Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm nghệ thuật nhóm sử thi Dăm Giông

pdf
Số trang Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm nghệ thuật nhóm sử thi Dăm Giông 204 Cỡ tệp Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm nghệ thuật nhóm sử thi Dăm Giông 3 MB Lượt tải Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm nghệ thuật nhóm sử thi Dăm Giông 0 Lượt đọc Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm nghệ thuật nhóm sử thi Dăm Giông 21
Đánh giá Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm nghệ thuật nhóm sử thi Dăm Giông
4.3 ( 16 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 204 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Từ năm 2001 đến năm 2007, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam đã tiến hành Dự án Điều tra sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên. Kết quả là đã sƣu tầm, biên dịch và xuất bản thành sách gồm 75 tác phẩm sử thi (in trong 62 tập) của các tộc ít ngƣời dƣới hình thức song ngữ - tiếng dân tộc và tiếng phổ thông. Trong số này, có 30 sử thi của ngƣời Bahnar trên địa bàn 02 tỉnh Kon Tum và Gia Lai. Đặc biệt, trong 30 sử thi Bahnar nói trên, có đến 26 sử thi nói về kì tích của nhân vật mang tên Dăm Giông; Số lƣợng 26 sử thi Dăm Giông này chiếm 1/3 trong số hơn 100 sử thi về Dăm Giông đã sƣu tầm đƣợc. Hiện nay, những sử thi Dăm Giông vẫn đang tồn tại và lƣu truyền trong cộng đồng ngƣời Bahnar ở hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Tiếc rằng đến nay, chƣa có nhiều công trình nghiên cứu về 26 sử thi về Dăm Giông nói trên. Trong khi đó, có rất nhiều vấn đề đặt ra cần đƣợc nghiên cứu từ bộ sử thi này nhƣ: vấn đề dịch thuật, vấn đề thể loại, ngay cả việc có nên gọi những sử thi Dăm Giông là chuỗi sử thi liên hoàn hay không và hệ thống nhân vật của nhóm sử thi, nghệ thuật diễn xƣớng, mối liên hệ với các sử thi Bahnar và các sử thi Tây Nguyên khác nhƣ thế nào,… cần đƣợc làm rõ. Ngoài ra, đặc điểm nội dung, nghệ thuật của nhóm sử thi Dăm Giông, đặc điểm nhân vật anh hùng Dăm Giông, mối liên hệ của nhóm sử thi Dăm Giông với các sử thi trong khu vực Đông Nam Á,… vẫn còn một khoảng trống cần đƣợc khảo sát. Những vấn đề trên đã thúc đẩy chúng tôi tham gia tìm hiểu, hy vọng đóng góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu nhóm sử thi này. Bản thân ngƣời thực hiện đề tài là ngƣời đƣợc sinh ra, lớn lên và có 26 năm công tác tại tỉnh Gia Lai và Kon Tum (quê hƣơng của những sử thi Dăm Giông), đã dành nhiều năm theo đuổi việc sƣu tầm, say mê nghiên cứu văn hóa, văn học địa phƣơng. Để chuẩn bị thực hiện đề tài này, tôi đã dành một năm để học tiếng Lào và khảo sát văn học Lào, Thái Lan, Campuchia với mong muốn mở rộng tìm xem mối 1 quan hệ giữa sử thi Tây Nguyên với nền văn học của các dân tộc khác trên dãy Trƣờng Sơn và khu vực. Tôi cũng đã cố gắng học tiếng Jrai và Bahnar để mong tiếp cận sâu sắc hơn với vốn văn hóa quý báu này. Từ những lí do trên, tôi mạnh dạn tiến hành việc nghiên cứu đề tài: Đặc điểm nghệ thuật nhóm sử thi Dăm Giông. