm bộ phận trong doanh nghiệp thương mại tại Việt Nam” tại Trường ĐH kinh tế Tp Hồ Chí Minh. Đây là một trong những tài liệu rất có giá trị cho việc nghiên cứu về kế toán trách nhiệm. Tài liệu này đã hệ thống hóa được cơ sở lý luận về kế toán trách nhiệm, kinh Trang 9 nghiệm nước ngoài rất cụ thể và đầy đủ. Tài liệu đã trình bày được một hệ thống báo cáo đánh giá trách nhiệm quản trị được thiết lập phù hợp với cơ cấu tổ chức trong doanh nghiệp thương mại; xác lập các trung tâm trách nhiệm nhằm cung cấp thông tin phục vụ kiểm soát, và đánh giá trách nhiệm quản trị của các cấp quản lý khác nhau. Mặc khác, để công tác xây dựng hệ thống báo cáo đánh giá trách nhiệm quản trị có thể áp dụng cho loại hình doanh nghiệp thương mại mang tính khả thi cao, nghiên cứu đã xác định một số điều kiện để thực hiện quy trình xây dựng hệ thống báo cáo đánh giá trách nhiệm quản trị trong các doanh nghiệp thương mại. Ngoài ra, để hệ thống báo cáo đánh giá trách nhiệm quản trị được xây dựng có thể vận dụng thành công trong loại hình doanh nghiệp thương mại, nghiên cứu cũng đã nêu lên một số giải pháp hỗ trợ từ phía Nhà nước và doanh nghiệp. Cũng trong năm này, Luận án của Tiến sĩ Hoàng Văn Tưởng “Tổ chức kế toán quản trị với việc tăng cường quản lý hoạt động kinh doanh trong các doanh nghiệp xây lắp Việt Nam” đã nghiên cứu đến việc tổ chức các trung tâm trách nhiệm trong các doanh nghiệp xây lắp. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp nhỏ và chỉ được trình bày ở góc độ phân công, phân nhiệm chứ chưa đi vào cụ thể, chi tiết và đầy đủ mà một hệ thống kế toán trách nhiệm trong doanh nghiệp xây lắp cần phải xây dựng. Luận án của Tiến sĩ Trần Văn Tùng (2010) ““Xây dựng hệ thống báo cáo đánh giá trách nhiệm quản trị trong công ty niêm yết ở Việt Nam” đã trình bày những nghiên cứu về mặt lý luận của hệ thống báo cáo kế toán trách nhiệm nói chung, đặc thù kế toán trách nhiệm trong các công ty cổ phần và mô hình tổ chức kế toán trách nhiệm trong công ty cổ phần của một số quốc gia phát triển trên thế giới. Nhằm cung cấp thông tin phục vụ kiểm soát, và đánh giá trách nhiệm quản trị của các cấp quản lý khác nhau, luận án này cũng đã đưa ra mô hình cơ cấu tổ chức mang tính phổ biến trong công ty niêm yết, với cơ chế quản lý theo mô hình Tổng công ty có sự phân cấp và hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, từ đó đề nghị mô hình chung về xây dựng hệ thống báo cáo đánh giá trách nhiệm quản trị cho Tổng công ty. Luận án cũng đã xác định được một số điều kiện để thực hiện quy trình xây dựng hệ thống báo cáo đánh giá trách nhiệm quản trị trong các công ty niêm yết, như công ty phải xây dựng rõ động cơ, mục tiêu chung và lựa chọn mô hình tổ chức quản lý phù hợp, phân cấp quản lý rõ ràng, trên Trang 10 cơ sở đó xác lập cơ chế quản lý thành những trung tâm trách nhiệm cụ thể; xây dựng hệ thống định mức – tiêu chuẩn liên quan đến các chỉ tiêu của các báo cáo trách nhiệm; xác lập các phương pháp phân bổ chi phí gián tiếp và phân tích báo cáo bộ phận; định giá sản phẩm, dịch vụ chuyển giao nội bộ. Năm 2013, Luận án “Xây dựng mô hình kế toán trách nhiệm trong các doanh nghiệp sản xuất Sữa Việt Nam” của Tiến sĩ Nguyễn Thị Minh Phương đã nghiên cứu việc tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm nhằm cung cấp các thông tin hữu ích cho các nhà quản trị đánh giá hiệu quả kinh doanh và trách nhiệm quản lý của từng bộ phận trong đặc thù loại hình doanh nghiệp sản xuất Sữa tại Việt Nam. Đây là một trong những tài liệu có giá trị về nghiên cứu và tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm trong doanh nghiệp đặc thù. Như vậy, có thể nói, các nghiên cứu trong nước về tổ chức kế toán trách nhiệm trong những năm gần đây bắt đầu đã đi vào cụ thể một số loại hình doanh nghiệp. Đã hệ thống hóa được những lý luận cơ bản về tổ chức kế toán trách nhiệm trong doanh nghiệp và đã đề cập đến các mô hình tổ chức kế toán trách nhiệm phù hợp với loại hình doanh nghiệp như tổng công ty, công ty cổ phần. Đây cũng chính là những nội dung mà luận án kế thừa và tham khảo trong quá trình thực hiện nghiên cứu. Tóm lại, thông qua nghiên cứu tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến kế toán trách nhiệm trong nước cũng như ngoài nước, tác giả thấy rằng các công trình nghiên cứu được giới thiệu, trình bày trên đây chưa thực hiện nghiên cứu cụ thể về tổ chức kế toán trách nhiệm trong loại hình công ty xây dựng, trong xu thế hội nhập, phát triển bền vững. Mảng nghiên cứu đề tài tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm tại các Tổng công ty xây dựng cho đến nay chưa có tác giả nào thực hiện. Nói cách khác, các nghiên cứu trong và ngoài nước cho đến thời điểm này vẫn chưa đề cập đến các nội dung: - Tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm cho các doanh nghiệp đặc thù ngành xây dựng nói chung và các Tổng công ty xây dựng nói riêng. - Đánh giá thành quả quản lý các trung tâm trách nhiệm một cách toàn diện (trên cả phương diện định tính và định lượng). Trang 11 - Yêu cầu đặt ra cho việc đánh giá thành quả quản lý các trung tâm trách nhiệm trong tổng công ty xây dựng trong xu thế hội nhập, phát triển bền vững. Do đó, việc nghiên cứu đề tài tổ chức kế toán trách nhiệm tại các Tổng công ty xây dựng là cần thiết tiếp tục kế thừa các công trình trên và đề xuất tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm phù hợp với đặc thù doanh nghiệp xây dựng, phù hợp với xu thế hội nhập, phát triển bền vững. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Để tìm hiểu và làm sáng tỏ thực trạng tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm ở các tổng công ty xây dựng trong thời gian để từ đó nhận diện được những nguyên nhân, ảnh hưởng cũng như sự cần thiết phải tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm cho các tổng công ty xây dựng trong thời gian đến, luận án đã tiến hành khảo sát thực tế về kế toán trách nhiệm đang được áp dụng trong các tổng công ty xây dựng. Phạm vi khảo sát là 7 Tổng công ty xây dựng thuộc Bộ GTVT: - Tổng công ty xây dựng Thăng Long; - Tổng công ty xây dựng Đường thủy; - Tổng công ty xây dựng Công trình giao thông 1; - Tổng công ty xây dựng Công trình giao thông 4; - Tổng công ty xây dựng Công trình giao thông 5; - Tổng công ty xây dựng Công trình giao thông 6; - Tổng công ty xây dựng Công trình giao thông 8. 4. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu chính của luận án nhằm đề xuất tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm cho các tổng công ty xây dựng trong xu thế hội nhập, phát triển bền vững. Vì vậy, mục tiêu cụ thể được đặt ra là: - Tổng kết những lý luận cơ bản về kế toán trách nhiệm, các tiếp cận về tổ chức kế toán trách nhiệm trên thế giới nhằm xây dựng những luận cứ khoa học về tổ chức kế toán trách nhiệm trong các tổng công ty xây dựng. - Đánh giá thực trạng tổ chức kế toán trách nhiệm trong các tổng công ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải quản lý trong những năm qua. Trang 12 - Xác lập mô hình tổ chức kế toán trách nhiệm cho các tổng công ty xây dựng trong thời gian đến. 5. Phương pháp nghiên cứu - Đề tài vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin, các quan điểm của Đảng, Chính phủ và các chính sách của Nhà nước. - Để đạt được mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ đặt ra, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp. Trong phương pháp này, tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính (Qualitative approach) mà cụ thể là phương pháp tình huống (case study research) làm phương pháp nghiên cứu chính; sử dụng phương pháp định lượng hỗ trợ thêm để làm sáng tỏ thêm vấn đề cần nghiên cứu. Đây chính là dạng thiết kế hỗn hợp gắn kết. “Thiết kế hỗn hợp gắn kết là dạng thiết kế trong đó một phương pháp (định tính hoặc định lượng) là chính và phương pháp còn lại gắn vào với phương pháp chính. Như vậy, phương pháp gắn kết (phụ) này đóng vai trò hỗ trợ thêm dữ liệu cho phương pháp chính” (Nguyễn Đình Thọ, 2011, trang 198). Trong phương pháp tình huống (case study research), công cụ tác giả lựa chọn sử dụng để thu thập dữ liệu đó chính là khảo sát và quan sát (observation). “Phân tích dữ liệu định tính là quá trình đi tìm ý nghĩa của dữ liệu” (Nguyễn Đình Thọ, 2011, trang 130). Vì vậy, tác giả tiến hành khảo sát các nhà khoa học, các chuyên gia trong lĩnh vực kế toán và các cấp quản lý trong tổng công ty từ Hội đồng thành viên, Tổng (phó) tổng giám đốc, ban giám đốc các công ty thành viên, các trưởng, phó phòng kế toán; các đội trưởng, tổ trưởng tổ thi công các công trình xây dựng. và quan sát đối tượng nghiên cứu (những vấn đề về tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm trong các tổng công ty xây dựng) để thu thập và phân tích dữ liệu. Ngoài phương pháp chủ đạo nêu trên, luận án còn sử dụng các phương pháp khác như phương pháp tổng hợp, phương pháp điều tra, phỏng vấn sâu … để nghiên cứu và trình bày các vấn đề lý luận và thực tiễn. Quy trình áp dụng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp trải qua 7 bước: Trang 13 Bước 1: Phát hiện lỗ hổng nghiên cứu Bước 2: Xác định câu hỏi nghiên cứu Bước 3: Chọn tình huống Bước 4: Chọn phương pháp thu thập dữ liệu Bước 5: Thu thập dữ liệu Bước 6: Phân tích dữ liệu Bước 7: Xây dựng mô hình Cụ thể: - Bước 1: Phát hiện lỗ hổng nghiên cứu Qua tham khảo các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm trong doanh nghiệp, một số vấn đề mà các tác giả đã chưa đề cập đến là: + Việc tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm cho các doanh nghiệp đặc thù ngành xây dựng nói chung và các Tổng công ty xây dựng nói riêng. + Việc đánh giá thành quả quản lý các trung tâm trách nhiệm trên cả phương diện định tính và định lượng. + Yêu cầu đặt ra cho việc đánh giá thành quả quản lý các trung tâm trách nhiệm trong tổng công ty xây dựng trong xu thế hội nhập, phát triển bền vững. - Bước 2: Xác định câu hỏi nghiên cứu. Để đạt được các mục tiêu mà đề tài đã đặt ra, cần phải trả lời một cách thỏa đáng một số vấn đề nghiên cứu sau: Trang 14 1. Kế toán trách nhiệm là gì? Tình hình nghiên cứu và ứng dụng kế toán trách nhiệm trong và ngoài nước đã được giải quyết như thế nào? 2. Tình hình tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm trong các tổng công ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải quản lý trong thời gian qua đã được thực hiện như thế nào? Những hạn chế và nguyên nhân? 3. Tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm cho các doanh nghiệp ngành xây dựng nói chung và các Tổng công ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải quản lý nói riêng có những điểm đặc thù gì ? và cần phải giải quyết như thế nào để phù hợp các yêu cầu tăng cao chất lượng và hiệu quả về mặt kinh tế - môi trường - xã hội ? 