Luận án tiến sĩ Giáo dục học: Nghiên cứu về truyền thông và tiêu thụ trang phục, dụng cụ thể dục thể thao ở Thành phố Đà Nẵng

doc
Số trang Luận án tiến sĩ Giáo dục học: Nghiên cứu về truyền thông và tiêu thụ trang phục, dụng cụ thể dục thể thao ở Thành phố Đà Nẵng 218 Cỡ tệp Luận án tiến sĩ Giáo dục học: Nghiên cứu về truyền thông và tiêu thụ trang phục, dụng cụ thể dục thể thao ở Thành phố Đà Nẵng 2 MB Lượt tải Luận án tiến sĩ Giáo dục học: Nghiên cứu về truyền thông và tiêu thụ trang phục, dụng cụ thể dục thể thao ở Thành phố Đà Nẵng 66 Lượt đọc Luận án tiến sĩ Giáo dục học: Nghiên cứu về truyền thông và tiêu thụ trang phục, dụng cụ thể dục thể thao ở Thành phố Đà Nẵng 25
Đánh giá Luận án tiến sĩ Giáo dục học: Nghiên cứu về truyền thông và tiêu thụ trang phục, dụng cụ thể dục thể thao ở Thành phố Đà Nẵng
4.6 ( 8 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH TRƯỜNG ĐẠI HỌC TDTT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ––––––––––––––––––––––– LÊ THỊ TRÀ LÝ NGHIÊN CỨU VỀ TRUYỀN THÔNG VÀ TIÊU THỤ TRANG PHỤC, DỤNG CỤ THỂ DỤC THỂ THAO Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC TP HỒ CHÍ MINH – 2019 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH TRƯỜNG ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH ––––––––––––––––––––––– LÊ THỊ TRÀ LÝ NGHIÊN CỨU VỀ TRUYỀN THÔNG VÀ TIÊU THỤ TRANG PHỤC, DỤNG CỤ THỂ DỤC THỂ THAO Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Ngành: Giáo dục học Mã số: 9140101 LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS Dương Nghiệp Chí 2. PGS.TS Nguyễn Thanh Tùng LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, TP HỒ CHÍ MINH – 2019 kết quả trong luận án là trung thực và chưa tác giả nào công bố. Tác giả luận án Lê Thị Trà Lý MỤC LỤC MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.................................................5 1.1. TRUYỀN HÌNH LÀ MỘT PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG................................................................................................................5 1.2. VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA TRUYỀN HÌNH TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI................................................................................................................7 1.2.1. VAI TRÒ CỦA TRUYỀN HÌNH KHI MỚI XUẤT HIỆN TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM:.....................................................7 1.2.2. CHỨC NĂNG CỦA TRUYỀN HÌNH TRONG MỐI LIÊN HỆ VỚI CÔNG CHÚNG KHÁN GIẢ............................................................7 1.3. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ QUẢNG CÁO TIẾP THỊ............................10 1.4. QUẢNG CÁO TRÊN TRUYỀN HÌNH....................................................12 1.5. NỘI DUNG VÀ CÁC YẾU TỐ THEN CHỐT CỦA SẢN PHẨM THỂ THAO, HÀNG HOÁ THỂ THAO...................................................................18 1.5.1. SẢN PHẨM THỂ THAO, HÀNG HOÁ THỂ THAO...............18 1.5.2. CÁC YẾU TỐ THEN CHỐT CỦA SẢN PHẨM THỂ THAO.19 1.6. KHÁI NIỆM NHU CẦU, PHÂN LOẠI, ĐẶC ĐIỂM TIÊU THỤ THỂ DỤC THỂ THAO..............................................................................................22 1.6.1. KHÁI NIỆM NHU CẦU, TIÊU THỤ THỂ DỤC THỂ THAO22 1.6.2. CÁC LOẠI HÌNH TIÊU THỤ THỂ DỤC THỂ THAO...........23 1.6.3. TÍNH CHẤT CỦA TIÊU THỤ THỂ DỤC THỂ THAO..........24 1.6.4. LỢI ÍCH CỦA TIÊU THỤ THỂ DỤC THỂ THAO.................26 1.6.5. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC LỰA CHỌN MUA SẮM HÀNG HÓA THỂ DỤC THỂ THAO.........................................28 1.7. TÁC DỤNG CỦA THỂ THAO ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ, ĐỜI SỐNG VÀ SỨC KHỎE NHÂN DÂN..............................................30 1.7.1. MỐI QUAN HỆ GIỮA SỰ PHÁT TRIỂN CỦA SỰ NGHIỆP THỂ THAO VỚI CÁC NGÀNH NGHỀ KHÁC..................................30 1.7.2. THỂ THAO LÀ BIỆN PHÁP QUAN TRỌNG ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA NHÂN DÂN..............................32 1.7.3. THỂ THAO LÀ BIỆN PHÁP HỮU HIỆU ĐỂ NÂNG CAO TỐ CHẤT CỦA NGƯỜI DÂN, PHÒNG NGỪA VÀ CHỮA TRỊ “CĂN BỆNH CỦA XÃ HỘI VĂN MINH” VÀ KÉO DÀI TUỔI THỌ........33 1.8. KHÁI QUÁT VỀ TRUYỀN HÌNH, TRUYỀN HÌNH THỂ THAO VÀ THỂ DỤC THỂ THAO QUẦN CHÚNG THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG...........34 1.8.1. KHÁI QUÁT VỀ TRUYỀN HÌNH VÀ TRUYỀN HÌNH THỂ THAO HIỆN NAY..................................................................................34 1.8.2. KHÁI QUÁT VỀ THỂ DỤC THỂ THAO QUẦN CHÚNG THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.......................................................................39 1.9. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN...............................42 CHƯƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU................48 2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU...................................................................48 2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............................................................48 2.2.1. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP TÀI LIỆU...48 2.2.2. PHƯƠNG PHÁP PHỎNG VẤN..................................................49 2.2.3. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC.............................50 2.2.4. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH SWOT......................................51 2.2.5. PHƯƠNG PHÁP KIỂM CHỨNG XÃ HỘI HỌC.....................51 2.2.6. PHƯƠNG PHÁP TOÁN HỌC THỐNG KÊ..............................52 2.3. TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU........................................................................52 CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN...................................................54 3.1. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG, ĐỘNG CƠ VÀ NHU CẦU CỦA TRUYỀN HÌNH THỂ THAO, KINH DOANH, TIÊU THỤ DỤNG CỤ TRANG PHỤC THỂ DỤC THỂ THAO TRONG ĐỊA BÀN CÁC QUẬN NỘI ĐÔ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG..................................................................54 3.1.1. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ TẦN SUẤT TIẾP CẬN CÁC CHƯƠNG TRÌNH THỂ THAO CỦA CÁC ĐÀI TRUYỀN HÌNH ĐƯỢC KHÁN GIẢ YÊU THÍCH PHỦ SÓNG TRÊN ĐỊA BÀN CÁC QUẬN NỘI ĐÔ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG..........................................54 3.1.2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG KINH DOANH VÀ TIÊU THỤ TRANG PHỤC, DỤNG CỤ TDTT TRÊN ĐỊA BÀN CÁC QUẬN NỘI ĐÔ CỦA TP. ĐÀ NẴNG................................................................58 3.1.3. THỰC TRẠNG CHI PHÍ QUẢNG BÁ SẢN PHẨM, HÌNH ẢNH DOANH NGHIỆP CỦA CÁC ĐƠN VỊ KINH DOANH HÀNG HÓA THỂ THAO TRONG ĐỊA BÀN CÁC QUẬN NỘI ĐÔ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG......................................................................................62 3.1.4. KHẢO SÁT ĐỘNG CƠ, NHU CẦU VÀ ĐIỀU KIỆN TIẾP CẬN CÁC CHƯƠNG TRÌNH THỂ THAO TRÊN TRUYỀN HÌNH CỦA CƯ DÂN TRÊN ĐỊA BÀN CÁC QUẬN NỘI ĐÔ TP. ĐÀ NẴNG..............64 3.2. LỰA CHỌN VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TRUYỀN HÌNH THỂ THAO VÀ KINH DOANH TRANG PHỤC, DỤNG CỤ TDTT TRONG ĐỊA BÀN CÁC QUẬN NỘI ĐÔ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG..........................................................................................................90 3.2.1. NGUYÊN TẮC LỰA CHỌN CÁC GIẢI PHÁP.......................90 3.2.2. LỰA CHỌN CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TRUYỀN HÌNH THỂ THAO VÀ KINH DOANH TIÊU THỤ TRANG PHỤC, DỤNG CỤ TDTT TRÊN ĐỊA BÀN CÁC QUẬN NỘI ĐÔ TP. ĐÀ NẴNG.. 91 3.2.3. KIỂM CHỨNG HIỆU QUẢ CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TRUYỀN HÌNH THỂ THAO VÀ KINH DOANH TRANG PHỤC, DỤNG CỤ TDTT TRONG ĐỊA BÀN CÁC QUẬN NỘI ĐÔ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.......................................................................................95 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.........................................................................121 A. KẾT LUẬN:......................................................................................121 B. KIẾN NGHỊ......................................................................................121 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN Chữ viết tắt CLB DRT HTV NSNN TDTT Tp XHCN VĐV VTV Chữ viết đầy đủ Câu lạc bộ Đài phát thanh truyền hình Đà Nẵng Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh Ngân sách nhà nước Thể dục thể thao Thành phố Xã hội chủ nghĩa Vận động viên Đài truyền hình Việt Nam DANH MỤC CÁC BẢNG BẢNG 3.1 3.2 3.3 3.4 NỘI DUNG TRANG Hiện trạng chương trình phát sóng của Đài truyền hình 55 Đà Nẵng (DRT) – năm 2015 Các chương trình thể thao sản xuất và phát hàng ngày Sau 56 trên các kênh sóng của VTV năm 2015 Chương trình thể thao hàng tuần của kênh HTV9 Sau 56 Khảo sát tần suất tiếp cận các chương trình truyền hình thể thao trong 1 tuần của các khán giả trên địa Sau 57 bàn các quận nội đô Tp. Đà Nẵng Hiện trạng kinh doanh của các cơ sở kinh doanh dụng 3.5 cụ thể thao trên địa bàn nội đô Tp. Đà Nẵng năm 59 2015. Thực trạng kinh doanh của các cơ sở kinh doanh dụng 3.6 3.7 3.8 cụ thể thao trên địa bàn các quận của Tp. Đà Nẵng năm 2015. Khảo sát giá trị mua sắm dụng cụ, trang phục thể dục thể thao Thực trạng chi phí quảng bá sản phẩm, hình ảnh doanh nghiệp của các đơn vị kinh doanh hàng hóa thể 60 Sau 61 63 thao tại Đà Nẵng Kết quả khảo sát động cơ và điều kiện tiếp cận truyền 3.9 hình thể thao của khán giả lớn tuổi trên địa bàn các Sau 64 quân nội đô Tp. Đà Nẵng (n = 80) Kết quả khảo sát động cơ và điều kiện tiếp cận truyền 3.10 hình thể thao của khán giả đang làm việc trên địa bàn Sau 64 các quân nội đô Tp. Đà Nẵng (n = 150 ) Kết quả khảo sát động cơ và điều kiện tiếp cận truyền 3.11 hình thể thao của khán giả trẻ tuổi trên địa bàn các Sau 64 3.12 quân nội đô Tp. Đà Nẵng (n = 120) Kết quả khảo sát nhu cầu của khán giả lớn tuổi đối với Sau 66 các nội dung truyền hình thể thao trên địa bàn các quận nội đô Tp. Đà Nẵng (n = 80) Kết quả khảo sát nhu cầu của khán giả đang làm việc 3.13 đối với các nội dung truyền hình thể thao trên địa bàn Sau 66 các quận nội đô Tp. Đà Nẵng (n = 150) Kết quả khảo sát nhu cầu của khán giả trẻ tuổi đối với 3.14 các nội dung truyền hình thể thao trên địa bàn