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Nghiên cứu một cách có hệ thống 26 văn bản sử thi Dăm Giông và môi trƣờng diễn xƣớng của nó nhằm xác định đặc điểm nghệ thuật của bộ sử thi Dăm Giông. Qua đó, phát hiện những tƣơng đồng và dị biệt của nhóm sử thi này với sử thi khu vực Đông Nam Á và sử thi thế giới. 3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu chính của đề tài này là văn bản của 26 sử thi Bahnar về ngƣời anh hùng Dăm Giông trong Dự án Điều tra sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên do Viện Khoa học Xã hội xuất bản từ năm 2005 đến năm 2007 (Phụ lục i). 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Khảo sát đặc điểm nghệ thuật của nhóm sử thi Dăm Giông, tập trung vào các yếu tố nhƣ: kết cấu nhóm sử thi, nhân vật trung tâm, hệ thống nhân vật tái xuất hiện, các yếu tố nghệ thuật chủ yếu (cốt truyện, các kiểu kết cấu, hệ thống motif, không gian nghệ thuật...). - Phạm vi điền dã: Hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum, tập trung ở địa bàn dân tộc Bahnar, vùng có 26 sử thi đang nghiên cứu. Cụ thể là khu vực nội - ngoại ô thành phố Kon Tum và huyện Đak Hà, tỉnh Kon Tum; khu vực huyện Đak Pơ và Đak Đoa, tỉnh Gia Lai. 4. CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1. Cơ sở lí thuyết Lí thuyết cơ bản mà chúng tôi sử dụng để nghiên cứu đề tài này là những lí luận 2 cơ bản về folklore của các nhà nghiên cứu trên thế giới từ trƣớc đến nay nhƣ V. Propp, E. M. Meletinski,… Cụ thể chúng tôi vận dụng những quan điểm của V. Propp về đặc trƣng của folklore để làm cơ sở lí luận chung cho việc nghiên cứu. Để làm rõ hơn từng đặc điểm nghệ thuật của nhóm sử thi Dăm Giông, chúng tôi kế thừa phƣơng pháp phân tích cấu trúc văn bản hay còn gọi là phƣơng pháp nghiên cứu cấu trúc - loại hình của V. Ia Propp trong việc nghiên cứu cấu trúc truyện cổ Bahnar, truyện cổ Tây Nguyên, hệ thống motif, các kiểu nhân vật trong nhóm sử thi. Chúng tôi cũng học tập các quan điểm về thần thoại và sử thi của E. M. Meletinski để nghiên cứu các yếu tố huyền thoại trong các sử thi Dăm Giông, tìm xem vai trò yếu tố thần thoại trong việc xây dựng các nhân vật anh hùng, kiến tạo tác phẩm và quá trình diễn xƣớng sử thi. Chúng tôi cũng vận dụng quan điểm của E. M. Meletinski về thần thoại để giải mã việc xuất hiện nhiều đặc điểm của thần thoại trong sử thi Dăm Giông nói riêng, sử thi Bahnar, sử thi Tây Nguyên nói chung. Chúng tôi cũng sử dụng lí luận và kiến thức liên ngành nhƣ triết học, lịch sử, văn hóa, folkore với những tác giả tiêu biểu nhƣ Karl Marx, F. Angel, E. B. Tylor, M. O. Kosven, James George Frazer,… để nghiên cứu lịch sử, thiết chế xã hội loài ngƣời thời nguyên thủy nhằm tìm hiểu đặc trƣng xã hội nguyên thủy của ngƣời Tây Nguyên nói chung, ngƣời Bahnar nói riêng đƣợc chứa đựng trong các sử thi Dăm Giông. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi cũng vận dụng lí luận về tự sự học của Tezvetan Todorov và lí thuyết về cấu trúc văn bản nghệ thuật của Iu. M. Lotman để so sánh, đối chiếu với các thể loại tƣơng đồng nhằm phát hiện cấu trúc của kiểu sử thi liên hoàn của bộ sử thi Dăm Giông và sử thi Bahnar. Ngoài các lí thuyết cơ bản nêu trên, trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi còn học hỏi, kế thừa và vận dụng các lí thuyết và kết quả về folklore, phƣơng pháp điền dã, dân tộc học, khảo cổ học của các bậc nghiên cứu tiền bối trong và ngoài nƣớc nhƣ Pierre Douriboure, Paul Guilletminet, Jacques Dournes, Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Từ Chi, Cao Huy Đỉnh, Nguyễn Tấn Đắc, Nguyễn Khắc Sử,… 4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 4.2.1. Phương pháp điền dã Trong đề tài này, chúng tôi chú trọng công tác và phƣơng pháp điền dã. Chúng 3 tôi thƣờng xuyên thâm nhập thực địa tìm hiểu đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán, đời sống tinh thần (tín ngƣỡng, tôn giáo) của ngƣời Bahnar ở 02 tỉnh Gia Lai và Kon Tum nhằm nắm vững bản sắc văn hóa của tộc ngƣời Bahnar giúp cho việc nghiên cứu sử thi đúng hƣớng, đúng trọng tâm. Chúng tôi còn thâm nhập thực tế các buôn làng cổ, các vùng phƣơng ngữ khác nhau, các họ đạo, xóm đạo và tòa Giám mục Kon Tum để bổ túc tài liệu, tìm hiểu lịch sử phát triển, sự biến động của lịch sử, xã hội của dân tộc Bahnar và các dân tộc khác trên vùng đất này, đời sống sinh hoạt thực tế của ngƣời Bahnar trong quá khứ và hiện tại. Đặc biệt, chúng tôi bỏ nhiều thời gian để nghiên cứu môi trƣờng diễn xƣớng, phƣơng thức diễn xƣớng h’mon, một loại hình nghệ thuật đặc sắc làm nên đặc điểm nghệ thuật của nhóm sử thi Dăm Giông. Trong quá trình thực hiện luận án, ngoài việc nghiên cứu văn bản 26 sử thi Dăm Giông, chúng tôi thƣờng xuyên gặp gỡ, trao đổi với các nghệ nhân hát kể sử thi, các dịch giả của 26 sử thi Dăm Giông đang khảo sát để tìm hiểu tƣờng tận các tình tiết, địa danh, tên các nhân vật, tiểu sử của các nghệ nhân, tham gia các lễ hội dân gian ở địa bàn hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum để hiểu sâu sắc về các nội dung, sự kiện, nhân vật trong tác phẩm và các đặc trƣng nghệ thuật khác của nhóm sử thi Dăm Giông. 4.2.2. Phương pháp thống kê, phân tích Để tạo cho các lập luận, luận chứng, luận cứ thêm phần thuyết phục với một hệ thống số liệu chính xác, tin cậy, chúng tôi đã sử dụng phƣơng pháp thống kê, phân tích để khảo sát 26 tác phẩm của nhóm sử thi Dăm Giông. Chúng tôi lập các bảng thống kê nhƣ: tần suất xuất hiện của các nhân vật tái xuất hiện, yếu tố Kitô giáo, yếu tố kì ảo, hệ thống motif, mô hình hóa kết cấu, tóm tắt cốt truyện của 26 sử thi đƣợc khảo sát (Phụ lục ii, iii, iv và v). Từ các số liệu thống kê, chúng tôi sẽ phân tích, so sánh, đối chiếu để đúc kết, khái quát nên những đặc điểm nghệ thuật của nhóm sử thi Dăm Giông. 