4. Trong xu thế hội nhập, phát triển bền vững, yêu cầu đặt ra cho việc đánh giá thành quả quản lý các trung tâm trách nhiệm trong tổng công ty xây dựng như thế nào? Các chỉ tiêu sử dụng để đánh giá thành quả quản lý của các trung tâm trách nhiệm trên cả phương diện định tính và định lượng là các chỉ tiêu gì? - Bước 3: Chọn tình huống. Từ những câu hỏi được xác định như phần trên, tình huống mà luận án lựa chọn đó chính là những vấn đề về tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm trong các tổng công ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải quản lý. Cụ thể là tập trung về công tác xây dựng tầm nhìn chiến lược của các tổng công ty; công tác tổ chức bộ máy và phân cấp quản lý; hệ thống các báo cáo và các công cụ được sử dụng để đánh giá trách nhiệm quản lý cũng như những yêu cầu cấp thiết của xu thế hội nhập, phát triển bền vững đối với các doanh nghiệp xây lắp. - Bước 4. Chọn phương pháp thu thập dữ liệu. Để có được thông tin về những vấn đề tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm trong các tổng công ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải quản lý, phương pháp được tác giả lựa chọn sử dụng để thu thập dữ liệu chính là phương pháp khảo sát, phỏng vấn sâu kết hợp với tìm hiểu và nghiên cứu trực tiếp trên cơ sở quan sát (observation) và một số phương pháp khác như thống kê, tổng hợp … Cụ thể, tác giả khảo sát, phỏng vấn sâu các nhà khoa học, các chuyên gia trong lĩnh vực kế toán và các cấp quản lý trong tổng công ty từ Hội đồng thành viên, Tổng (phó) tổng giám đốc, ban giám đốc các công ty thành viên, các trưởng, Trang 15 phó phòng kế toán; các đội trưởng, tổ trưởng tổ thi công các công trình xây dựng để khảo sát và phỏng vấn trực tiếp các nội dung xoay quanh các câu hỏi nghiên cứu như phân cấp quản lý, cơ cấu tổ chức, tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm, các thông tin quá trình hoạt động và đánh giá trách nhiệm quản lý trong việc thực hiện nhiệm vụ của các bộ phận … kết hợp với quan sát, điều tra nghiên cứu, ghi chép tại các tổng công ty xây dựng, các công ty thành viên. Ngoài ra, tác giả cũng tiến hành thu thập các thông tin về tác động của hoạt động xây dựng đến môi trường, xã hội cũng như thái độ của người dân, của xã hội liên quan đến hoạt động xây dựng và yêu cầu của xu thế hội nhập, phát triển bền vững … với vai trò là người quan sát hoàn toàn (The complete observer). Tuy số lượng mẫu khảo sát chưa lớn do đặc thù đối tượng khảo sát hạn chế nhưng vẫn đảm bảo được trên mức tối thiểu trong nghiên cứu thống kê. - Bước 5. Thu thập dữ liệu. Số liệu thứ cấp: Tìm hiểu và nghiên cứu các Nghị định của chính phủ, các Quyết định của Bộ xây dựng, các Quy chế, Điều lệ tổ chức của các tổng công ty xây dựng, các báo cáo của các công ty xây dựng, các sách tham khảo, tài liệu nghiên cứu về kế toán trách nhiệm trong và ngoài nước… Số liệu sơ cấp: tác giả sử dụng bảng câu hỏi và điện thoại để tiến hành phỏng vấn sâu các nhà quản lý; trực tiếp khảo sát và quan sát thực tiễn về tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm trong các tổng công ty xây dựng tại các Tổng công ty xây dựng do Bộ giao thông vận tải làm chủ sở hữu. Ngoài ra, tác giả còn tham khảo các bài báo, các đánh giá về chất lượng công trình xây dựng, những rào cản trong quá trình thi công xây dựng; thái độ của người dân, của xã hội liên quan đến hoạt động xây dựng và yêu cầu của xu thế hội nhập, phát triển bền vững hiện nay. - Bước 6. Phân tích dữ liệu. Dựa trên số liệu sơ cấp và thứ cấp được thu thập, tác giả tiến hành phân tích, đánh giá giữa thực trạng với các thách thức, cơ hội, xu thế phát triển; nhận diện những hạn chế và nguyên nhân ảnh hưởng của công tác phân cấp quản lý, công tác lập kế hoạch, dự toán, hệ thống thông tin báo cáo, đánh giá trách nhiệm quản lý … Trang 16 trong các tổng công ty xây dựng. Tác giả sử dụng phầm mềm SPSS để hỗ trợ trình bày thống kê mô tả và kiểm định sau. - Bước 7. Xây dựng mô hình Qua phân tích các dữ liệu kết hợp với những lý luận về tổ chức kế toán trách nhiệm trong doanh nghiệp, tác giả tiến hành xác lập mô hình tổ chức kế toán trách nhiệm trong các tổng công ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải quản lý. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án Các nghiên cứu cho thấy kế toán quản trị xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào những năm đầu của thế kỉ XIX. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, kế toán quản trị vẫn là một lĩnh vực tương đối mới mẻ đặc biệt là vận hành, ứng dụng trong từng lĩnh vực hoặc đối tượng cụ thể. Vì vậy, luận án là một tài liệu bổ ích cho việc nghiên cứu và vận dụng kế toán quản trị nói chung, kế toán trách nhiệm nói riêng vào các doanh nghiệp có quy mô lớn, hoạt động trong lĩnh vực xây dựng. Những nội dung được trình bày trong luận án là sự tổng kết các quan điểm của nhiều tác giả, kinh nghiệm của các số nước cũng như những đề xuất mới mẻ gửi cho các Tổng công ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải quản lý nhằm từ đó góp phần làm sáng tỏ hơn bản chất và nội dung của kế toán quản trị cũng như những điều kiện cấp thiết cho việc tổ chức, thực hiện kế toán trách nhiệm cho các tổng công ty xây dựng ở Việt Nam. Mặc dù Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 53/2006/TT-BTC về việc hướng dẫn áp dụng Kế toán quản trị trong doanh nghiệp, nhưng việc nghiên cứu, vận dụng kế toán quản trị nói chung và kế toán trách nhiệm nói riêng cho các doanh nghiệp ở Việt Nam là một việc không hề đơn giản và cho đến nay Thông tư này gần như đã đi vào quên lãng. Thực tế ở nước ta, việc sử dụng các thông tin do kế toán cung cấp cho quản trị doanh nghiệp còn hạn chế. Kế toán quản trị ở vẫn chưa được quan tâm đầy đủ tương xứng với vị trí và vai trò của nó trong quản trị doanh nghiệp. Từ thực tế này, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần vào quá trình hoàn thiện nội dung tổ chức kế toán quản trị nói chung và kế toán trách nhiệm nói riêng để phục vụ cho việc quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh trong các tổng công ty, đặc biệt là các tổng công ty xây dựng. Ngoài ra, nội dung tổ chức kế toán trách nhiệm được xác lập trong luận án cần được dựa trên tiến trình phát triển và hội nhập theo mục Trang 17 tiêu phát triển bền vững. Đây chính là điểm mới mà chưa có tác giả nào trong nước đã công bố. 7. Kết cấu của luận án Kết cấu của luận án bao gồm các phần và chương sau: - Phần 1: Phần mở đầu; - Phần 2: Nội dung nghiên cứu: (được trình bày trong 3 chương) Chương 1: Lý thuyết về kế toán trách nhiệm và việc áp dụng kế toán trách nhiệm ở các doanh nghiệp + Lược sử phát triển của kế toán trách nhiệm; + Nội dung kế toán trách nhiệm và những vấn đề liên quan đến việc áp dụng được và có hiệu quả kế toán trách nhiệm vào hoạt động thực tiễn ở các doanh nghiệp; + Tổ chức kế toán trách nhiệm ở một số quốc gia và những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam; + Đặc điểm mô hình tổ chức tổng công ty xây dựng và những ảnh hưởng của nó đến việc tổ chức thực hiện hệ thống kế toán trách nhiệm; Chương 2: Thực trạng tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm trong các Tổng công ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải quản lý + Đặc điểm hoạt động xây dựng và tổ chức hoạt động xây dựng chi phối đến tổ chức kế toán trách nhiệm. + Thực trạng tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm ở các tổng công ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải quản lý. Chương 3: Xác lập mô hình tổ chức kế toán trách nhiệm cho các Tổng công ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải quản lý + Quan điểm và định hướng; + Xác lập điều kiện vận hành cho mô hình được thiết kế; + Xây dựng hệ thống các báo cáo; + Vận dụng mô hình KM Star trong việc đánh giá trách nhiệm quản lý các trung tâm trách nhiệm. Trang 18 - Phần 3: Kết luận và kiến nghị. - Danh mục các công trình công bố kết quả nghiên cứu - Danh mục tài liệu tham khảo - Phụ lục. Trang 19 PHẦN 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT VỀ KẾ TOÁN TRÁCH NHIỆM VÀ VIỆC ỨNG DỤNG KẾ TOÁN TRÁCH NHIỆM Ở CÁC DOANH NGHIỆP 1.1. LƯỢC SỬ PHÁT TRIỂN CỦA KẾ TOÁN TRÁCH NHIỆM Theo quan điểm quản trị, kế toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ công cụ quản lý kinh tế, tài chính và có vai trò quản lý, điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh tế, tài chính trong doanh nghiệp, đồng thời cung cấp thông tin để thực hiện mục tiêu quản trị doanh nghiệp nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Ngày nay, kế toán quản trị là bộ phận không thể tách rời của hệ thống kế toán doanh nghiệp. Ngoài thông tin kế toán tài chính cung cấp, các nhà quản lý vẫn đòi hỏi có thêm thông tin mang tính kiểm soát và dự báo, chẳng hạn như doanh thu và chi phí phân chia theo bộ phận. Như vậy, kế toán quản trị biểu hiện trách nhiệm của các nhà quản lý các cấp bên trong doanh nghiệp trong khi kế toán tài chính biểu hiện trách nhiệm của nhà quản trị cấp cao. Để hỗ trợ cho công tác quản lý đo lường, kiểm soát, đánh giá kết quả hoạt động của từng cấp cá nhân, từng bộ phận và từng cấp quản lý, kế toán quản trị vận dụng hệ thống kế toán trách nhiệm để phân loại cấu trúc tổ chức thành các trung tâm trách nhiệm, trên cơ sở đó đánh giá kết quả của từng bộ phận dựa trên trách nhiệm được giao cho bộ phận đó. Như vậy, kế toán trách nhiệm là hệ thống thu thập, xử lý và truyền đạt thông tin có thể kiểm soát theo phạm vi trách nhiệm của từng nhà quản trị nhằm đạt được mục tiêu chung của tổ chức. Thông tin có thể kiểm soát của một bộ phận là những thông tin về doanh thu, chi phí, vốn đầu tư ... và các thông tin phi tài chính khác mà nhà quản trị bộ phận đó có thể đưa ra các quyết định tác động lên nó. Thông tin có thể kiểm soát cụ thể đối với từng nhà quản trị phụ thuộc vào trách nhiệm quản lý của nhà quản trị đó. Kế toán trách nhiệm là một nội dung cơ bản của kế toán quản trị do vậy quá trình hình thành và phát triển của kế toán trách nhiệm gắn liền với quá trình hình Trang 20 thành và phát triển của kế toán quản trị. Năm 1989, Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) đã ban hành một bản báo cáo tóm tắt về phạm vi, mục đích của kế toán quản trị và các khái niệm cơ bản của kế toán quản trị qua ấn phẩm “Management Accounting Concepts”. Một trong những nội dung quan trọng được trình bày trong ấn phẩm này là sự phân