các Sau 66 quận nội đô Tp. Đà Nẵng (n = 120) Kết quả khảo sát nhu cầu, động cơ mua sắm dụng cụ, 3.15 trang phục TDTT của người lớn tuổi trên địa bàn các Sau 67 quân nội đô Tp. Đà Nẵng (n = 80) Kết quả khảo sát nhu cầu, động cơ mua sắm dụng cụ, 3.16 trang phục TDTT của người đang làm việc trên địa Sau 67 bàn các quân nội đô Tp. Đà Nẵng (n = 150 ) Kết quả khảo sát nhu cầu, động cơ mua sắm dụng cụ, 3.17 trang phục TDTT của người trẻ tuổi trên địa bàn các Sau 67 quân nội đô Tp. Đà Nẵng (n = 120 ) Két quả khảo sát các kênh thông tin có tác dụng kích 3.18 thích mua sắm dụng cụ, trang phục thể dục thể thao Sau 70 của khách hàng Kết quả khảo sát sự tương tác giữa truyền thông và 3.19 kinh doanh, tiêu thụ dụng cụ, trang phụcTDTT thông qua khảo sát ý kiến chuyên gia, chủ doanh nghiệp và Sau 71 khán giả-khách hàng Kết quả kiểm định của chuyên gia phân tích SWOT về 3.20 truyền hình thể thao và tiêu thụ trang phục, dụng cụ Sau 81 TDTT trên địa bàn Tp. Đà Nẵng - Điểm mạnh (n=34) Kết quả kiểm định của chuyên gia phân tích SWOT về 3.21 truyền hình thể thao và tiêu thụ trang phục, dụng cụ Sau 81 3.22 TDTT trên địa bàn Tp. Đà Nẵng - Điểm yếu (n=34) Kết quả kiểm định của chuyên gia phân tích SWOT về Sau 81 truyền hình thể thao và tiêu thụ trang phục, dụng cụ TDTT ở Tp. Đà Nẵng - Cơ hội (n=34) Kết quả kiểm định của chuyên gia phân tích SWOT về 3.23 truyền hình thể thao và tiêu thụ trang phục, dụng cụ Sau 81 TDTT Tp. Đà Nẵng – Thách thức (n=34) Kết quả ý kiến chuyên gia lựa chọn các giải pháp phát triển truyền hình thể thao hỗ trợ tăng tiêu dùng, tiêu 3.24 thụ TDTT và tiếp thị quảng cáo hàng hoá thể thao Sau 94 thông qua các chương trình truyền hình thể thao trên địa bàn các quận nội đô Tp. Đà Nẵng (n=34) Kiểm độ tin cậy của các giải pháp pháp phát triển truyền hình thể thao hỗ trợ tăng tiêu dùng, tiêu thụ 3.25 TDTT và tiếp thị quảng cáo hàng hoá thể thao thông Sau 94 qua các chương trình truyền hình thể thao trên địa bàn các quận nội đô Tp. Đà Nẵng (n=34) Kết quả kiểm định tương quan tính cấp thiết, tính khả thi của các giải pháp phát triển truyền hình thể thao hỗ 3.26 trợ tăng tiêu dùng, tiêu thụ TDTT và tiếp thị quảng cáo hàng hoá thể thao thông qua các chương trình Sau 94 truyền hình thểthao trên địa bàn các quận nội đô Tp. Đà Nẵng (n=34) Kết quả kiểm chứng tương quan thứ bậc của các giải pháp pháp phát triển truyền hình thể thao hỗ trợ tăng 3.27 tiêu dùng, tiêu thụ TDTT và tiếp thị quảng cáo hàng hoá thể thao thông qua các chương trình truyền hình Sau 94 thểthao trên địa bàn các quận nội đô Tp. Đà Nẵng 3.28 3.29 3.30 (n=34) Thời lượng, hình thức, tần suất quảng cáo và chi phí thực hiện quảng cáo của các cơ sở kinh doanh TDTT Chi phí quảng cáo và doanh thu từ trang phục, dụng cụ thể thao Tổng doanh thu kinh doanh tiêu thụ TDTT (tỷ đồng) 101 102 103 Mối liên hệ tiêu thụ trang phục, dụng cụ thể thao liên 3.31 quan đến động cơ, nhu cầu của khách hàng tại thời điểm diễn ra các sự kiện thể thao 103 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ BIỂU ĐỒ 3.1 NỘI DUNG Hiện trạng các Chương trình truyền hình thể thao TRANG 54 Kết quả khảo sát tần suất tiếp cận các chương trình 3.2 truyền hình thể thao trong 1 tuần của các khán giả trên 57 địa bàn các quận nội đô Tp. Đà Nẵng 3.3 Hiện trạng kinh doanh của các cơ sở kinh doanh dụng cụ thể thao trên địa bàn nội đô Tp. Đà Nẵng năm 2015 58 Thực trạng kinh doanh của các cơ sở kinh doanh dụng 3.4 cụ thể thao trên địa bàn các quận nội đô của Tp. Đà 60 Nẵng năm 2015. Kết quả khảo sát giá trị mua sắm dụng cụ, trang phục 3.5 thể dục thể thao của cư dân trên địa bàn nội đô Tp. Đà 61 Nẵng trong 1 năm 3.6 Tăng trưởng Chương trình thể thao của DRT, năm 2015-2016 98 Tăng trưởng doanh thu của các cơ sở kinh doanh dụng 3.7 cụ thể thao trên địa bàn các quận nội đô Tp. Đà Nẵng, 99 năm 2015-2016 (Triệu đồng) Tăng trưởng nộp ngân sáchcủa các cơ sở kinh doanh 3.8 dụng cụ thể thao trên địa bàn các quận nội đô Tp. Đà Nẵng năm 2015-2016 (Triệu đồng) 100 1 MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề Thể dục thể thao là một bộ phận của nền văn hóa xã hội. Thể dục thể thao hiện đại là tài sản vô giá mà nhân loại đã sáng tạo ra để thỏa mãn nhu cầu sống và phát triển. Chính thể dục thể thao đã và đang là một bộ phận cấu thành lối sống của con người và xã hội. TDTT còn là một biện pháp quan trọng để nâng cao sức khỏe người tập, nâng cao thành tích thể thao và làm phong phú thêm sự hưởng thụ đời sống văn hóa, tinh thần của người lao động, làm cho con người phát triển một một cách toàn diện. TDTT là một cơ chế thông qua việc bồi dưỡng phát triển bảo vệ hồi phục duy trì sức lao động, từ đó thẩm thấu vào các ngành của nền kinh tế quốc dân đã khiến cho thể thao thông qua người lao động trở thành một nhân tố nâng cao hiệu quả sản xuất lao động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế [3], [8]. Truyền thông là cách thức truyền đạt thông tin liên tục và có ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội, ảnh hưởng đến nhận thức, hành động và cách ứng xử của người dân. Trong nền kinh tế, truyền thông tác động đến tiêu dùng của người dân và giúp kinh tế phát triển. Tại Việt Nam truyền hình là phương tiện truyền thông được đại đa số người dân