4.2.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu Chúng tôi sử dụng phƣơng pháp so sánh, đối chiếu để nghiên cứu mối liên hệ giữa sử thi và truyện cổ dân gian Tây Nguyên nhằm làm rõ đặc trƣng thể loại của nhóm sử thi Dăm Giông. Cụ thể, chúng tôi vận dụng lí thuyết về văn học so sánh 4 của thế giới (nhất là các nhà nghiên cứu trƣờng phái Nga, Mỹ) để so sánh, đối chiếu các yếu tố nghệ thuật tiêu biểu trong truyện cổ Jrai, Bahnar có liên quan đến sử thi Dăm Giông nhƣ hệ motif, yếu tố thần kì, kiểu nhân vật, tên địa danh, nghệ thuật kết cấu,… Bên cạnh đó, để xác định đặc trƣng tộc ngƣời của nhóm sử thi, chúng tôi nghiên cứu sử thi thế giới và sử thi Tây Nguyên để tìm ra đặc trƣng riêng biệt của nhóm sử thi Dăm Giông. Chúng tôi đi sâu nghiên cứu ở góc độ dân tộc học của tộc ngƣời Bahnar nhằm phát hiện những đặc trƣng độc đáo của tộc ngƣời này qua nhóm sử thi Dăm Giông. Qua đó đối chiếu, so sánh các kết quả khảo cổ học, lịch sử địa phƣơng để phát hiện bối cảnh lịch sử của vùng đất sản sinh ra sử thi Dăm Giông. Trong đó, chúng tôi cố gắng tìm hiểu lịch sử hình thành của hệ thống buôn làng cổ và mới ở hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum nhằm hình dung những biến động của xã hội Tây Nguyên thời nguyên thủy đƣợc phản ánh trong các sử thi. Đặc biệt, chúng tôi so sánh tính chất liên hoàn, xâu chuỗi của sử thi Dăm Giông và sử thi ot ndrong của dân tộc Mơ-nông, sử thi liên hoàn Dăm Duông của dân tộc Xơ-đăng để khái quát đặc trƣng cơ bản của sử thi liên hoàn, một loại hình đặc trƣng của sử thi Tây Nguyên. 5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN 5.1. Chỉ ra và chứng minh đƣợc các sử thi Bahnar mang tên Dăm Giông hiện đang tồn tại ở hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum là những sử thi có nhiều mối liên hệ với nhau hình thành nên một cấu trúc nghệ thuật thống nhất gọi là Nhóm sử thi Dăm Giông. 5.2. Nêu đƣợc những đặc điểm nghệ thuật cơ bản của nhóm sử thi Dăm Giông, về kết cấu của nhóm sử thi, hệ thống nhân vật, nhân vật anh hùng, các yếu tố nghệ thuật chủ yếu nhƣ hệ thống motif, không gian nghệ thuật. Tìm ra đặc điểm của nhóm sử thi Dăm Giông nói riêng và đặc điểm sử thi Bahnar nói chung. Qua đó, góp phần định danh, xác định loại hình và đặc trƣng văn hóa tộc ngƣời của nhóm sử thi. 5.3. Nghiên cứu nhóm sử thi Dăm Giông trong mối quan hệ với sử thi Tây Nguyên nói chung và một số sử thi vùng Đông Nam Á nhằm khẳng định đặc trƣng riêng biệt của nhóm sử thi này trong phạm vi khu vực. 5 6. CẤU TRÖC LUẬN ÁN Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận án có 04 chƣơng: Chƣơng 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Chƣơng 2. Kết cấu nhóm sử thi Dăm Giông - nhìn từ góc độ diễn xƣớng Chƣơng 3. Nhân vật Dăm Giông