chia tiến trình phát triển của Kế toán quản trị thành 4 giai đoạn. Việc phân chia quá trình hình thành và phát triển của kế toán quản trị thành 4 giai đoạn như vậy dựa trên trọng tâm thông tin mà Kế toán quản trị cung cấp trong từng thời kỳ. + Giai đoạn 1 (Trước năm 1956): Thông tin để kiếm soát và định hướng chi phí, sản xuất; + Giai đoạn 2 (Từ năm 1956 đến cuối năm 1980): Thông tin để hoạch định và kiểm soát tài chính hoạt động sản xuất kinh doanh; + Giai đoạn 3 (Từ năm 1980 đến cuối năm 1995): Thông tin để giảm những tổn thất nguồn lực kinh tế sử dụng của quy trình sản xuất kinh doanh; + Giai đoạn 4 (Từ 1995 đến nay): Thông tin để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế tạo ra giá trị. Từ sau cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất vào cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19 đã đặt ra nhiều thách thức lớn đối với những người hành nghề kế toán. Vào thời điểm này, nhờ có sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các xưởng dệt thủ công chuyển sang nhà máy dệt, hình thành ngành công nghiệp sợi, dệt. Và khi có sự xuất hiện của ngành giao thông đường sắt thì hầu hết tất cả các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực dệt, luyện kim, đường sắt đều trở nên phức tạp, khối lượng nghiệp vụ kế toán bùng nổ đáng kể. Lúc này, nhiệm vụ của nhân viên kế toán không còn là việc ghi bút toán kép một cách đơn thuần nữa mà họ được yêu cầu phải làm sao đơn giản hóa thông tin, cung cấp thông tin có thể kiểm soát được chi phí và định giá bán sản phẩm. Cũng vào thời điểm này, thuật ngữ “kế toán quản trị” tuy chưa xuất hiện trong hệ thống kế toán Anglo – Saxon nhưng thay vào đó, thuật ngữ “kế toán chi phí” đã xuất hiện để định nghĩa quy trình tính toán chi phí, xác định giá thành, kiểm soát tình hình tài chính của doanh nghiệp. Mặc dù kế toán quản trị chưa được ghi nhận đến thời điểm trước thế kỷ 19, nhưng công việc thu thập, xử lý các Trang 21 thông tin kinh tế tài chính đã có và những người chủ kinh doanh đã biết sử dụng những số liệu thông tin kinh tế trong quá khứ để lập dự toán cho kỳ hoạt động kế tiếp. Đỉnh cao là vào năm 1920, ông Donaldson Brown, giám đốc tài chính công ty Dupont đã giới thiệu công thức tính toán ROI. Sau đó, các công ty Dupont và General Motor đã tuyên bố là người tiên phong trong việc áp dụng một thông số kỹ thuật phân tích trong công tác quản trị của mình. Tuy nhiên, trong thời kỳ này dù có nhiều bằng chứng chứng minh cho sự xuất hiện của lĩnh vực kế toán quản trị nhưng trong xã hội bấy giờ kế toán quản trị chưa xuất hiện nổi bật, mà tìm ẩn dưới dạng kế toán chi phí như là một hoạt động kỹ thuật cần thiết để đảm bảo đạt được mục tiêu của doanh nghiệp (Đoàn Ngọc Quế và cộng sự, 2011). Dấu mốc quan trọng cho sự ra đời của kế toán quản trị là quyển sách đầu tiên về kế toán quản trị của Robert Anthony được xuất bản vào năm 1956. Quyển sách này tập trung vào ba vấn đề chính: Giới thiệu kế toán quản trị là gì, làm thế nào có thể hệ thống và phân tích vấn đề mới để ra quyết định, giới thiệu các công cụ kiểm soát chi phí thích hợp. Từ sau khi có sự giới thiệu về kế toán quản trị của Robert Anthony thì nhiều công cụ kế toán quản trị đã được phát triển trong suốt giai đoạn này. Sự quan tâm của kế toán quản trị đã chuyển biến mạnh mẻ vào việc cung cấp thông tin cho hoạt động lập kế hoạch và kiểm soát của nhà quản trị, thông qua việc sử dụng các kỹ thuật như phân tích để ra quyết định và kế toán trách nhiệm (Đoàn Ngọc Quế và cộng sự, 2011). Như vậy, kế toán trách nhiệm đã được hình thành trong giai đoạn trọng tâm của kế toán quản trị đã chuyển sang cung cấp các thông tin cho mục đích lập kế hoạch và kiểm soát. Kiểm soát quản lý trong giai đoạn này được định hướng theo quản trị nội bộ, quản trị sản xuất hơn là cân nhắc theo môi trường, chiến lược. Kế toán quản trị có khuynh hướng xác định các vấn đề khi có độ lệch từ kế hoạch kinh doanh với thực tế hoạt động diễn ra. Chính vì vậy, kế toán quản trị trong giai đoạn này thường tập trung vào các chủ đề như: khái niệm và phân loại chi phí, kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm theo công việc hoặc theo quy trình sản xuất, nhận thức cách ứng xử chi phí và phân tích biến động chi phí, phân tích mối quan hệ chi phí - khối lượng - lợi nhuận, ảnh hưởng phương pháp chi phí toàn bộ và Trang 22 phương pháp chi phí trực tiếp trong thiết lập công cụ quản lý, dự toán hoạt động sản xuất kinh doanh, chi phí tiêu chuẩn và sự cân bằng các nguồn lực kinh tế, dự toán linh hoạt và phân tích biến động chi phí sản xuất chung, báo cáo bộ phận và các sự phân quyền trong một tổ chức, chi phí thích hợp cho quyết định kinh doanh ngắn hạn, dự toán vốn đầu tư dài hạn, phân bổ chi phí bộ phận trên cơ sở hoạt động, định giá sản phẩm dịch vụ, phân tích báo cáo tài chính. Kế toán trách nhiệm là nội dung cơ bản của kế toán quản trị. Kế toán trách nhiệm cung cấp thông tin có thể kiểm soát của từng bộ phận mà được nhà quản tri phân quyền trách nhiệm. Từ đó đến nay, vấn đề kế toán trách nhiệm được quan tâm nhiều với những quan điểm khác nhau, bởi những tác giả khác nhau ở nhiều quốc gia trên thế giới như Atkinson; R.D Banker; R.S Kaplan; S.M. Young; James R.Martin … 1.2. NỘI DUNG KẾ TOÁN TRÁCH NHIỆM VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC ÁP DỤNG ĐƯỢC VÀ CÓ HIỆU QUẢ VÀO HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN Ở CÁC DOANH NGHIỆP 1.2.1. Định nghĩa và mục tiêu của Kế toán trách nhiệm a. Định nghĩa Kế toán trách nhiệm là hệ thống thông tin của kế toán quản trị; xử lý, phân loại các thông tin có thể kiểm soát để lập các báo cáo trách nhiệm cho các cấp độ quản trị đánh giá và ra các quyết định trong hoạt động kinh doanh. - Kế toán trách nhiệm là một bộ phận của kế toán quản trị và chúng phát sinh từ nhu cầu thông tin của nhà quản trị vể kiểm soát đánh giá, các bộ phận hay các cấp độ quản trị. Do đó, kế toán trách nhiệm phải sử dụng thông tin của kế toán quản trị. - Báo cáo kế toán là sản phẩm cao nhất của quá trình kế toán. Do đó, các báo cáo trách nhiệm bộ phận quản trị cũng sẽ là sản phẩm cao nhất của kế toán trách nhiệm. Thông tin trên các báo cáo này phải hữu ích thích hợp cho các cấp độ quản trị. b. Mục tiêu chung Xây dựng và thiết lập các báo cáo cho các bộ phận trách nhiệm nhà quản trị, được phân quyền quản lý. Trang 23 Mục tiêu cụ thể: - Quan điểm về phân quyền trách nhiệm phải cụ thề và rõ ràng. - Nhận diện và thấu hiểu các cách phân loại chi phí, đặc biệt là chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát đươc đối với bộ phận phân quyền. - Xây dựng hệ thống báo cáo hữu ích cho các bộ phận. 1.2.2. Nội dung kế toán trách nhiệm Từ khi Robert Anthony đã công bố những nghiên cứu của mình về kế toán trách nhiệm vào năm 1956 đến nay, kế toán trách nhiệm đã được nghiên cứu và vận dụng trên khắp thế giới. Tuy vậy, cho đến thời điểm hiện nay vẫn chưa có một khái niệm chuẩn, thống nhất về kế toán trách nhiệm. Hệ thống kế toán trách nhiệm được thiết lập để ghi nhận, đo lường kết quả hoạt động của từng bộ phận trong tổ chức, trên cơ sở đó lập các báo cáo thực hiện nhằm phục vụ cho các nhà quản lý kiểm soát được hoạt động và chi phí của họ. Nói cách khác, kế toán trách nhiệm là một phương pháp kế toán thu thập và báo cáo các thông tin dự toán và thực tế về các “đầu vào” và “đầu ra” của các trung tâm trách nhiệm. Như vậy, vấn đề đặt ra là phải lượng hóa được “đầu vào” và “đầu ra” của các trung tâm trách nhiệm. Trên sơ sở đó, xác định các chỉ tiêu cụ thể để đánh giá kết quả hoạt động của từng trung tâm. Việc đo lường thành quả hoạt động của các trung tâm trách nhiệm sẽ tạo điều kiện cho việc đánh giá chất lượng hoạt động của nhà quản trị các trung tâm, đồng thời khích lệ họ điều khiển hoạt động của trung tâm mình phù hợp với mục tiêu cơ bản của toàn đơn vị. Một số quan điểm nổi bậc: Theo Anthony A. Atkinson và cộng sự (2001) thì kế toán trách nhiệm là: - Một hệ thống kế toán có chức năng thu thập, tổng hợp và báo cáo các dữ liệu kế toán có liên quan đến trách nhiệm của từng nhà quản lý riêng biệt trong một tổ chức, thông qua các báo cáo liên quan đến chi phí, thu nhập và các số liệu hoạt động bởi từng khu vực trách nhiệm hoặc đơn vị trong tổ chức. - Một hệ thống cung cấp thông tin nhằm đánh giá trách nhiệm và thành quả của mỗi nhà quản lý, chủ yếu ở khía cạnh thu nhập và những khoản chi phí mà họ có quyền kiểm soát đầu tiên (quyền ảnh hưởng). Trang 24 - Một hệ thống kế toán tạo ra các báo cáo chứa cả những đối tượng có thể kiểm soát và không thể kiểm soát đối với một cấp quản lý. Theo đó, những đối tượng có thể kiểm soát và không thể kiểm soát được phân tách rõ ràng, và có sự nhận diện những đối tượng có thể kiểm soát được là một nhiệm vụ cơ bản trong kế toán trách nhiệm và báo cáo trách nhiệm. Theo Weygandt và cộng sự (2002) thì kế toán trách nhiệm là một bộ phận của kế toán quản trị mà liên quan đến việc kiểm soát, báo cáo về thu nhập và chi phí, trên cơ sở nhà quản lý có quyền đưa ra các quyết định trong hoạt động hàng ngày về các vấn đề đó. Theo Clive Emmanuel và cộng sự (1990) thì kế toán trách nhiệm là sự thu thập tổng hợp và báo cáo những thông tin tài chính về những trung tâm khác nhau trong một tổ chức (những trung tâm trách nhiệm), cũng còn được gọi là kế toán hoạt động hay kế toán khả năng sinh lợi. Nó lần theo các chi phí, thu nhập hay lợi nhuận đến những nhà quản lý riêng biệt, những người chịu trách nhiệm cho việc đưa ra các quyết định về chi phí, thu nhập hay lợi nhuận đang được nói đến, và thực thi những hành động về chúng. Kế toán trách nhiệm tỏ ra phù hợp ở những tổ chức mà ở đó nhà quản lý cấp cao thực hiện chuyển giao quyền ra quyết định cho các cấp thuộc quyền. Theo đó, ý tưởng đằng sau kế toán trách nhiệm là kết quả hoạt động của mỗi nhà quản lý, nên được đánh giá bởi việc họ đã quản lý những công việc được giao nằm trong sự ảnh hưởng của họ tốt hoặc xấu như thế nào. Theo James R. Martin (2012), kế toán trách nhiệm là một hệ thống kế toán cung cấp thông tin về kết quả, hiệu quả hoạt động của các bộ phận, các đơn vị trong một doanh nghiệp. Đó là công cụ đo lường, đánh giá hoạt động của những bộ phận liên quan đến đầu tư, lợi nhuận, doanh thu và chi phí mà mỗi bộ phận có quyền kiểm soát và chịu trách nhiệm tương ứng. Đối David F.Hawkins và cộng sự (2004), thì kế toán trách nhiệm là một hệ thống tạo ra những thông tin tài chính và phi tài chính có liên quan, về những hoạt động thực tế và được lập kế hoạch của những trung tâm trách nhiệm trong một công ty – những đơn vị trong tổ chức được đứng đầu bởi những nhà quản lý có trách nhiệm cho