sử dụng để nắm bắt thông tin và giải trí, truyền hình xâm nhập mạnh mẽ và sâu sắc vào đời sống nhân dân với sự phát triển rộng khắp của hệ thống truyền hình trung ương, địa phương đã ảnh hưởng và tác động rất lớn đến đời sống chính trị tư tưởng, văn hóa và giải trí của người Việt Nam. Truyền thông thể thao là nghệ thuật sử dụng cách thức giao tiếp khoa học và hiệu quả để đưa thể thao đến gần hơn với công chúng, đưa thể thao tiếp cận được các doanh nghiệp và ngược lại. Truyền thông thể thao có thể diễn ra ở mọi cấp của thể thao, từ các giải đấu thể thao quần chúng, các giải thể thao phong trào, cho đến các giải đấu thể thao chuyên nghiệp. Theo các nghiên cứu của các nhà kinh tế thể thao, truyền thông thể thao đã đóng một vai trò quan trọng trong 2 sự phát triển của TDTT. Trong sự phát triển mạnh mẽ của truyền thông thể thao, thể thao đã trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống người dân. Thông qua truyền thông thể thao, nhiều người xem và quan tâm nhiều hơn đến thể thao, đến các giải đấu thể thao cũng như những quảng cáo trên truyền hình trong các chương trình thể thao. Sự gia tăng của các phương tiện truyền thông đại chúng là sự phát triển quan trọng nhất trong thể thao hiện đại. Mối quan hệ giữa thể thao, truyền thông, quảng cáo là cộng sinh một mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. [18] Cùng với sự phát triển vượt bậc của ngành công nghiệp thể thao trong những thập kỷ gần đây, vấn đề kinh doanh thể thao cũng được nhiều chuyên gia quan tâm nghiên cứu. Kinh doanh thể thao phụ thuộc vào số lượng và cấu trúc của mức tiêu thụ thể thao, người dân không gia tăng mức tiêu thụ thể thao thì kinh doanh thể thao sẽ không thành công. Vì vậy, để hướng dẫn và tạo động lực cho người dân đối với tiêu thụ thể thao chiếm một vị trí rất quan trọng trong sự phát triển của kinh doanh thể thao. Như vậy, truyền hình thể thao và tiêu thụ thể thao đều là những nhân tố góp phần phát triển thể dục thể thao cho mọi người nói chung và ở Thành phố Đà Nẵng nói riêng. Ở mức độ nhất định, truyền hình thể thao phát triển tốt, cũng góp phần khuyến khích sự tăng trưởng người tập luyện và tăng trưởng sức tiêu thụ thể thao. Đây là hai nhân tố cùng góp phần phát triển thể dục thể thao cho mọi người, nhưng ở mức độ nào đó, truyền hình thể thao còn góp phần quảng cáo, tiếp thị để tăng trưởng sức tiêu thụ thể thao mà đặc biệt là tiêu thụ trang phục, dụng cụ TDTT. Với ý tưởng nêu trên, tôi lựa chọn đề tài khoa học: “Nghiên cứu về truyền thông và tiêu thụ trang phục, dụng cụ thể dục thể thao ở Thành phố Đà Nẵng”. 3 2. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu về truyền thông thể thao được xem xét thông qua các chương trình truyền hình thể thao và tình hình tiêu thụ trang phục, dụng cụ TDTT của cư dân các quận nội đô trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng. Truyền thông thể thao được nghiên cứu trong luận án này chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp là truyền hình thể thao với góc nhìn khuyến khích sự phát triển thể dục thể thao cho mọi người, từ đó góp phần tăng tiêu thụ hàng hóa thể dục thể thao. Với góc nhìn này, truyền hình thể thao là một nhân tố góp phần phát triển thể dục thể thao cho mọi người. Đồng thời, truyền hình thể thao cũng là một phương thức quảng cáo, tiếp thị tiêu dùng trang phục, dụng cụ thể dục thể thao, do khuyến khích số lượng người tập thể dục thể thao quần chúng ngày càng đông đảo. 3. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu, tìm hiểu về cơ sở về lý luận kết hợp với thực tiễn, thực trạng của hoạt động truyền thông và tiêu thụ trang phục, dụng cụ thể thao tại Thành phố Đà Nẵng sẽ làm cơ sở khoa học để luận án đưa ra những giải pháp cụ thể để góp phần phát triển truyền thông thể thao, tiêu thụ trang phục, dụng cụ thể thao tại Thành phố Đà Nẵng phù hợp với qui luật vận động của thực tiễn khách quan thời kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 4. Mục tiêu nghiên cứu: Mục tiêu 1. Đánh giá thực trạng, động cơ và nhu cầu của truyền hình thể thao, kinh doanh, tiêu thụ dụng cụ trang phục TDTT trong địa bàn các quận nội đô Thành phố Đà Nẵng. -Đánh giá thực trạng và tần suất tiếp cận các chương trình thể thao của các đài truyền hình được khán giả yêu thích phủ sóng trên địa bàn các quận nội đô Thành phố Đà Nẵng. -Đánh giá thực trạng kinh doanh và tiêu thụ trang phục, dụng cụ TDTT trên địa bàn các quận nội đô của Thành phố Đà Nẵng. -Thực trạng chi phí quảng bá sản phẩm, hình ảnh doanh nghiệp của các 4 đơn vị kinh doanh hàng hóa thể thao trong địa bàn các quận nội đô Thành phố Đà Nẵng. -Khảo sát động cơ, nhu cầu và điều kiện tiếp cận các chương trình thể thao trên truyền hình của cư dân trên địa bàn các quận nội đô Thành phố Đà Nẵng. Mục tiêu 2: Lựa chọn và đánh giá hiệu quả các giải pháp phát triển truyền hình thể thao và kinh doanh trang phục, dụng cụ TDTT trong địa bàn các quận nội đô Thành phố Đà Nẵng. -Nguyên tắc lựa chọn các giải pháp. -Lựa chọn các giải pháp phát triển truyền hình thể thao và kinh doanh tiêu thụ trang phục, dụng cụ TDTT trên địa bàn các quận nội đô Thành phố Đà Nẵng. -Kiểm chứng hiệu quả các giải pháp phát triển truyền hình thể thao và kinh doanh trang phục, dụng