trong mối quan hệ với nhân vật tái xuất hiện và sử thi đơn Chƣơng 4. Hệ thống motif và không gian nghệ thuật trong nhóm sử thi Dăm Giông 6 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. TÌNH HÌNH SƢU TẦM, NGHIÊN CỨU SỬ THI 1.1.1. Tình hình sƣu tầm, nghiên cứu sử thi Tây Nguyên - Giai đoạn từ năm 1927 đến năm 1955 Tháng 5 năm 1927, Léopold Sabatier - một công sứ ngƣời Pháp tại Đak Lak công bố Anh hùng ca Đăm Xăn do Pierre Pasquier và Roland Dorgelѐs viết lời tựa “Bài ca cuối cùng của ngƣời Mọi” [150, tr.287]. Léopold Sabatier cho rằng Đăm Xăn(1) là một anh hùng ca (chanson de geste, épopée): “Bản khan này hay anh hùng ca này, cùng với nhiều bản khác nữa, là kết quả và là sự thể hiện một thời kì yên ổn, thái bình, phồn vinh và hùng mạnh đang phát triển, mà nhóm tộc ngƣời Rađê đã trải qua, sau khi họ di cƣ từ vùng bờ biển lên vùng cao nguyên miền nam Đông Dƣơng” [89, tr.140]. Ông còn khẳng định: “Bản anh hùng ca cổ của ngƣời Ê Đê sẽ không mất đi, câu chuyện đẹp đẽ về cuộc sống Đăm Xăn, bay lên từ núi rừng Việt Nam, sẽ đƣợc biết đến tận châu Âu” [149, tr.9]. Rất tiếc, Roland Dorgelѐs cho rằng Đăm Xăn là tác phẩm văn chƣơng cuối cùng của ngƣời Mọi. Thực tế sƣu tầm sử thi Tây Nguyên sau này chứng minh ngƣợc lại nhận định của Roland Dorgelѐs. Năm 1955, Anh hùng ca Đăm Di đƣợc công bố, Dominique Antomarchi dịch sang tiếng Pháp và Georges Condominas viết lời giới thiệu với nhan đề “Lời nói đầu về bản anh hùng ca Klei khan Kdam Yi - Nhận xét xã hội học về hai bản anh hùng ca Rađê”. Trong lời giới thiệu, Georges Condominas khẳng định: Đăm Xăn và Đăm Di là anh hùng ca - sử thi (chant épicque) [147, tr.555]. Trong công trình Các dân tộc miền núi Nam Đông Dương (Les Populations montagnardes du Sud-Indochinois) của Dam Bo (Jacques Dournes) xuất bản năm 1950 có một đoạn nhận xét về đặc điểm ngôn ngữ của sử thi Đăm Xăn: “là những câu có nhạc, đúng hơn là những câu thơ đều đặn, lặp đi lặp lại, đuổi theo nhau, bừng nở… hết sức giàu biểu tƣợng” [16, tr.195]. 7 Nhƣ vậy, những ngƣời Pháp đã đi tiên phong trong việc phát hiện và sƣu tầm sử thi Tây Nguyên. Họ đã dịch và công bố với thế giới hai sử thi Đăm Xăn và Dăm Di sang tiếng Pháp và tiếng Ê-đê. Thành tựu nghiên cứu ban đầu của họ là xác định đƣợc thể loại và những giá trị đặc biệt của sử thi. - Giai đoạn từ năm 1957 đến năm 2000 Năm 1957, sử thi Đăm Xăn đƣợc dịch từ tiếng Pháp ra tiếng Việt với tên gọi Bài ca chàng Đăm San và đƣợc in thành sách vào năm 1959. Trong một bài viết năm 1960, nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên xác định Bài ca chàng Đăm San là một “bản anh hùng ca” và “Đăm San là nhân vật anh hùng” [19, tr.48]. Năm 1970, tại Liên Xô, tiến sĩ N. J. Niculin đã dịch và giới thiệu sử thi Đăm Xăn và Đăm Di sang tiếng Nga. Ông gọi hai sử thi này là “truyền thuyết anh hùng”. Trong đó, ông chú ý đến “đặc trƣng diễn xƣớng” của nó và coi đó nhƣ một đặc trƣng tiêu biểu của sử thi [89, tr.405]. Năm 1974, trong cuốn sách Chúng tôi ăn rừng đá thần Gô, nhà nghiên cứu dân tộc học ngƣời Pháp Georges Condominas có nhắc đến một hình thức truyện kể của ngƣời Mơ-nông Gar tên là noo proo và ông gọi đó là épopée (sử thi, anh hùng ca) [53, tr. 190]. Nhƣ vậy, một lần nữa, những nhà nghiên cứu ngƣời Pháp đã phát hiện ra sử thi Tây Nguyên. Rất tiếc, Georges Codominas không đi sâu nghiên cứu sử thi đƣợc nhắc đến hoặc những vấn đề liên quan đến sử thi. Từ năm 1957 đến năm 1975, các sử thi khác nhƣ Đăm Di, Khinh Dú, Đăm Roăn, Y Ban, Y Prao đƣợc phát hiện qua lời kể của các cán bộ và đồng bào ra Bắc tập kết. Năm sử thi trên đƣợc in trong sách Trường ca Tây Nguyên xuất bản năm 1963. Qua các tác phẩm này, các nhà nghiên cứu Việt Nam nhƣ Cao Huy Đỉnh, Chu Xuân Diên, Đinh Gia Khánh đã có nhiều công trình khẳng định giá trị của sử thi Tây Nguyên là những tác phẩm có giá trị lớn của dân tộc Ê-đê, “có giá trị lớn về nội dung cũng nhƣ hình thức nghệ thuật” [79, tr.88]. Riêng về mặt thể loại, các nhà nghiên cứu Việt Nam gọi sử thi Tây Nguyên với nhiều thuật ngữ khác nhau nhƣ truyền thuyết, bài ca, trường ca, anh hùng ca, sử thi, sử thi anh hùng,… Từ năm 1976 đến năm 2000, việc nghiên cứu sử thi Tây Nguyên đƣợc quan 8 tâm nhiều hơn. Trong luận án tiến sĩ mang tên Về thể loại sử thi anh hùng của các dân tộc Tây Nguyên (năm 1982) và cuốn sách Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam (năm 1983), Võ Quang Nhơn đã dùng thuật ngữ anh hùng ca với tƣ cách là một thể loại văn học dân gian để xác định thể loại Đăm Xăn. Năm 1988, Phan Đăng Nhật bảo vệ luận án tiến sĩ tại Bungari với đề tài Sử thi Ê Đê. Luận án đã đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề quan trọng của sử thi Ê-đê nhƣ nội dung, chủ đề và quá trình hình thành, đặc điểm cơ bản gồm: cấu trúc của hệ thống sử thi, các loại và kiểu đề tài,... Phan Đăng Nhật cho rằng Đăm Xăn là sử thi cổ sơ, còn Iliát, Ôđixê, Ramayana, Mahabharata là những sử thi cổ đại (hay là sử thi cổ điển) [70, tr.731]. Từ năm 1993 đến năm 1997, nhiều sử thi Tây Nguyên mới đƣợc sƣu tầm nhƣ Chilơkok (dân tộc Ê-đê, năm 1993), Mùa rẫy bon Tiăng (dân tộc Mơ-nông, năm 1996), Giông nghèo tám vợ; Tre Vắt ghen ghét Giông (dân tộc Bahnar, năm 1996). Cùng với đó, các hội thảo về sử thi Tây Nguyên đƣợc tiến hành và có nhiều bài nghiên cứu giá trị nhƣ “Sử thi ở Việt Nam” của Đinh Gia Khánh, “Nhìn lại quá trình sƣu tầm, nghiên cứu sử thi Tây Nguyên trong bối cảnh sử thi Việt Nam” của Phan Đăng Nhật, “Vùng sử thi Tây Nguyên (một số quan điểm cơ bản)” của Ngô Đức Thịnh, “Sử thi thần thoại của ngƣời Mơ-nông” của Đỗ Hồng Kỳ, “Hơmon, một thể loại diễn xƣớng dân gian của ngƣời Ba Na ở An Khê, Gia Lai” của Tô Ngọc Thanh,… Những công trình trên đã tập trung đánh giá lại tiềm năng và trữ lƣợng của sử thi Tây Nguyên, xác định, định danh thể loại, loại