kết quả hoạt động của đơn vị họ quản lý. Những bộ phận chủ yếu bao Trang 25 gồm: hệ thống dự toán ngân sách, các báo cáo kết quả hoạt động, các báo cáo về sự biến động và những mức giá chuyển nhượng sản phẩm, dịch vụ nội bộ giữa các bộ phận trong công ty. Theo đó, kế toán trách nhiệm đi sâu vào việc so sánh kết quả hoạt động thực tế của trung tâm trách nhiệm với kế hoạch (được dự toán) được giao, và những nguồn lực được chuyển nhượng từ trung tâm này đến trung tâm khác như thế nào. Đồng thời, kế toán trách nhiệm cũng lý giải việc lập kế hoạch quản lý và quá trình kiểm soát. Hai tác giả B.Venkatrathnam và Raji Reddy (2008) đã trình bày quan điểm của mình về kế toán trách nhiệm như sau: kế toán trách nhiệm là một hệ thống kiểm soát của nhà quản lý được dựa trên những nguyên tắc về ủy quyền và xác định trách nhiệm. Quyền lực (sự ủy nhiệm) được giao phó theo trung tâm trách nhiệm và tính toán cẩn thận cho trung tâm trách nhiệm. Theo hệ thống này, các nhà quản lý phải chịu trách nhiệm cho những hoạt động của các phân khu trong tổ chức. Các phân khu này được goi là các bộ phận, chi nhánh hay khu vực, … Theo tác giả, một trong những mục đích sử dụng của kế toán trách nhiệm chính là nhằm thực hiện sự kiểm soát của nhà quản lý. Trong những kỹ thuật quản lý, kế toán trách nhiệm được cho là có rất nhiều ý nghĩa, trong khi những phương cách kiểm soát khác có thể được áp dụng trong toàn bộ tổ chức, kế toán trách nhiệm đại diện một phương pháp đo lường, đánh giá biểu hiện của những khu vực khác nhau của một tổ chức. Thuật ngữ “khu vực” có liên quan đến kế toán trách nhiệm được sử dụng với ý nghĩa tổng quát, để bao gồm bất kỳ phân khu theo hệ thống, bộ phận nào của một tổ chức. Theo cách hiểu này “khu vực” có thể là một quyết định, một phòng ban, một văn phòng chi nhánh, một trung tâm dịch vụ, một kênh phân phối, … với kết quả hoạt động kinh doanh có thể được xác định và đo lường một cách tách biệt, và điều này rất có ý nghĩa và cần thiết đối với nhà quản lý. Theo Đào Văn Tài và cộng sự (2003, trang 88) cho rằng “Kế toán trách nhiệm là một phương pháp kế toán thu thập và báo cáo các thông tin dự toán và thực tế về các “đầu vào” và “đầu ra” của các trung tâm trách nhiệm”. Trang 26 Theo Đoàn Ngọc Quế và cộng sự (2011, trang 196) “Kế toán trách nhiệm là hệ thống thu thập, xử lý và truyền đạt thông tin có thể kiểm soát theo phạm vi trách nhiệm của từng nhà quản trị nhằm đạt được mục tiêu chung của tổ chức”. Hiện có nhiều quan điểm khác nhau về kế toán trách nhiệm, tuy nhiên, có thể thấy rằng sự khác nhau giữa các quan điểm trên được thể hiện ở cách thức nhìn nhận của mỗi tác giả về đặc điểm, ý nghĩa và cơ chế tổ chức kế toán trách nhiệm ở doanh nghiệp mà thôi. Đặc biệt, sự khác nhau đó không mang tính đối nghịch mà chúng cùng bổ sung cho nhau nhằm giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về kế toán trách nhiệm. Một số vấn đề chung về kế toán trách nhiệm có thể được rút ra như sau: Thứ nhất, kế toán trách nhiệm là một nội dung cơ bản của kế toán quản trị và là một quá trình tập hợp và báo cáo các thông tin có thể kiểm soát, được dùng để kiểm tra các quá trình hoạt động và đánh giá thực hiện nhiệm vụ ở từng bộ phận trong một tổ chức. Hệ thống kế toán trách nhiệm là một hệ thống thông tin sử dụng các thông tin tài chính và phi tài chính trong phạm vi hệ thống kiểm soát của ban quản lý một đơn vị. Thứ hai, kế toán trách nhiệm chỉ có thể được thực hiện trong đơn vị có cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý phải có sự phân quyền rõ ràng. Bởi lẽ, mục tiêu chính của hệ thống kế toán trách nhiệm là hạn chế tối đa những bất lợi, đồng thời giúp cho tổ chức gặt hái được những lợi ích từ việc phân cấp trong quản lý. Thứ ba, một hệ thống kế toán trách nhiệm hữu ích phải thỏa mãn lý thuyết phù hợp; nghĩa là có một cấu trúc tổ chức thích hợp nhất với môi trường tổ chức hoạt động, với chiến lược tổng hợp của tổ chức, và với các giá trị và sự khích lệ của quản trị cấp cao. Kế toán trách nhiệm là một nội dung cơ bản của kế toán quản trị do vậy kế toán trách nhiệm có các đặc điểm như: - Tính đặc thù nội bộ của các sự kiện. - Tính linh hoạt, tính thích ứng với sự biến biến đổi hàng ngày của các sự kiện. - Tính chất phi tiền tệ được sử dụng trong các chỉ tiêu báo cáo. Trang 27 - Tính dự báo (phục vụ việc lập kế hoạch). - Tính pháp lý đối với tài liệu gốc và tính hướng dẫn ở thông tin trên báo cáo quản trị. Tóm lại, theo tác giả, kế toán trách nhiệm là một hệ thống thông tin mà hệ thống thông tin này phân loại dữ liệu (thông tin có thể kiểm soát) theo các bộ phận chịu trách nhiệm và báo cáo hoạt động của các bộ phận này theo doanh thu, chi phí và các nguồn lực tài chính, phi tài chính mà nhà quản lý được giao ở bộ phận này có thể kiểm soát. 1.2.3. Cơ sở tổ chức Kế toán trách nhiệm trong doanh nghiệp 1.2.3.1. Quy mô và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp Sự phát triển cả về quy mô và phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp đã đặt ra yêu cầu cho các nhà quản trị phải kiểm soát và đánh giá được hoạt động của chúng. Vì tính phức tạp trong các hoạt động nên rất khó khăn cho các nhà quản trị cấp cao trong kiểm soát hoạt động trực tiếp. Kết quả là quy mô và sự phức tạp về cơ cấu tổ chức của công ty tăng lên đòi hỏi những hoạt động của họ phải được phân quyền. Việc sáng tạo ra lần lượt những bộ phận của công ty khác nhau yêu cầu kế toán phải cung cấp những phương pháp đo lường hiệu quả ở mỗi cấp, mỗi bộ phận. Trong trường hợp này, kế toán trách nhiệm có đủ điều kiện và đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh vấn đề về quy mô, hệ thống kế toán trách nhiệm còn phải căn cứ vào đặc thù sản xuất và quản lý từng doanh nghiệp mà tổ chức cho phù hợp. Một doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức phân quyền sẽ dẫn đến các trung tâm trách nhiệm; các trung tâm này gắn liền với trật tự phân cấp quản lý trong tổ chức. Hiểu rõ đặc thù sản xuất kinh doanh, quy mô và cấu trúc tổ chức của doanh nghiệp là điều kiện để xây dựng thành công kế toán trách nhiệm tại doanh nghiệp. 1.2.3.2. Phân cấp quản lý là cơ sở của Kế toán trách nhiệm Phân cấp quản lý là sự ủy nhiệm quyền được ra quyết định trong một tổ chức bằng cách cho phép các nhà quản lý ở các cấp hoạt động khác được ra những quyết Trang 28 định trong phạm vi cấp mà mình có trách nhiệm. Sự phân cấp quản lý giao việc ra quyết định đến cấp quản lý thấp nhất nhằm làm cho mọi quyết định đều được thực hiện. Các nhà nghiên cứu cho rằng kế toán trách nhiệm gắn liền với sự phân cấp quản lý. Hệ thống kế toán trách nhiệm hoạt động thực sự hiệu quả trong các tổ chức mà sự phân quyền được thực hiện đúng mức và phù hợp với cơ cấu tổ chức. Mục đích của việc phân cấp quản lý là giúp cho doanh nghiệp đáp ứng kịp thời, nhanh chóng, phù hợp với tình hình thay đổi của môi trường xung quanh. Trong đơn vị, mức độ phân cấp quản lý cao hay thấp sẽ quyết định bộ máy kế toán được tổ chức như thế nào: tập trung, phân tán hay vừa tập trung vừa phân tán. Nếu đơn vị đã có phân cấp quản lý hoàn chỉnh thì bộ máy kế toán cũng thay đổi cho phù hợp. Sự phân cấp không chỉ ảnh hưởng đến hệ thống thông tin của đơn vị mà còn đặt ra nhu cầu cần phải kiểm tra. Khi có sự phân cấp quản lý thì có sự phân chia quyền lực của cấp trên đối với cấp dưới. Vì thế, một người quản lý giỏi ở một cấp nào đó trong tổ chức không thể giao quyền hành mà lại không có cách nào để tìm hiểu xem liệu quyền hành có được sử dụng đúng hay không ? Sự phân cấp tạo nên sự độc lập tương đối ở các bộ phận, nên các nhà quản lý ở từng bộ phận thường không biết được các quyết định của họ ảnh hưởng như thế nào đến các bộ phận khác trong tổ chức. Hơn nữa, họ thường quan tâm đến thành quả của bộ phận mình hơn là tính hiệu quả của tổ chức. Do đó để đạt được sự hướng đến mục tiêu chung của các nhà quản lý khác nhau, tổ chức phải hướng đến mục tiêu của người quản lý cấp cao hơn. Các nhà quản lý không những phải có tầm nhìn đến các mục tiêu của tổ chức mình mà còn phải có động cơ tích cực để đạt được chúng. Hệ thống kế toán trách nhiệm được coi là tốt hơn khi nó hướng sự cố gắng của nhà quản lý đến mục tiêu của tổ chức nhiều hơn. Vì vậy, mục tiêu chính của hệ thống kế toán trách nhiệm là hạn chế tối đa bất lợi, đồng thời giúp cho tổ chức gặt hái được những lợi ích của việc phân cấp quản lý thông qua việc xây dựng các trung tâm trách nhiệm. Phân cấp quản lý gắn liền với nội dung kế toán trách nhiệm. Qua phân cấp quản lý sẽ xác định được quyền hạn và trách nhiệm ở mỗi cấp rõ ràng, nên có cơ sở cho việc đánh giá kết quả hoạt động của từng bộ phận, tìm ra nguyên nhân và Trang 29 hướng khắc phục. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều phải nằm trong tầm kiểm soát của nhà quản trị theo sự phân cấp từ cao đến thấp. Phân cấp quản lý vừa là tiền đề vừa là động lực thúc đẩy sự hình thành kế toán trách nhiệm. Tổ chức quản lý có tầm quan trọng trong quá trình điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong tổ chức quản lý có một nội dung khá quan trọng đó là sự phân quyền. Khi phân quyền phải xác định mối quan hệ giữa cấp trên, cấp dưới và quyền hạn của mỗi cấp. Về lý thuyết, có hai quan điểm phân quyền: - Phân quyền triệt để: là chủ trương phân quyền có nhiều người cùng được tham gia quản lý để có thể ra các quyết định. Ưu điểm của cách phân quyền này là người quản lý cấp trên sẽ giảm việc giải quyết nhiều vấn đề phát sinh xảy ra hàng ngày, họ có thể dành nhiều thời gian cho các kế hoạch lâu dài và cho sự phối hợp các bộ phận để đạt mục tiêu chung của đơn vị. Cách phân quyền này cho phép người quản lý ở các cấp được ra các quyết định cần thiết để điều hành hoạt động trong phạm vi quản lý của mình. Phân cấp quản lý là giao trách nhiệm và quyền hạn nhằm khuyến khích người quản lý ở từng cấp, động viên họ nổ lực quan tâm đến công việc được giao. Việc ra quyết định tốt nhất là ở ngay cấp phát sinh các công việc, vì: người quản lý cấp trên thường ở vị trí không phù hợp để ra các quyết định thường ngày của các hoạt động liên quan đến cấp dưới do họ không điều hành trực tiếp các hoạt động của cấp dưới. Tồn tại của cách phân quyền này dễ dẫn đến hiện tượng cấp trên không kiểm soát được các hoạt động của cấp dưới. - Phân quyền không triệt để: là chủ trương giới hạn việc tham gia quản lý. Nhà quản lý tập trung quyền lực ở cấp trên, đồng thời trực tiếp quản lý điều hành chi tiết các công việc của cấp dưới. Tồn tại của cách phân quyền này dễ dẫn đến hiện tượng có nhiều vấn đề có tính chất quan trọng thì nhà quản lý không có nhiều thời gian để nghiên cứu nhằm đưa ra các quyết định kinh doanh đúng đắn. Hai quan điểm trên đều có những ưu và nhược điểm nhất định. Vì vậy, người quản lý cấp cao cần phải lập ra một hệ thống mục tiêu cụ thể, đảm bảo mỗi bộ phận, Trang 30 mỗi cá nhân đều phải chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các mục tiêu nhất định; đồng thời mỗi bộ phận mỗi cá nhân cũng cần được giao một quyền cần thiết để thực hiện mục tiêu đó. Việc cân nhắc, lựa chọn áp dụng mô hình nào để đạt được mức độ phân quyền tốt nhất là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng của nhà lãnh đạo cấp cao trong đơn vị. Phân quyền là cơ sở của phân cấp quản lý tài chính. Việc giao quyền cho cấp dưới luôn đi kèm theo trách nhiệm trong quản lý tài chính ứng với sự phân quyền đó. Như vậy, có thể hiểu rằng phân cấp quản lý tài chính là sự giao quyền về quản lý tài chính cho cấp dưới trong đó có quy định về quyền hạn, trách nhiệm mỗi cấp. Nội dung của phân cấp quản lý tài chính được thể hiện qua các mặt như: phân cấp về quyền và trách nhiệm quản lý, sử dụng các tài sản; quyền và trách nhiệm về huy động vốn; quyền về phân phối kết quả hoạt động kinh doanh; quyền và nghĩa vụ về tài chính với cấp trên, với nhà nước. Tùy theo điều kiện về quy mô và cơ cấu tổ chức sản xuất kinh doanh, về địa bàn hoạt động của các đơn vị trực thuộc mà mức độ phân cấp quản lý tài chính qua các nội dung trên ở các đơn vị cũng khác nhau. 1.2.4. Xác định các trung tâm trách nhiệm trong doanh nghiệp 1.2.4.1. Khái niệm về trung tâm trách nhiệm Trung tâm trách nhiệm là một bộ phận trong tổ chức, nơi mà nhà quản trị bộ phận chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của bộ phận mình. Theo đó, căn cứ vào cơ cấu tổ chức và mức độ phân cấp quản lý của doanh nghiệp mà có hệ thống các trung tâm trách nhiệm tương ứng. Các trung tâm trách nhiệm tạo thành một hệ thống thang bậc trách nhiệm từ cấp lãnh đạo thấp nhất đến cấp lãnh đạo cao nhất trong doanh nghiệp. 1.2.4.2. Bản chất của trung tâm trách nhiệm Một trung tâm trách nhiệm có bản chất như một hệ thống, mỗi hệ thống được xác định để xử lý một công việc cụ thể. Hệ thống này sử dụng các đầu vào là các giá trị vật chất như nguyên vật liệu, số giờ công của các loại lao động và các dịch vụ khác kèm theo …để có được đầu ra là các hàng hóa, dịch vụ … Hàng hóa và dịch Trang 31 vụ được tạo ra bởi trung tâm trách nhiệm này có thể là đầu vào của một trung tâm khác trong cùng tổ chức và cũng có thể được bán ra bên ngoài. Trung tâm trách nhiệm Đầu ra Đầu vào Công việc Các nguồn lực sử dụng được đo lường bởi chi phí Hàng hoá hoặc dịch vụ Hình 1-1: Trung tâm trách nhiệm Có 2 tiêu chí để đo lường mức độ hoàn thành một trung tâm trách nhiệm: hiệu quả và kết quả Hiệu quả: là tỷ lệ giữa đầu ra so với đầu vào của trung tâm trách nhiệm. Nói cách khác, đó chính là tỷ lệ giữa kết quả thực tế đạt được với nguồn lực thực tế mà trung tâm đã sử dụng để tạo ra kết quả đó. Kết quả: là mối quan hệ giữa đầu ra của một trung tâm trách nhiệm với mục tiêu của trung tâm đó. Nói cách khác, đây chính là mức độ hoàn thành mục tiêu của trung tâm trách nhiệm. 1.2.4.3. Phân loại các trung tâm trách nhiệm Căn cứ vào sự khác biệt trong việc lượng hóa giữa “đầu vào” và “đầu ra” của các trung tâm trách nhiệm cũng như mức độ trách nhiệm của người quản trị trung tâm, có thể chia thành 4 loại trung tâm trách nhiệm chính: trung tâm chi phí, trung tâm doanh thu, trung tâm lợi nhuận và trung tâm đầu tư. a. Trung tâm chi phí Trung tâm chi phí là một loại trung tâm trách nhiệm thể hiện phạm vi cơ bản của hệ thống xác định chi phí có thể kiểm soát, là điểm xuất phát của các hoạt động như: (1) Lập dự toán chi phí; (2) Phân loại chi phí thực tế phát sinh; (3) So sánh chi phí thực tế với định mức chi phí tiêu chuẩn. Trung tâm chi phí gắn liền với cấp quản lý mang tính chất tác nghiệp, trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ, hoặc gián tiếp phục vụ kinh doanh (như phân xưởng Trang 32 sản xuất, các phòng ban chức năng). Theo đó, người quản lý chỉ chịu trách nhiệm hoặc chỉ có quyền kiểm soát đối với chi phí phát sinh ở bộ phận mình, không có quyền hạn đối với việc tiêu thụ và đầu tư vốn. Có 2 dạng trung tâm chi phí: - Trung tâm chi phí định mức (tiêu chuẩn): Là trung tâm chi phí mà các yếu tố chi phí có thể kiểm soát và các mức hao phí có thể kiểm soát về các nguồn lực sử dụng để sản xuất một đơn vị sản phẩm, dịch vụ đều được xây dựng định mức cụ thể. Nhà quản trị trung tâm chi phí định mức (tiêu chuẩn) có trách nhiệm kiểm soát chi phí thực tế phát sinh, để vẫn đảm bảo kế hoạch sản xuất cũng như đảm bảo kế hoạch chi phí cho từng đơn vị sản phẩm, dịch vụ và tính cho toàn bộ. Trung tâm chi phí đinh mức (tiêu chuẩn) được nhận biết trên cơ sở chúng ta có thể xác định, đo lường một cách chắn chắn đầu ra, và có thể xác định được định mức các đầu vào cần thiết để sản xuất ra một đơn vị đầu ra đó. Theo đó, nhà quản lý không chịu trách nhiệm về những biến động gây ra bởi các mức độ hoạt động cao hơn tiêu chuẩn của trung tâm. Đối với trung tâm này thì hiệu suất được đo lường bởi mối liên hệ giữa đầu vào và đầu ra, còn tính hiệu quả được đo lường bằng mức độ trung tâm đạt được sản lượng mong muốn tại những mức độ về chất lượng và thời gian đã định. Các trung tâm chi phí thường gắn với cấp quản trị cơ sở và có thể là các nhà máy sản xuất, các phân xưởng sản xuất, các tổ sản xuất … Như vậy, đặc trưng của trung tâm này là sản lượng “đầu ra” có thể đo lường được và phí tổn “đầu vào” sản xuất một sản phẩm đòi hỏi phải được định rõ. Kiểm soát được thực hiện thông qua việc so sánh chi phí định mức với chi phí thực tế. Sự khác nhau giữa chi phí định mức và chi phí thực tế được thể hiện thông qua độ lệch. - Trung tâm chi phí dự toán: Là trung tâm chi phí mà ở đó kết quả “đầu ra” không thể đo lường bằng các chỉ tiêu tài chính, và không có mối quan hệ rõ ràng giữa “đầu vào”(các nguồn lực sử dụng) và “đầu ra”(kết quả đạt được). Kiểm soát trong trường hợp này nhằm đảm bảo rằng mỗi một loại chi phí thực tế đều liên quan chặt chẽ với chi phí kế hoạch cũng như nhiệm vụ đã giao cho trung tâm. Một trong những vấn đề chính của trung tâm chi phí dự toán là hiệu quả của phí tổn. Trang 33 Tóm lại, mục tiêu của trung tâm chi phí là quản lý chặt chẽ, giảm thiểu chi phí. Trách nhiệm của nhà quản lý trung tâm chi phí là phải xây dựng được kế hoạch chi phí trong ngắn hạn và dài hạn; nắm được số lượng sản phẩm sản xuất, chi phí sản xuất thực tế, mức chênh lệch giữa thực tế và kế hoạch, nguyên nhân dẫn đến sai lệch … Trong quản lý điều hành, trung tâm chi phí có vai trò và tác dụng to lớn bởi vì đây chính là cấp quản lý mang tính chất tác nghiệp, trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ, hoặc gián tiếp phục vụ kinh doanh. Nếu trung tâm chi phí được quản lý điều hành tốt sẽ góp phần kiểm soát được các chi phí phát sinh, gia tăng lợi nhuận trong đơn vị. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của trung tâm chi phí là chênh lệch giữa chi phí thực tế và chi phí dự toán hay định mức. Trách nhiệm của trung tâm chi phí là phải hoàn thành sản phẩm, dịch vụ ... đúng hạn, đảm bảo chất lượng và tối thiểu hóa chi phí. Vì vậy, người quản lý bộ phận phải xác định được nguyên nhân chủ quan, khách quan tác động đến quá trình làm phát sinh chi phí (trọng tâm là biến phí) theo các khoản mục chi phí. Nhà quản trị có thể phân tích và xác định nguyên nhân gây nên biến động chi phí. Việc phân tích chi phí có thể chi tiết theo từng loại chi phí. Rõ ràng những thông tin chi tiết như vậy rất quan trọng cho các nhà quản trị. b. Trung tâm doanh thu Là trung tâm trách nhiệm mà ở đó nhà quản lý chỉ chịu trách nhiệm về kết quả “đầu ra”, tức doanh thu có thể kiểm soát đạt được của đơn vị. Trung tâm doanh thu có thể phân biệt với trung tâm lợi nhuận bởi trên thực tế trung tâm doanh thu chỉ chịu trách nhiệm một phần nhỏ trong tổng chi phí sản xuất và chi phí bán hàng, trong khi đó trung tâm lợi nhuận chịu trách nhiệm hết tất cả các chi phí bao gồm chi phí sản xuất và các chi phí có liên quan đến hoạt động tạo ra doanh thu của đơn vị. Trung tâm này thường được gắn với bậc quản lý cấp trung hoặc cấp cơ sở, đó là các bộ phận kinh doanh trong đơn vị. Khi xác định chỉ tiêu đánh giá trung tâm doanh thu, cần xem xét đến giá vốn của hàng hóa, sản phẩm,… tiêu thụ để khuyến khích trung tâm này tạo ra lợi nhuận chứ không chỉ đơn thuần là tạo ra doanh thu. Trong quản lý điều hành, trung tâm doanh thu đóng vai trò không nhỏ trong việc quyết định giá bán của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ …; đến sản lượng tiêu thụ, Trang 34 cơ cấu sản phẩm tiêu thụ … của doanh nghiệp. Đây chính là cơ sở quan trọng để các nhà quản trị lên kế hoạch và lập dự toán tiêu thụ sao cho sát với năng lực hoạt động của doanh nghiệp và tình hình thị trường. c. Trung tâm lợi nhuận Cả nhà quản lý trung tâm chi phí và trung tâm doanh thu đều bị giới hạn quyền ra quyết định. Việc gia tăng đáng kể quyền tự chủ trong quản lý xuất hiện nhà quản lý bộ phận chịu trách nhiệm trong cả sản xuất và bán hàng. Trong trường hợp này, nhà quản lý thường được tự do định giá bán, lựa chọn thị trường bán, thiết kế cấu trúc sản phẩm, ra quyết định sản lượng và lựa chọn nhà cung cấp. Những bộ phận trong tổ chức mà nhà quản lý chịu trách nhiệm cả doanh thu và chi phí có thể kiểm soát gọi là trung tâm lợi nhuận. Trung tâm lợi nhuận thường được hình thành theo dòng sản phẩm, kênh tiêu thụ hay các phân đoạn thị trường. Hiệu quả của trung tâm được đánh giá dựa vào mức chênh lệch giữa lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận dự toán. Tuy nhiên, lợi nhuận được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau được dùng để đo lường mức độ hoàn thành. Thông thường lợi nhuận được thiết lập theo dạng số dư đảm phí. Trên cơ sở đó xác định các nguyên nhân chủ quan và khách quan làm biến động lợi nhuận. Trong quản lý điều hành, trung tâm lợi nhuận có tác dụng đánh giá được sự kiểm soát về doanh thu, chi phí cũng như phần đóng góp của từng bộ phận vào lợi nhuận chung của doanh nghiệp. Nhiệm vụ chính của trung tâm là theo dõi và quản lý tình hình sử dụng tài sản, bảo toàn và phát triển vốn được đầu tư; đảm bảo tỷ lệ tăng lợi nhuận trên doanh thu, đảm bảo tốc độ tăng của doanh thu nhanh hơn tốt độ tăng của vốn nhằm mục đích nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng lợi nhuận. d. Trung tâm đầu tư Là trung tâm trách nhiệm mà nhà quản lý chịu trách nhiệm cả về doanh thu, chi phí và cả việc xác định vốn hoạt động và những quyết định đầu tư vốn. Đặc trưng của việc đo lường trung tâm đầu tư là tỷ lệ hoàn vốn đầu tư và