cụ TDTT trong địa bàn các quận nội đô Thành phố Đà Nẵng. 5. Giả thuyết khoa học của đề tài: Nếu nghiên cứu được thực trạng công tác truyền thông, mà cụ thể trong luận án này là dưới góc độ quảng cáo, tiếp thị thông qua các chương trình truyền hình thể thao và kinh doanh tiêu thụ trang phục, dụng cụ thể dục thể thao tại Đà Nẵng và đưa ra các giải pháp hữu hiệu tăng cường, phát huy hiệu quả của truyền hình sẽ có tác dụng khích lệ mọi người yêu thích thể dục thể thao và tập luyện thể dục thể thao sẽ dẫn đến tăng cường tiêu dùng hàng hóa thể dục thể thao. Sự tăng trưởng tiêu thụ trang phục, dụng cụ thể thao đồng nghĩa với việc tăng người tập luyện thể thao thường xuyên, góp phần phát triển thể thao đỉnh cao, sẽ góp phần lôi cuốn mọi người quan tâm đến các chương trình truyền hình thể thao nhiều hơn ở Thành phố Đà Nẵng. 5 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Truyền hình là một phương tiện truyền thông đại chúng “Truyền thông là sự trao đổi thông điệp giữa các thành viên hay các nhóm người trong xã hội nhằm đạt được sự hiểu biết lẫn nhau”. Với sự phát triển nhanh về quy mô dân số, con người cần đến sự trợ giúp của phương tiện thông tin để quá trình truyền thông nhanh và hiệu quả hơn. Hay chính các phương tiện truyền thông đại chúng điều khiển các quá trình giao tiếp mang tính xã hội rộng rãi: “Truyền thông đại chúng là hoạt động giao tiếp xã hội rộng rãi, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng” [9], [87]. Truyền thông đại chúng là một bộ phận quan trọng của đời sống văn hoá xã hội nước ta. Cùng với những thành tựu to lớn của đất nước trong công cuộc đổi mới, hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng đã có những chuyển biến tích cực và tiến bộ. Trong những năm gần đây, truyền thông đại chúng phát triển nhanh về số lượng và quy mô, về nội dung và hình thức, về in ấn, phát hành và truyền dẫn. Các loại hình truyền thông đại chúng bao gồm: sách, báo in, điện ảnh, phát thanh, truyền hình, quảng cáo, internet, băng, đĩa hình và âm thanh…[13], [14], [40]. Trong hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng này, truyền hình mặc dù xuất hiện sau nhưng phát triển với tốc độ như vũ bão nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, tạo ra một kênh thông tin quan trọng trong đời sống xã hội. Ngày nay, truyền hình là phương tiện thiết yếu cho mỗi gia đình, mỗi quốc gia, dân tộc. Truyền hình trở thành công cụ sắc bén trên mặt trận tư tưởng văn hóa cũng như các lĩnh vực kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng [9], [25], [32]. Truyền hình là một loại hình truyền thông đại chúng chuyển tải thông tin bằng hình ảnh và âm thanh. Hình ảnh chủ yếu và đặc trưng trong truyền hình là hình ảnh động về hiện thực trực tiếp, ngoài ra truyền hình còn sử dụng các loại 6 hình ảnh tĩnh như ảnh tư liệu, mô hình, sơ đồ, biểu đồ, chữ viết Âm thanh trong truyền hình bao gồm lời bình của phát thanh viên, lời nói của con người, âm nhạc, tiếng động và các âm thanh của hiện trường ghi hình. Truyền hình đang sử dụng tổng hợp tất cả các loại phương tiện chuyển tải thông tin có trong báo in, phát thanh và điện ảnh. Truyền hình có sức hấp dẫn đặc biệt nhờ việc giao tiếp với con người bằng cả thị giác và thính giác. "Sức mạnh của truyền hình tăng lên nhờ phạm vi ảnh hưởng rộng rãi của nó. Những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại đã tạo ra khả năng cho truyền hình xâm nhập tới bất kỳ nơi nào trên trái đất" [14], [93]. Với hình ảnh động và âm thanh, truyền hình gần như đạt tới mức tuyệt đối về phạm vi công chúng xã hội. Bất cứ ai, dù là ngôn ngữ nào cũng có thể xem và hiểu được những gì được thể hiện trên truyền hình, ngoại trừ những người bị hạn chế về thị giác và thính giác. Do tính tổng hợp và chức năng đa dạng của mình mà truyền hình được gọi là "rạp hát tại nhà, quảng trường công cộng, trường học nhân dân, người hướng dẫn văn hoá đại chúng" [4], [31], [39]. Ở nước ta, sau hơn 30 năm ra đời, truyền hình được coi là một ngành công nghiệp đã có những bước phát triển vượt bậc. Mặc dù là một ngành công nghiệp non trẻ, gặp những trở ngại về kinh tế, kỹ thuật, về không gian địa lý trong sự phân bố dân cư nhưng đến năm 2005, trên 90% số hộ đã được xem truyền hình hàng ngày với 4 chương trình chính, "Đài truyền hình Việt Nam được coi là tờ báo hình lớn nhất đất nước" [59]. Chương trình truyền hình là sản phẩm lao động của một tập thể các nhà báo, các cán bộ và nhân viên kỹ thuật, dịch vụ, là quá trình giao tiếp truyền thông giữa những người làm truyền hình với công chúng xã hội rộng rãi [30]. Chương trình truyền hình là sự gặp nhau giữa nhu cầu, thị hiếu của công chúng với mục đích và ý tưởng sáng tạo của những nhà truyền thông bằng phương tiện truyền hình. Mỗi chương trình truyền hình đều nhằm tác động đến một đối tượng phục 7 vụ nhất định [5], [6]. 