hình sử thi. Các nhà nghiên cứu thống nhất cho rằng sử thi ở nƣớc ta chủ yếu là sử thi cổ sơ (archaic epic). Trong công trình Sử thi thần thoại Mơ-nông (năm 1996), Đỗ Hồng Kỳ khẳng định rằng các sử thi ot ndrong của ngƣời Mơ-nông là sử thi thần thoại [49, tr.51]. Năm 1999, công trình Vùng sử thi Tây Nguyên [72] của Phan Đăng Nhật khảo sát sử thi Tây Nguyên dƣới góc độ vùng văn hóa. Tác giả đặt ra vấn đề nghiên cứu thuộc tính chung nhất của các sử thi tập trung trên một địa bàn, trong đó có thuộc tính gắn liền với đặc điểm văn hóa, con ngƣời Tây Nguyên và phân biệt với các sử thi ngƣời Việt. Nhìn chung, trong giai đoạn từ năm 1957 đến 2000, sử thi Tây Nguyên đƣợc 9 sƣu tầm bổ sung, dịch sang tiếng Việt và bắt đầu đƣợc nghiên cứu, đƣa vào giảng dạy ở các trƣờng đại học. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu về sử thi chƣa nhiều. - Giai đoạn từ năm 2001 đến nay Từ năm 2001 đến năm 2007, Dự án Điều tra sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên của Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp triển khai với 8 tỉnh Tây Nguyên và phụ cận. Kết quả sƣu tầm một khối lƣợng sử thi đồ sộ gồm 801 tác phẩm với 5.679 băng ghi âm (độ dài 90 phút). Trong thời gian này đã phiên âm 123 tác phẩm và dịch nghĩa đƣợc 115 tác phẩm. Việc phiên âm, dịch nghĩa do các trí thức ngƣời dân tộc tiến hành, công việc biên tập do các nhà nghiên cứu ngƣời Việt đảm nhiệm. Đến năm 2007, đã xuất bản 75 tác phẩm sử thi của các dân tộc Bahnar, Mơ-nông, Ê-đê, Xơ-đăng, Ra Glai, Chăm dƣới dạng song ngữ tiếng dân tộc và tiếng phổ thông. Các sử thi của ngƣời Jrai hiện nay chƣa có ngƣời dịch nghĩa(2). Một trong những phát hiện quan trọng của các nhà nghiên cứu đối với sử thi mới sƣu tầm là những bộ sử thi có cấu trúc liên hoàn. Các nhà nghiên cứu gọi tên các sử thi ngƣời Mơ-nông (Tiăng, Lênh), Xơ-đăng (Dăm Duông), Bahnar (Dăm Giông) bằng nhiều khái niệm khác nhau: bộ sử thi nhiều tập - Đặng Diệu Trang [132], sáng tác liên hoàn (ring composition) - Bùi Thiên Thai [103], sử thi liên hợp, sử thi phổ hệ - Phan Đăng Nhật [73], sử thi chuỗi, chuỗi sử thi - h’mon liên hoàn Nguyễn Việt Hùng [140], sử thi liên hoàn - Võ Quang Trọng [130],... Khi nhận xét về các sử thi Tây Nguyên mới sƣu tầm, Ngô Đức Thịnh nhận xét: “Sử thi ở đây phần nhiều thuộc sử thi liên hoàn”, “thông qua các hành động nhân vật Duông và Giông thì tạo nên chuỗi tác phẩm liên hoàn (xâu chuỗi) khá đồ sộ”. Ông khẳng định: “Loại sử thi liên hoàn này, một mặt, mỗi tác phẩm có vị trí độc lập tƣơng đối, có nhân vật, có nội dung, tình tiết riêng, nhƣng mặt khác, những nhân vật anh hùng này lại có mối liên hệ với các tác phẩm khác trong hệ thống”. Theo ông, “hiện tƣợng khuôn mẫu có sẵn và diễn xƣớng lặp của sử thi liên hoàn xuất phát từ nhu cầu truyền miệng, dễ nhớ của các tộc ngƣời không có chữ viết” [108]. 10
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.