lợi nhuận còn lại. Phương pháp đo lường này chịu ảnh hưởng của cả doanh thu, chi phí và tài sản Trang 35 kinh doanh và vì vậy phản ánh trách nhiệm của nhà quản lý đối với lợi nhuận tính trên vốn đầu tư. Trung tâm đầu tư đại diện cho mức độ quản lý cao nhất. Toàn đơn vị như một tổng thể gồm nhiều chi nhánh hoạt động, nhóm hoạt động, bộ phận. Nhà quản trị trung tâm đầu tư có trách nhiệm lập kế hoạch, tổ chức và kiểm soát mọi hoạt động sản xuất kinh doanh kể cả hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp. Trong quản lý điều hành, tác dụng của trung tâm là đảm bảo việc đầu tư vào các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh của đơn vị có hiệu quả. Như vậy, các loại trung tâm trách nhiệm gắn liền với từng cấp quản trị trong một tổ chức. Mỗi loại trung tâm trách nhiệm sẽ xác định trách nhiệm hoặc quyền kiểm soát đối với từng đối tượng cụ thể của các nhà quản trị các cấp. Trong thực tế, việc chọn lựa một trung tâm thích hợp nhất cho một đơn vị trong tổ chức là điều không dễ dàng. Cơ sở để xác định một bộ phận trong tổ chức là trung tâm loại gì, là căn cứ trên loại nguồn lực hoặc trách nhiệm mà nhà quản lý trung tâm trách nhiệm đó được giao. Do vậy, việc phân biệt rõ ràng loại trung tâm trách nhiệm cho các bộ phận, đơn vị trong một tổ chức chỉ mang tính tương đối, và phụ thuộc vào quan điểm của nhà quản trị cấp cao nhất. Trong thực tế, để có thể phân loại các bộ phận, đơn vị trong tổ chức vào các trung tâm trách nhiệm hợp lý thì nên căn cứ vào nhiệm vụ chính của bộ phận, đơn vị đó. Tóm lại, bước đầu tiên và cơ bản của việc thực hiện kế toán trách nhiệm là xây dựng các trung tâm trách nhiệm. Doanh nghiệp cần tổ chức thành các trung tâm lợi nhuận, đầu tư hay các trung tâm chi phí. Điều này phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức doanh nghiệp, mức độ phân quyền cũng như thái độ và quan điểm của nhà quản trị cấp cao. Vì vậy, vấn đề tổ chức kế toán trách nhiệm mang tính linh hoạt hơn mặc dù nó phải đảm bảo tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của kế toán trách nhiệm. 1.2.5. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá các trung tâm trách nhiệm Như chúng ta đã biết hoạt động của các trung tâm trách nhiệm thường được xem xét trên cả hai mặt, đó là hiệu quả và kết quả (hiệu năng), và việc đánh giá hai tiêu chí này sẽ được thực hiện trên cả hai mặt định tính và định lượng. Đánh giá trách nhiệm quản trị của các cấp quản lý các trung tâm trách nhiệm bằng cách lấy Trang 36 kết quả thực hiện của các trung tâm trách nhiệm, so sánh đối chiếu với số liệu dự toán ban đầu trên cả hai mặt hiệu quả và hiệu năng. Do đầu ra và đầu vào của mỗi trung tâm trách nhiệm khác nhau, vì vậy các chỉ tiêu đo lường cho từng loại trung tâm cũng khác nhau. 1.2.5.1. Đánh giá thành quả quản lý ở trung tâm chi phí Thành quả quản lý của các nhà quản trị ở trung tâm chi phí được đánh giá qua báo cáo thành quả được lập cho từng trung tâm chi phí riêng biệt. Thông tin đưa vào báo cáo thành quả để đánh giá thành quả của các nhà quản trị ở trung tâm chi phí chỉ là chi phí có thể kiểm soát được bởi từng nhà quản trị ở từng trung tâm chi phí. Bằng việc so sánh chi phí có thể kiểm soát thực tế với dự toán, các nhà quản trị có thể biết được chênh lệch nào tốt, chênh lệch nào xấu. 1.2.5.2. Đánh giá thành quả quản lý ở trung tâm doanh thu Thành quả quản lý của các trung tâm doanh thu thường được đánh giá bằng việc so sánh doanh thu có thể kiểm soát giữa thực tế so với dự toán và phân tích các chênh lệch phát sinh. - Nếu trung tâm doanh thu được toàn quyền quyết định giá bán, số lượng sản phẩm tiêu thụ thì trách nhiệm sẽ được đánh giá trên doanh thu tạo ra. - Nếu trung tâm doanh thu không được toàn quyền quyết định giá bán (chính sách giá được xác định bên ngoài trung tâm doanh thu), khi đó, các nhà quản trị trung tâm doanh thu sẽ chịu trách nhiệm về số lượng và kết cấu mặt hàng bán ra. Khi đánh giá thành quả của các trung tâm doanh thu, cần quan tâm đến chi phí của từng sản phẩm nhằm thúc đẩy các nhà quản trị ở trung tâm doanh thu lưu ý tối đa hóa lợi nhuận gộp chứ không phải chỉ doanh thu. Nếu chỉ dựa vào doanh thu để đánh giá, các nhà quản trị có thể tìm cách giảm giá để tăng doanh thu, hoặc thúc đẩy tiêu thụ những mặt hàng có doanh thu lớn nhưng lợi nhuận thấp. Những hành vi như thế có thể làm gia tăng doanh thu nhưng giảm lợi nhuận trên tổng thể công ty. 1.2.5.3. Đánh giá thành quả quản lý ở trung tâm lợi nhuận Thành quả quản lý của các nhà quản trị ở trung tâm lợi nhuận được đánh giá thông qua báo cáo thành quả được lập cho từng trung tâm lợi nhuận riêng biệt. Trang 37 Thông tin đưa vào báo cáo để đánh giá thành quả của các nhà quản trị ở trung tâm lợi nhuận chỉ là lợi nhuận có thể kiểm soát bởi nhà quản trị ở từng trung tâm lợi nhuận. Do lợi nhuận là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí, nên chỉ doanh thu có thể kiểm soát và chi phí có thể kiểm soát mới được đưa vào báo cáo thành quả. Chi phí có thể kiểm soát được phân loại theo biến phí và định phí khi đưa vào báo cáo thành quả. Như vậy, báo cáo thành quả được sử dụng để đánh giá thành quả quản lý của các nhà quản trị ở trung tâm lợi nhuận là báo cáo kết quả kinh doanh được trình bày dưới hình thức số dư đảm phí, nhưng chỉ bao gồm doanh thu và chi phí có thể kiểm soát được bởi các nhà quản trị của trung tâm lợi nhuận. Bằng việc so sánh thông tin thực tế với thông tin dự toán, các nhà quản trị có thể biết được chênh lệch nào là có lợi, chênh lệch nào là bất lợi, chênh lệch nào do biến động của khối lượng hoạt động, chênh lệch nào do thành quả kiểm soát doanh thu và chi phí mang lại. 1.2.5.4. Đánh giá thành quả quản lý ở trung tâm đầu tư Đánh giá thành quả quản lý ở các trung tâm đầu tư bao gồm: - So sánh doanh thu và chi phí có thể kiểm soát được giữa thực tế với dự toán - Sử dụng các thước đo thành quả đối với các khoản vốn đầu tư thuộc quyền kiểm soát của nhà quản trị ở trung tâm đầu tư. Các chỉ tiêu cơ bản thường được sử dụng để đánh giá thành quả của trung tâm đầu tư là: Tỷ suất hoàn vốn đầu tư (ROI); Lãi thặng dư (RI); Giá trị kinh tế tăng thêm (Economic value added – EVA); Tỷ lệ thu nhập trên vốn sử dụng (Return On Capital Employed - ROCE). Các chỉ tiêu trên được xác định như sau: * Tỷ suất hoàn vốn đầu tư (ROI): ROI = Thu nhập bộ phận/Khoản đầu tư bộ phận. Triển khai dạng Dupont: ROI = (Thu nhập bộ phận/Doanh thu) x (Doanh thu/Khoản đầu tư bộ phận) Hay ROI = (Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu) x (Số vòng quay của vốn đầu tư). Mục tiêu đầu tiên của việc sử dụng ROI là việc đánh giá hiệu quả đầu tư của các trung tâm đầu tư và các doanh nghiệp có quy mô vốn khác nhau để phân tích xem nơi nào đạt hiệu quả cao nhất, từ đó làm cơ sở đánh giá thành quả quản lý. Trang 38 Mục tiêu thứ hai khi sử dụng ROI để tìm ra các nhân tố tác động đến hiệu quả quản lý, nhằm tìm ra các giải pháp để làm cho kết quả hoạt động được tốt hơn. Đó là các biện pháp cải thiện doanh thu, kiểm soát chi phí hay tính lại cơ cấu vốn đầu tư. * Lãi thặng dư (RI): RI = Lợi tức của trung tâm đầu tư – (Vốn đầu tư x Tỷ suất chi phí vốn) Mục tiêu thứ nhất của việc sử dụng chỉ số RI là cho biết lợi nhuận thực tế đã mang về là bao nhiêu, sau khi trừ đi các khoản chi phí sử dụng vốn để có được lợi nhuận trên. Mục tiêu thứ hai của việc sử dụng chỉ số RI là cho biết có nên đầu tư gia tăng hay không khi mà sử dụng chỉ số ROI không đủ cơ sở để ra quyết định. * Giá trị kinh tế tăng thêm (Economic value added – EVA) Giá trị kinh tế tăng thêm (EVA) là thước đo phần thu nhập tăng thêm từ chênh lệch giữa lợi nhuận hoạt động trước lãi vay sau thuế và chi phí sử dụng vốn. EVA = NOPAT – (TC x WACC) Trong đó: - NOPAT : Lợi nhuận trước lãi vay và sau thuế - TC : Total capital – Vốn đầu tư - WACC : Lãi suất sử dụng vốn bình quân Ưu điểm của thước đo EVA là có tính tới chi phí sử dụng vốn chủ, đây là chi phí cơ hội khi nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh này thay vì lĩnh vực kinh doanh khác, qua đó có thể xác định chính xác giá trị thực sự được tạo ra cho các nhà đầu tư, cổ đông trong một thời kỳ nhất định. Ngoài ra, khi xác định EVA đòi hỏi các chỉ tiêu được phán ánh theo quan điểm kinh tế khắc phục được hạn chế của các thước đo truyền thống khác khi sử dụng số liệu kế toán phục vụ cho việc tính toán. * Tỷ lệ thu nhập trên vốn sử dụng (Return On Capital Employed - ROCE) Hiểu một cách đơn giản ROCE là chỉ số thể hiện khả năng thu lợi nhuận của một công ty dựa trên lượng vốn đã sử dụng. ROCE được tính toán theo công thức: ROCE = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay Tổng nguồn vốn – Tổng nợ ngắn hạn Trang 39 Trong công thức tính toán trên, phần tử số (thu nhập) bao gồm các khoản lợi nhuận trước thuế, các khoản thu nhập bất thường và khoản trả cổ tức. Các số liệu này được thu thập trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mẫu số (lượng vốn công ty đã sử dụng) bao gồm tổng giá trị của các cổ phiếu thông thường và cổ phiếu ưu đãi, các khoản nợ, các khoản thuê tài chính và các khoản dự phòng. Các số liệu này được thu thập từ bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp Mỗi chỉ số (ROI, RI, EVA, ROCE) đều có những ưu nhược điểm khác nhau. Để đánh giá kết quả của trung tâm đầu tư, nhà quản trị cần sử dụng kết hợp các chỉ tiêu cơ bản như ROI, RI, EVA, ROCE với việc xem xét mức chênh lệch trong việc thực hiện các chỉ tiêu giữa thực tế so với kế hoạch. 