1.2. Vai trò, chức năng của truyền hình trong đời sống xã hội 1.2.1. Vai trò của truyền hình khi mới xuất hiện trên thế giới và ở Việt Nam Với vai trò là một tờ báo, khi mới xuất hiện, truyền hình chưa hề được để ý tới. Truyền hình chưa bị coi là đối thủ cạnh tranh đáng kể so với các loại hình báo chí khác, chỉ đến khi những kỹ thuật điện tử thế hệ mới ra đời, khiến cho việc sản xuất chương trình truyền hình gọn nhẹ hơn, tiện lợi hơn, đáp ứng được yêu cầu của công chúng thì vị trí của truyền hình trong hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng mới nhanh chóng được khẳng định. Trung bình mỗi ngày, công chúng trên thế giới giành 3 giờ 07' để xem truyền hình. Điều đó cho thấy truyền hình là một phương tiện truyền thông đại chúng quan trọng đối với con người, nó không chỉ là phương tiện cung cấp thông tin mà còn là phương tiện giải trí rẻ, tiện lợi và hữu ích [63]. Ở Việt Nam, truyền hình ra đời khá muộn so với nhiều nước trên thế giới. Ngày 7 tháng 9 năm 1970 được đánh giá là mốc ra đời của ngành truyền hình Việt Nam. Tiềm năng của truyền hình rất lớn, tuy ra đời muộn hơn so với báo in và phát thanh nhưng truyền hình đã thực sự trở thành phương tiện truyền thông đại chúng thu hút đông đảo công chúng khán giả, trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được trong đời sống xã hội. Ngày nay, chiếc ti vi đã trở nên thân thiết với mỗi người, mỗi gia đình trong xã hội, là một phương tiện giải trí không thể thay thế [63]. 1.2.2. Chức năng của truyền hình trong mối liên hệ với công chúng khán giả Truyền hình là một trong những loại hình truyền thông đại chúng, nó thực hiện các chức năng chung của các phương tiện truyền thông đại chúng như sau : Chức năng thông tin: Chức năng thông tin được thể hiện ở các chương trình truyền hình, mọi vấn đề của các lĩnh vực trong đời sống xã hội đều được 8 thông tin một cách nhanh chóng, tức thời và đầy đủ nhất. Chức năng thông tin của truyền hình mang tính đặc trưng riêng biệt. Bằng những hình ảnh có màu sắc kết hợp với âm thanh tạo nên các cung bậc, âm điệu đa dạng, truyền hình có khả năng truyền đạt thông tin tới người xem một cách đầy đủ và chân thực nhất. Đặc trưng của chức năng thông tin truyền hình liên quan chặt chẽ với các chương trình truyền hình và có tác động lớn tới việc sáng tạo tác phẩm truyền hình. Chương trình Thời sự là chương trình mang đậm chức năng thông tin. Những thông tin mà chương trình Thời sự mang lại cho khán giả những hiểu biết kịp thời và tương đối đầy đủ về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đáp ứng được nhu cầu nâng cao hiểu biết của khán giả truyền hình và đạt mục đích truyền đạt thông tin của người làm truyền hình [60], [71]. Chức năng văn hoá - giáo dục: Bản thân hoạt động của các phương tiện truyền thông đại chúng nói chung và của truyền hình nói riêng là những hoạt động văn hoá. Bất kỳ một chương trình truyền hình nào cũng hướng tới mục đích giáo dục cái chân - thiện - mỹ cho công chúng. Cho nên, truyền hình thực hiện chức năng văn hoá - giáo dục là điều tất yếu. Truyền hình thực hiện chức năng này bằng cách thông qua các chương trình truyền hình, truyền hình xã hội hoá các hiểu biết, kinh nghiệm sống, biến chúng từ cái riêng đơn nhất thành cái chung phổ biến; nâng cao trình độ tri thức cho xã hội dưới hình thức các chuyên mục về lĩnh vực khoa học cụ thể . Chức năng văn hoá - giáo dục của truyền hình còn thể hiện ở việc giáo dục lối sống cho công chúng, dẫn dắt, lôi kéo công chúng có lối sống tích cực, định hướng những khuynh hướng lối sống cụ thể [38], [43], [90]. Chức năng tư tưởng: Truyền hình tác động vào ý thức xã hội để hình thành và củng cố hệ thống tư tưởng chính trị lãnh đạo xã hội với mục đích định hướng xã hội. Truyền hình là phương tiện đặc biệt hữu hiệu trong việc giải quyết các nhiệm vụ của công tác tư tưởng trên phạm vi toàn xã hội cũng như trong khuôn khổ từng cộng đồng và đối với từng thành viên xã hội. Truyền hình thực 9 hiện chức năng tư tưởng thông qua việc thông tin nhanh chóng, kịp thời, chân thực mọi mặt của đời sống xã hội nhằm hình thành dư luận xã hội lành mạnh, mang tính tích cực. Đồng thời, trong quá trình thông tin, truyền hình còn định hướng tư tưởng chính trị cho toàn xã hội, giáo dục những tư tưởng chính trị đó nhằm biến những thông tin mà công chúng thu nhận thành những quan điểm, lập trường chính trị xã hội tích cực, tiến bộ [7], [51]. Báo chí nước ta được coi là công cụ sắc bén của Đảng, Nhà nước trong việc tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách tới toàn nhân dân, bởi vậy, truyền hình luôn phải làm tốt chức năng này [60]. Chức năng giám sát và quản lý xã hội: Với thế mạnh thông tin tác động trực tiếp tới công chúng của mình, truyền hình hiện nay đang trở thành một phương tiện truyền thông đại chúng tham gia vào quá trình giám sát và quản lý xã hội đạt hiệu quả nhất. Thông tin của truyền hình đến với công chúng một cách nhanh chóng, đều đặn và trực tiếp. Thông qua hệ thống các hình thức liên lạc (điện thoại, thư điện tử, hộp thư truyền hình), truyền hình và công chúng xem truyền hình có mối liên hệ rất chặt chẽ. Truyền hình trở thành diễn đàn của toàn dân, tạo dư luận xã hội, tích luỹ các tư tưởng, ý kiến, kinh nghiệm của quần chúng, hình thành các chuẩn mực đạo đức và định hướng giá trị phù hợp với các mục tiêu và nhiệm vụ của xã hội [5], [6]. Chức năng giải trí: Ưu thế số một của truyền hình hiện nay đó là đáp ứng được một cách cao nhất nhu cầu thông tin giải trí cho khán giả xem truyền hình. Cuộc sống càng hiện đại, con người phải làm việc căng thằng thì nhu cầu giải trí càng cao. Truyền hình đã và đang là sự lựa chọn hàng đầu hiện nay. Nhờ vào khoa học kĩ thuật – công nghệ ngày càng hiện đại, người dân có thể ngồi tại nhà và chọn lựa tất cả những kênh truyền hình mà họ yêu thích. Ca nhạc, phim ảnh… tất cả những loại hình nghệ thuật đáp ứng nhu cầu giải trí và nâng cao kiến thức của con người đều có thể đáp ứng trên truyền hình. Đây là 10 một ưu điểm đặc biệt mà không phải loại hình báo chí nào cũng có được. Thông qua truyền hình, sự giao lưu văn hoá với các nước trong khu vực và trên thế giới đã trở nên dễ dàng hơn. Người xem có điều kiện mở rộng tầm mắt, cho dù ngồi ở nhà, họ vẫn được xem những hình ảnh mới nhất, sống động động nhất về nhiều nơi trên thế giới. Đây là một yếu tố quan trọng đối với việc phát triển văn hoá qua truyền hình. Có thể nói, chức năng phát triển văn hoá, giải trí là một trong những chức năng quan trọng của truyền hình, là yếu tố có tính quyết định đến sự phát triển của truyền hình. Thông qua các chương trình truyền hình, khán giả vừa có điều kiện giải trí, vừa có điều kiện nâng cao kiến thức của mình về mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội [38], [79], [92]. Như vậy, các chương trình giải trí trên truyền hình mới đáp ứng được nhu cầu, mong mỏi của công chúng và "không có phương tiện nào khác có thể thu hút thời gian rỗi rãi của cư dân trên khắp hành tinh bằng truyền hình" [14]. Các chức năng của truyền hình luôn quan hệ chặt chẽ và có liên quan lẫn nhau. Bản thân các chức năng này tạo điều kiện và thúc đẩy lẫn nhau. Mỗi chức năng của truyền hình được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và các chương trình truyền hình bao giờ cũng thực hiện đồng thời nhiều chức năng. Bởi vậy, vai trò của truyền hình chỉ được nhận thức một cách đầy đủ khi đặt nó trong sự thống nhất hữu cơ giữa các chức năng đó [63], [73]. 1.3. Một số khái niệm về quảng cáo tiếp thị Quảng cáo là một hoạt động hết sức phổ biến hiện nay. Tốc độ tăng trưởng và đầu tư vào quảng cáo ở Việt nam nói riêng và thế giới nói chung đang ngày càng mạnh mẽ. Vai trò của quảng cáo ngày càng không thể phủ nhận trong nền kinh tế thị trường. Mặc dù trên khắp thế giới, quảng cáo được sử dụng với ý nghĩa là cầu nối trung gian mang những thông tin của sản phẩm đến với người tiêu dùng nhưng đến bây giờ quảng cáo vẫn chưa được khái quát hóa thành một định nghĩa chung nhất trên toàn thế giới. Do vậy, ở mỗi quốc gia, mỗi nền kinh 11 tế khác nhau khái niệm này lại có cách thể hiện riêng [67], [88], [90], [91]. Quảng cáo là hình thức tuyên truyền được trả phí hoặc không để thực hiện việc giới thiệu thông tin về sản phẩm, dịch vụ, công ty hay ý tưởng. Quảng cáo là hoạt động truyền thông phi trực tiếp giữa người với người mà trong đó người muốn truyền thông phải trả tiền cho các phương tiện truyền thông đại chúng để đưa thông tin đến thuyết phục hay tác động đến người nhận thông tin. Quảng cáo là những nỗ lực nhằm tác động tới hành vi, thói quen mua hàng của người tiêu dùng hay khách hàng bằng cách cung cấp những thông điệp bán hàng theo cách thuyết phục về sản phẩm hay dịch vụ của người bán [67]. Cuộc cạnh tranh giữa các phương tiện phản ánh không chỉ về mặt thu tiền quảng cáo, mà còn đấu tranh trong việc sử dụng thời gian của khách hàng của các phương tiện truyền thông đại chúng. Qua theo dõi người ta nhận thấy rằng sự sụt giảm của thời gian đọc báo, trong khi tỉ lệ thời gian dành cho nghe đài và xem tivi tăng lên. Trong thời đại số hóa hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của internet thì thị phần quảng cáo trên truyền hình đã có những ảnh hưởng nhất định. Tại Việt Nam, khán giả giữa truyền hình và internet có sự khác biệt đáng kể về đặc điểm. Theo kết quả nghiên cứu năm 2016 của Nielsen, 85% người dùng internet có độ tuổi từ 15-49 tuổi và khán giả xem truyền hình ở độ tuổi này chỉ chiếm dưới 40%. Sự khác biệt về nhóm khán giả sẽ dẫn đến các nhu cầu và sở thích khác nhau trên các nền tảng truyền thông khác nhau. Như vậy để có thể tạo nên một kênh “truyền thông hội tụ” hiệu quả cho cả tivi và internet, các kênh truyền hình và nhà sản xuất nội dung cần xây dựng được các chương trình thực sự có chất lượng mới có thể tạo ra sức hút cho các nhóm khán giả trên các nền tảng khác nhau [46], [76]. Cuộc cạnh tranh ngày càng gia tăng buộc các doanh nghiệp truyền hình nhà nước phải nghĩ đến động thái tiếp thị các sản phẩm truyền thông của họ, tất nhiên trong khuôn khổ nhiệm vụ báo chí bao gồm tin tức, văn hóa, giáo dục và 12 giải trí [28], [39]. 