1.2.5.5. Lý thuyết về mô hình Knowledge Management Star (KM Star) trong việc đánh giá thành quả quản lý các trung tâm trách nhiệm Rất nhiều doanh nghiệp đã cố gắng truyền đạt những mục tiêu và quán triệt các chiến lược, nhưng thường không liên kết được các hoạt động của người lao động với định hướng chiến lược của tổ chức, với tính bền vững trong tiến trình phát triển. Một thống kê của tổ chức Balanced Scorecard Collaborative đã cho thấy: - Chỉ có 5% lực lượng lao động trong đơn vị biết chiến lược của công ty - Chỉ có 25% nhà quản lý có những động cơ trong công việc có liên kết với chiến lược của công ty. - 60% các công ty không kết nối nguồn lực với chiến lược của đơn vị - 86% đội ngũ điều hành bỏ ra dưới một giờ trong một tháng để thảo luận về chiến lược của đơn vị. Nguồn: Balanced Scorecard Collaborative Đây chính là nguyên nhân chính mà các kế hoạch, chiến lược được các công ty xây dựng nên luôn gặp phải thất bại. Qua thống kê nêu trên, ta có thể dễ dàng nhận thấy nguyên nhân của sự thất bại có thể tóm gọn trong 4 rào cản cơ bản sau: - Rào cản về sứ mệnh (hầu như rất ít người lao động trong đơn vị biết sứ mệnh của công ty) - Rào cản về con người (hầu hết các nhà quản lý, người lao động làm việc có những mục tiêu không liên quan gì đến sứ mệnh của công ty) - Rào cản về nguồn lực (thời gian, ngân sách …) Trang 40 - Rào cản trong quản lý (các nhà quản lý dành quá ít thời gian để bàn về chiến lược của đơn vị trong khi đó lại dành quá nhiều thời gian cho các quyết định mang tính sách lược ngắn hạn). Nhằm góp phần đánh giá toàn diện thành quả của các trung tâm trách nhiệm, các nhà khoa học đã nghiên cứu và đưa ra mô hình Knowledge Management Star (KM Star). Mô hình KM Star cho phép doanh nghiệp thể hiện rõ những mục tiêu và chiến lược của tổ chức bằng cách đưa ra một khuôn khổ mới. Khuôn khổ này cho thấy toàn bộ chiến lược của doanh nghiệp thông qua các mục tiêu và các phép đo đã được chọn. Mô hình này do 6 nhà khoa học là Nirmal Pal, Shankar Sundaresan, Judith Ray, Hemant Bhargava, Edward Glantz và Michael W. McHugh đồng tác giả đề xuất vào năm 2004. Mô hình này thực chất là sự tích hợp từ lý thuyết “Balanced Scorecard” của Robert Kaplan & David Norton (1996) với lý thuyết “Balanced Triad” của Karl-Erik Sveiby (1997,1998). Mô hình KM Star cho rằng kết quả thực hiện mục tiêu và chiến lược đề ra trong xu thế hội nhập cần được xem xét dựa trên 5 khía cạnh: Tài chính; Khách hàng; Quy trình; Nhận thức và Tính bền vững (Nirmal Pal et al., 2004, p15). Tài chính Tính bền vững Khách hàng Mục tiêu & Chiến lược Nhận thức Quy trình Hình 1-2: Các khía cạnh của Mô hình KM Star Nguồn: Theo Nirmal Pal và các cộng sự Trang 41 - Khía cạnh Tài chính: Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp. Các thước đo ở khía cạnh này cho chúng ta biết chiến lược có được thực hiện để đạt được các kết quả cuối cùng hay không. Chúng ta có thể tập trung toàn bộ nỗ lực và khả năng của chúng ta vào việc cải tiến sự thỏa mãn của khách hàng, chất lượng, giao hàng đúng hạn hoặc hàng loạt vấn đề khác nhưng nếu không chỉ ra những tác động tích cực đến chỉ số tài chính của tổ chức thì những nỗ lực của chúng ta không có ý nghĩa. - Khía cạnh Tính bền vững: Khía cạnh này có mối quan hệ gắn bó mật thiết với tất cả các khía cạnh trong KM Star. Thước đo được sử dụng ở khía cạnh này chính là những tác động đến môi trường, các vấn đề xã hội mà doanh nghiệp phải đối phó trong tiến trình thực hiện mục tiêu, chiến lược. Ví dụ minh họa Tính bền vững tại công ty Samsung đã công bố như sau: Hình 1-3: Báo cáo về Tính bền vững tại công ty Samsung Nguồn: Công ty Samsung Như vậy, Tính bền vững có mối quan hệ gắn bó mật thiết với tất cả các khía cạnh về nhận thức, quy trình, khách hàng và tài chính trong KM Star. - Khía cạnh Khách hàng: Khi lựa chọn những thước đo đối với khía cạnh về Khách hàng để thực hiện KM Star, các doanh nghiệp phải trả lời hai câu hỏi quan trọng: khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp là ai, và giá trị thực sự mà doanh nghiệp phục vụ khách hàng là gì ? Vì vậy, các thước đo thường được sử dụng là: sự hài lòng của khách hàng, lòng trung thành của khách hàng, thị phần và số lượng khách hàng mới... Trang 42 - Khía cạnh Quy trình: Doanh nghiệp phải xác định các quy trình trong doanh nghiệp cần thực hiện để thường xuyên gia tăng giá trị cho khách hàng và các cổ đông. - Khía cạnh Nhận thức: Những thước đo trong khía cạnh này để thực hiện KM Star thực sự là những hỗ trợ cho việc đạt được kết quả ở những khía cạnh khác. Đây chính là thước đo khoảng cách giữa tình trạng hiện tại của tổ chức và những mức độ cần thiết để có thể đạt được mục tiêu về những yếu tố nền tảng như: kỹ năng của người lao động, hệ thống thông tin… Mô hình KM Star về cơ bản được sử dụng để đánh giá thành quả hoạt động. Vì vậy, để vận dụng mô hình đánh giá thành quả quản lý các trung tâm trách nhiệm, các nhà quản trị cần phải gắn trách nhiệm quản lý ở các trung tâm trách nhiệm với các khía cạnh của mô hình KM Star. Ví dụ như: - Để đánh giá thành quả quản lý của các nhà quản trị ở trung tâm chi phí, bên cạnh việc đánh giá chi phí có thể kiểm soát được giữa dự toán và thực tế (khía cạnh tài chính), các nhà quản trị cần phải được đánh giá trách nhiệm quản lý trên các khía cạnh bền vững, khách hàng, quy trình và nhận thức: + Khía cạnh bền vững: Nói đến bền vững là nói đến 3 vấn đề: kinh tế, môi trường và xã hội. Trách nhiệm quản lý 3 vấn đề này cần phải được làm rõ mới đạt được sự bền vững. Trách nhiệm về quản lý tài chính đối với trung tâm chi phí đã được thể hiện ở việc đánh giá chi phí có thể kiểm soát được giữ thực tế và dự toán. Trách nhiệm quản lý môi trường và trách nhiệm đối với xã hội được đánh giá qua trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường (giảm thiểu tác động đến môi trường), nâng cao chất lượng cuộc sống, cải thiện điều kiện làm việc … trong quá trình thực hiện công việc so với kế hoạch, định mức (yêu cầu) đặt ra trong phạm vi có thể kiểm soát của nhà quản trị. + Khía cạnh khách hàng: Sự hài lòng của khách hàng là một yếu tố vô cùng quan trọng liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Đánh giá trách nhiệm quản lý dưới khía cạnh khách hàng là đánh giá trách nhiệm trong việc giảm thiểu số lượng khách hàng phàn nàn về chất lượng sản phẩm, dịch vụ trong quá Trang 43 trình thực hiện công việc so với kế hoạch, định mức (yêu cầu) đặt ra trong phạm vi có thể kiểm soát của nhà quản trị. + Khía cạnh quy trình: đánh giá trách nhiệm trong việc cải tiến các thủ tục, quy trình, nâng cao chất lượng công việc trong quá trình thực hiện so với kế hoạch, định mức (yêu cầu) đặt ra trong phạm vi mà nhà quản trị có thể kiểm soát. + Khía cạnh nhận thức: đánh giá trách nhiệm nâng cao nhận thức, nâng cao trình độ; chấp hành kỷ cương, nội quy, quy định tại đơn vị; nâng cao đời sống vật chất và tình thần của người lao động trong quá trình thực hiện so với kế hoạch, định mức (yêu cầu) đặt ra. Tất nhiên, những vấn đề được nêu trên đây đều phải thuộc phạm vi có thể kiểm soát của nhà quản trị ở trung tâm chi phí. Tương tự, đối với việc đánh giá thành quả quản lý của các nhà quản trị ở các trung tâm trách nhiệm khác, bên cạnh việc đánh giá doanh thu, lợi nhuận … có thể kiểm soát được giữa kế hoạch và thực tế (khía cạnh tài chính), các nhà quản trị cần phải được đánh giá trách nhiệm quản lý trên các khía cạnh bền vững, khách hàng, quy trình và nhận thức mà nhà quản trị trung tâm có thể kiểm soát. Để mô hình KM Star được vận hành và phát huy tác dụng, các doanh nghiệp cần phải thực hiện một số yêu cầu như sau: - Quy trình vận dụng KM Star để đánh giá thành quả quản lý của đơn vị phải được ban hành một cách cụ thể, rõ ràng và minh bạch. - Các trung tâm trách nhiệm phải xây dựng và ban hành chiến lược phát triển, kế hoạch hoạt động cụ thể phù hợp với đơn vị mình, với định hướng phát triển của doanh nghiệp. Chiến lược, kế hoạch này phải được công bố rộng rãi, rõ ràng cho toàn thể người lao động trong đơn vị biết để cùng thực hiện. Các nhà quản lý, người lao động phải gắn những mục tiêu trong công việc với sứ mệnh của đơn vị đã được công bố. Đồng thời, chiến lược, kế hoạch đề ra phải nêu rõ thời gian thực hiện và ngân sách, nguồn lực … để đạt được mục tiêu được thiết lập. Ngoài ra, các nhà quản lý còn phải dành nhiều thời gian hơn nữa để trao đổi, bàn bạc, xem xét về chiến lược của đơn vị mình. Trang 44 - Từng trung tâm trách nhiệm phải xây dựng cho mình 1 bộ thước đo tiêu chuẩn phù hợp với đặc thù của đơn vị để đánh giá thành quả quản lý của trung tâm trên 5 khía cạnh: nhận thức, quy trình, khách hàng, tính bền vững và tài chính. - Kiên định với mô hình này và yêu cầu tất cả các nhân viên, người lao động trong đơn vị phải tuân thủ triệt để quy trình đánh giá theo KM Star. Đưa tất cả các công việc trong đơn vị hòa quyện cùng với nhau, đồng thuận đi theo định hướng chiến lược, kế hoạch đã đề ra. Như đã trình bày ở trên, một trong những nội dung quan trọng trong việc vận dụng mô hình KM Star là việc xây dựng bản đồ chiến lược. Dựa vào sứ mệnh, tầm nhìn, mục tiêu chiến lược, các trung tâm trách nhiệm trong doanh nghiệp phải xây dựng cho mình bản đồ chiến lược cụ thể ứng với 5 khía cạnh của KM Star để phục vụ công tác quản lý và đánh giá trách nhiệm quản lý. Mẫu bản đồ chiến lược tổng quát như trang sau (Trang 45) Có thể nói mô hình KM Star mang lại một sự đánh giá toàn diện, phù hợp với xu thế hội nhập, phát triển bền vững. Việc đánh giá thành quả nói chung và thành quả quản lý nói riêng của một đơn vị, bộ phận không chỉ đơn thuần dựa trên phương diện về tài chính trong ngắn hạn mà còn phải dựa trên các yếu tố phi tài chính (môi trường, xã hội…). Lợi nhuận thu được khi hoàn thành một công trình xây dựng thủy điện có khi không đáng kể so với chi phí phải bỏ ra để đền bù nếu xảy ra sự cố vỡ đập. Tác hại hơn, nếu vấn đề đó gây hại nghiêm trọng đến môi trường, đến xã hội thì có khi doanh nghiệp phải bị ngưng, đình chỉ hoạt động. Ngược lại, bênh cạnh những chiến lược về tài chính, nếu doanh nghiệp chăm lo tốt đến môi trường, đến xã hội thì có thể danh tiếng của đơn vị ngày càng tăng lên và chắc chắn lợi nhuận trong tương lai sẽ được nhiều thuận lợi. Vì vậy, mô hình KM Star ưu việt hơn các mô hình khác trước đây như mô hình BSC (Balanced Scorecard) của Robert Kaplan & David Norton hay mô hình BT (Balanced Triad) của Karl-Erik Sveiby vì đây là sự tích hợp một cách khoa học cả 2 mô hình trên. Với xu thế hội nhập, phát triển bền vững, mô hình này chắc chắn sẽ ngày càng được nhiều tổ chức, doanh nghiệp ứng dụng rộng rãi. Trang 45 1.2.6. Tổ chức hệ thống báo cáo kế toán trách nhiệm 1.2.6.1. Mục tiêu của báo cáo kế toán trách nhiệm Sản phẩm cuối cùng của tất cả các hệ thống kế toán đó là các báo cáo kế toán. Báo cáo kế toán trách nhiệm là sản phẩm của kế toán trách nhiệm. Đó là những báo cáo về kết quả hoạt động cho mỗi cấp bậc của trách nhiệm theo hệ thống tổ chức quản lý của doanh nghiệp. Hệ thống báo cáo này ghi nhận việc thực hiện mục tiêu và so sánh với mục tiêu được phân công của mỗi bộ phận trong đơn vị. Sau đó hệ thống sẽ tổng hợp việc thực hiện mục tiêu của các cấp dưới lên cấp cao hơn, và cứ thực hiện như vậy cho đến khi tổng hợp được việc thực hiện mục tiêu của toàn doanh nghiệp, so sánh với mục tiêu của toàn doanh nghiệp, và tạo báo cáo thực hiện theo từng bộ phận và toàn doanh nghiệp. Sự khác biệt giữa thông tin thực hiện với mục tiêu dự toán sẽ giúp nhà quản trị đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động của các cấp quản trị bộ phận. Ngoài ra, bên cạnh các báo cáo về các chỉ tiêu tài chính, cần thiết phải xây dựng thêm các báo cáo phi tài chính để đánh giá toàn diện thành quả của các bộ phận, đáp ứng xu thế hội nhập, phát triển bền vững. BC kết quả của các trung tâm trách nhiệm cấp thấp BC kết quả của các TT trách nhiệm cấp cao hơn Báo cáo toàn bộ Hình 1-5: Dòng thông tin của báo cáo trách nhiệm theo cấp độ quản trị. Qua sơ đồ trên, chúng ta thấy rằng hệ thống báo cáo kế toán trách nhiệm cung cấp dòng thông tin từ cấp thấp lên cấp cao hơn. Báo cáo thực hiện được sử dụng để truyền đạt và cung cấp thông tin về hoạt động của từng cấp bộ phận và toàn doanh nghiệp. 1.2.6.2. Đặc điểm báo cáo kế toán trách nhiệm Báo cáo kế toán trách nhiệm là báo cáo phản ánh kết quả về các chỉ tiêu tài chính, phi tài chính có thể kiểm soát chủ yếu đạt được ở từng trung tâm trách nhiệm trong một khoảng thời gian nhất định theo kết quả thực tế và theo dự toán. Đồng Trang 46 thời cũng chỉ ra các chênh lệch giữa kết quả thực tế so với dự toán theo từng chỉ tiêu được chuyển tải trong báo cáo phù hợp với từng loại trung tâm trách nhiệm. Như vậy, báo cáo kế toán trách nhiệm chú trọng đến việc thực hiện các dự toán và phân tích các chênh lệch. Để có thể so sánh và đánh giá các khoản chênh lệch này một cách phù hợp và đúng đắn, dự toán trong báo cáo kế toán trách nhiệm là dự toán linh hoạt nhằm cung cấp một mức chuẩn cho việc so sánh, đánh giá tình hình thực hiện dự toán doanh thu, chi phí và lợi nhuận. Theo R.S Kaplan, một hệ thống báo cáo kế toán trách nhiệm thường có những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, mức độ chi tiết của thông tin trên các báo cáo sẽ khác nhau đối với những cấp độ quản lý khác nhau. Theo đó, cấp quản lý càng thấp thì mức độ chi tiết của các chỉ tiêu báo cáo càng nhiều; những kết quả tổng cộng từ báo cáo của một cấp quản lý sẽ được báo cáo lên cho cấp quản lý cao hơn kế tiếp. Dữ liệu được tổng hợp, chắt lọc và cô đọng khi thông tin được báo cáo lên cho những cấp độ quản lý cao hơn, hay nói cách khác, mức độ chi tiết của các chỉ tiêu sẽ giảm dần ở cấp quản lý càng cao. Thứ hai, những bản báo cáo được phát hành dưới một hệ thống báo cáo kế toán trách nhiệm có mối quan hệ mật thiết với nhau. Theo đó, thông tin trong báo cáo ở cấp thấp sẽ mang tính chú thích, chứng minh cho các chỉ tiêu trong báo cáo ở cấp cao hơn. Thứ ba, báo cáo phải bao gồm tất cả những chỉ tiêu doanh thu, chi phí và lợi nhuận, mà có thể xác định một cách trực tiếp hay phân bổ một cách gián tiếp đến một cấp quản lý cụ thể, điều này phải căn cứ vào tính có thể kiểm soát được hay không đối với từng chỉ tiêu cụ thể. Theo đó, khi áp dụng phương pháp này, cần phải có sự thận trọng khi phân tách giữa những hạng mục mà một nhà quản lý có thể và phải chịu trách nhiệm đối với nó. 1.2.6.3. Phân loại báo cáo kế toán trách nhiệm Các trung tâm trách nhiệm, từ cấp quản lý thấp nhất đều phải lập báo cáo trách nhiệm đệ trình lên cấp quản lý cao hơn trong tổ chức để quản lý cấp trên nắm được hoạt động các bộ phận thuộc phạm vi trách nhiệm quản lý của mình; trên cơ Trang 47 sở đó kiểm soát hoạt động các đơn vị trực thuộc. Kế toán trách nhiệm cung cấp hệ thống báo cáo ở các cấp khác nhau của tổ chức. Mỗi báo cáo kế toán trách nhiệm được kiểm soát bởi một nhà quản trị trung tâm trách nhiệm đó; mức độ chi tiết phụ thuộc vào cấp độ của nhà quản lý trong tổ chức. Mỗi loại hình trung tâm trách nhiệm có hệ thống báo cáo trách nhiệm tương ứng. Như đã trình bày ở trên, thông tin kế toán trách nhiệm cung cấp cho các nhà quản lý trong doanh nghiệp cơ sở để đánh giá trách nhiệm quản trị của từng đơn vị, bộ phận, gắn với từng trung tâm trách nhiệm cụ thể, thông qua trách nhiệm quản trị nguồn lực của bộ phận; mức tiêu hao của các nguồn lực và mức độ hoàn thành công việc của họ. Do vậy, căn cứ vào trách nhiệm báo cáo thì hệ thống báo cáo trách nhiệm được chia thành bốn nhóm báo cáo, ứng với bốn loại trung tâm trách nhiệm. Cụ thể là: - Nhóm báo cáo trách nhiệm của trung tâm chi phí. - Nhóm báo cáo trách nhiệm của trung tâm doanh thu - Nhóm báo cáo trách nhiệm của trung tâm lợi nhuận - Nhóm báo cáo trách nhiệm của trung tâm đầu tư. 1.2.6.4. Nội dung của hệ thống báo cáo kế toán trách nhiệm Báo cáo kế toán trách nhiệm được thiết kế chứa đựng những thông tin về các dữ liệu tài chính, phi tài chính có thể kiểm soát được theo các trung tâm trách nhiệm trong một tổ chức và cho các cấp quản lý khác nhau thông qua việc tính những khoản doanh thu, chi phí mà một nhà quản lý nào đó có thể kiểm soát được đối với bộ phận mình. Đồng thời, số lượng các cấp quản lý trong một trung tâm trách nhiệm tùy thuộc vào cấu trúc tổ chức của doanh nghiệp. Trong thực tế không có mẫu biểu chính xác và chi tiết của một bảng báo cáo kết quả hoạt động của từng bộ phận trong các doanh nghiệp, mà vấn đề này phụ thuộc vào đặc thù của từng tổ chức kinh tế, từng doanh nghiệp cụ thể và bản chất của trung tâm trách nhiệm. Thông thường, những bảng báo cáo sẽ cung cấp sự so sánh giữa dữ liệu thực tế với dự toán ban đầu và sự chênh lệch được báo cáo như một sự biến động so với dự toán. Những bảng báo cáo kết quả hoạt động này thường phải tương thích với cấu trúc tổ chức của doanh nghiệp. Tại những bộ phận Trang 48 quản lý cấp cao, những báo cáo này có khuynh hướng trình bày tổng hợp, ít các sự kiện, ít chi tiết, nhiều sự tổng hợp của các đơn vị sản xuất kinh doanh bộ phận. Tùy theo mỗi loại trung tâm trách nhiệm mà nội dung báo cáo sẽ khác nhau và mang đặc trưng riêng, điều này thể hiện như sau: * Báo cáo thành quả quản lý của các trung tâm chi phí Báo cáo trách nhiệm của trung tâm chi phí là bảng so sánh chi phí có thể kiểm soát giữa thực hiện với dự toán linh hoạt, và xác định mức chênh lệch giữa chi phí thực hiện so với dự toán. Ngoài ra, các chênh lệch còn có thể được phân tích chi tiết tùy theo yêu cầu quản lý thành các biến động theo các nhân tố cấu thành chi phí đó. Mẫu Báo cáo trách nhiệm của trung tâm chi phí về cơ bản được thiết kế như (Phụ lục 1) Các báo cáo của các trung tâm chi phí được trình bày theo các cấp quản lý tương ứng với các bộ phận thuộc trung tâm. Báo cáo sẽ được thực hiện theo luồng thông tin từ dưới lên trên và trách nhiệm chi tiết đến từng bộ phận sẽ tùy thuộc vào cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý của từng công ty. Báo cáo của cấp càng thấp sẽ càng chi tiết và khi báo cáo lên trên cũng mang nội dung chỉ tiêu đó nhưng sẽ mang tính tổng hợp hơn. * Báo cáo thành quả quản lý của trung tâm doanh thu Báo cáo trách nhiệm của trung tâm doanh thu là báo cáo nhằm đánh giá trách nhiệm quản lý dựa trên báo cáo thực hiện doanh thu có thể kiểm soát thực tế so với doanh thu dự toán hoặc dự toán linh hoạt; đồng thời kèm theo phân tích ảnh hưởng của các nhân tố như giá bán, sản lượng tiêu thụ, cơ cấu sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ, … đến sự biến động của doanh thu. Tùy theo cơ cấu tổ chức quản lý trong mỗi doanh nghiệp mà xác định đối tượng (người) chịu trách nhiệm cao nhất của trung tâm doanh thu (Phó tổng giám đốc, Giám đốc, Trưởng đơn vị, bộ phân…). Và cũng tương tự như trung tâm chi phí, mức độ chi tiết theo cấp độ quản lý sẽ tùy thuộc vào cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý của từng công ty. Mẫu Báo cáo trách nhiệm của trung tâm doanh thu được thiết kế như (Phụ lục 2) * Báo cáo thành quả quản lý của trung tâm lợi nhuận Trang 49 Báo cáo trách nhiệm của trung tâm lợi nhuận là báo cáo nhằm đánh giá trách nhiệm của trung tâm này dựa trên doanh thu, chi phí có thể kiểm soát, và thường được trình bày theo dạng số dư đảm phí nhằm xác định số dư của từng bộ phận trong phạm vi được phân cấp và kiểm soát về chi phí, doanh thu của họ; đồng thời qua đó cũng đánh giá được phần đóng góp của từng bộ phận vào lợi nhuận chung của công ty. Để đánh giá trách nhiệm của từng trung tâm lợi nhuận, ta có thể so sánh kết quả thực hiện với dự toán. Mẫu Báo cáo trách nhiệm của trung tâm lợi nhuận được thiết kế như (Phụ lục 3). * Báo cáo thành quả quản lý của trung tâm đầu tư Để đánh giá trách nhiệm của trung tâm đầu tư, nhà quản trị thường sử dụng báo cáo thông qua các chỉ tiêu cơ bản như ROI, RI, EVA... Để đánh giá trách nhiệm của từng trung tâm đầu tư, ta có thể so sánh kết quả thực hiện với dự toán (kế hoạch) ban đầu. Mẫu Báo cáo trách nhiệm của trung tâm đầu tư được thiết kế như (Phụ lục 4) Về tần suất báo cáo, báo cáo phải được thực hiện một cách thường xuyên (thường báo cáo theo tháng, quý) thì mới có cơ sở để tìm ra xu hướng phát triển đối với các yếu tố trong hoạt động của bộ phận cũng như toàn đơn vị, cung cấp thông tin một cách kịp thời cho các nhà quản trị cấp cao có những điều chỉnh kịp thời nhằm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy, báo cáo bộ phận rất cần thiết cho các nhà quản lý trong việc phân tích hoạt động của các bộ phận trong tổ chức, đánh giá thành quả của bộ phận và người quản lý của từng bộ phận, cũng như trên phạm vi hoạt động toàn doanh nghiệp. Thông qua phân tích báo cáo bộ phận có thể xác định được mặt tồn tại và các khả năng còn tiềm ẩn ở từng bộ phận trong tổ chức, từ đó đề ra các biện pháp khắc phục, các phương án hoạt động cũng như các quyết định kinh tế thích hợp. 1.2.7. Mối quan hệ giữa phân cấp quản lý với việc hình thành kế toán trách nhiệm ở doanh nghiệp 1.2.7.1. Ảnh hưởng của phân cấp quản lý đến hệ thống kế toán trách nhiệm Trang 50 Kế toán trách nhiệm gắn liền với sự phân cấp về quản lý. Nếu trong nội bộ cơ cấu tổ chức quản lý không có phân cấp quản lý thì kế toán trách nhiệm không có tác dụng, nói cách khác, trong cơ cấu quản lý đó kế toán trách nhiệm không tồn tại. Các nhà quản lý cho rằng hệ thống kế toán trách nhiệm hoạt động có hiệu quả nhất trong tổ chức phân quyền. Ở đó, quyền ra quyết định được trải rộng trong toàn tổ chức. Các nhà quản lý khác nhau được quyền ra quyết định liên quan đến phạm vi trách nhiệm của họ. Do đó, mỗi nhà quản lý ở mỗi bộ phận có một sự độc lập tương đối trong việc điều hành công việc của mình và phải hoàn thành những nhiệm vụ được đặt ra từ bộ phận quản lý cấp cao hơn. Vậy, ban quản lý cấp cao muốn phối hợp hoạt động của các bộ phận trong tổ chức một cách tốt như nhau (như giám đốc công ty muốn phối hợp hoạt động của các GĐ khu vực, trưởng bộ phận…) thì phải dựa vào hệ thống kế toán trách nhiệm 1.2.7.2. Ảnh hưởng của kế toán trách nhiệm đến sự phân cấp quản lý Phân cấp quản lý tạo nên một sự độc lập tương đối ở các bộ phận nên các nhà quản lý ở từng bộ phận thường không biết được các quyết định của họ ảnh hưởng như thế nào đến các bộ phận khác trong tổ chức. Hơn nữa, họ thường quan tâm đến thành quả của bộ phận mình hơn là tính hiệu quả của tổ chức. Do đó, vấn đề đặt ra là cần phải hướng mục ti...
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.