1.4. Quảng cáo trên truyền hình Quảng cáo trên truyền hình là một hình thức truyền tin từ đơn vị thuê quảng cáo qua phương tiện truyền hình để đến với nhiều người tiêu dùng nhằm mục đích thông báo, thuyết phục người tiêu dùng về sản phẩm/ dịch vụ để họ quan tâm, tin tưởng và tiến tới sử dụng. Quảng cáo trên truyền hình là sự kết hợp sinh động giữa hình ảnh, âm thanh, màu sắc cộng thêm cử động và các kĩ xảo truyền hình mang đến cho người xem những hình ảnh sống động, chân thực của việc xảy ra trước mặt. Từ đó tạo sự chú ý, cuốn hút và kích thích trí tò mò của người xem và cung cấp cho người tiêu dùng nhiều thông tin về sản phẩm, dịch vụ hơn các phương tiện quảng cáo khác. Quảng cáo trên truyền hình có số lượng khán giả tiếp cận thông tin nhiều nhất [25], [67]. Cũng như các loại hình quảng cáo khác, quảng cáo trên truyền hình cũng thể hiện những thông điệp quảng cáo nhất định. Tuy nhiên thông điệp quảng cáo truyền hình có những điểm khác biệt so với các thông điệp quảng cáo khác, có thể kể đến những sự khác biệt như sau [25]: Thứ nhất, quảng cáo trên truyền hình có phương thức cung cấp thông tin đặc biệt: Nếu như quảng cáo trên báo tạp chí, pano, áp phích thông tin được thể hiện ở hình ảnh, chủ yếu chỉ tác động tới thị giác của người xem, không thể truyền tải hết sự sống động cũng như toàn bộ đặc điểm của sản phẩm. quảng cáo trên đài phát thanh được thể hiện qua âm thanh, mà việc truyền thanh chỉ có thể tác động vào thính giác của người nghe nên hạn chế về nội dung cần quảng cáo và hiệu quả gây sự chú ý. Thì quảng cáo trên truyền hình là sự kết hợp giữa hình ảnh và âm thanh cộng thêm cử động, các kĩ xảo riêng truyền hình, mang đến cho người xem sự sống động, hiện thực của việc xảy ra trước mặt do đó tạo sự chú ý, cuốn hút, kích thích trí tò mò của khán giả cung cấp cho khán giả được nhiều thông tin hơn. Đó là điều mà các phương tiện quảng cáo khác không làm được [25]. 13 Thứ hai, cách thức truyền tải thông tin đến người tiếp nhận quảng cáo trên truyền hình. Người tiếp nhận thông tin trên quảng cáo truyền hình thường bị động khi tiếp nhận thông tin. Tính bị động của người tiếp nhận thông tin thể hiện ở chỗ, trong quảng cáo truyền hình người xem không được lựa chọn về thời điểm xem, nội dung xem, thời lượng xem cũng như có xem hay không quảng cáo. Đối với những kênh truyền hình chuyên quảng cáo thì người xem truyền hình cũng chỉ có thể chủ động trong việc lựa chọn có xem quảng cáo hay không chứ không thể lựa chọn nội dung quảng cáo. Thực tế cho thấy, nếu như đang xem một chương trình nào đó và bị quảng cáo xen vào thì người xem có hai sự lựa chọn một là xem tiếp đợi hết quảng cáo, hai là chuyển kênh; tuy nhiên việc chuyển sang một kênh khác cũng vẫn có thể gặp các quảng cáo khác. Không chỉ vậy, nếu như người xem truyền hình có thích xem một chương trình quảng cáo nào cũng không thể lựa chọn sẽ xem khi nào, vì việc phát sóng truyền hình hoàn toàn theo chương trình của đài truyền hình. Kể cả khi lên khung chương trình hay lịch phát sóng được đăng tải trên tạp chí truyền hình …cũng không có mục nào thể hiện thời điểm phát sóng quảng cáo và các sản phẩm sẽ được quảng cáo. Trong khi đó, nếu như xem quảng cáo trên một tạp chí, hay internet cùng như quảng cáo khác người đọc có thể chọn quảng cáo bắt mắt mà mình thích để xem hoặc có thể bỏ qua luôn mục quảng cáo để xem mục khác [33]. Thứ ba, quảng cáo truyền hình có tính xã hội hóa cao: Có thể nói, so với các loại hình quảng cáo khác, quảng cáo trên truyền hình có số lượng người tiếp cận thông tin nhiều nhất. Nói chung, truyền hình hầu như không có tính chọn lọc khán giả như những phương tiện truyền thông khác như quảng cáo trên báo chí hay có thời lượng quảng cáo nhiều như internet 24/24 giờ (song số lượng người truy cập thấp chỉ chiếm khoảng 4-5% dân số) người tiếp cận sản phẩm quảng cáo không cần bắt buộc phải đạt trình độ văn hoá nào đó như các loại hình quảng cáo khác, ngay cả những đứa trẻ vẫn có thể tiếp nhận, nghe và hiểu những thông tin được 14 truyền tải thông qua các sản phẩm quảng cáo được phát sóng trên đài truyền hình. Cho nên quảng cáo trên truyền hình chiếm được lượng khán giả theo dõi nhiều nhất trong số các loại phương tiện truyền thông. Do truyền hình thuộc về mọi người và nhất là ở Việt Nam các kênh truyền hình phổ biến chủ yếu là kênh truyền hình miễn phí số lượng người xem đài truyền hình là rất lớn, thuộc mọi tầng lớp đối tượng, vùng miền. Trong khi đó các loại hình quảng cáo khác lại có sự giới hạn về đối tượng tiếp nhận, như quảng cáo trên báo chí, ấn phẩm người tiếp nhận cần có khả năng đọc và hiểu thông tin, còn đối với quảng cáo trên internet thì ngoài yêu cầu có khả năng đọc và tiếp nhận thông tin cần có kỹ năng sử dụng internet, có các điều kiện để tiếp cận (như máy tính, cáp internet…) [83], [89]. Thứ tư, thông điệp trên quảng cáo trên truyền hình có tính tập thể cao hơn các loại thông điệp quảng cáo khác, điều này có thể dễ dàng nhận thấy khi chúng ta tiếp nhận các sản phẩm quảng cáo trên các loại hình quảng cáo khác nhau. Nếu như đối với quảng cáo trên truyền hình, một sản phẩm quảng cáo được phát trên truyền hình có thể có nhiều người cùng một lúc cùng xem sản phẩm quảng cáo đó trên cùng một cái tivi thì đối với các loại hình quảng cáo khác thì việc nhiều người cùng xem một quảng cáo với nhau thường rất khó xảy ra, chẳng hạn khi đọc một tờ báo, rất ít khi có năm bảy người cùng ngồi để đọc chung một thông điệp quảng cáo trên tờ báo đó như đối với việc tiếp nhận thông điệp quảng cáo trên truyền hình. Hơn nữa, việc nhiều người cùng tiếp nhận thông điệp quảng cáo như quảng cáo truyền hình còn tăng khả năng trao đổi thông tin về thông điệp quảng cáo thể hiện trong sản phẩm quảng cáo, giúp cho các thông điệp quảng cáo đem lại hiệu quả cao hơn [25], [64]. Thứ năm, chủ thể tham gia quảng cáo truyền hình: Có thể nói quảng cáo trên truyền hình chính là một hoạt động kinh doanh, trong đó đài truyền hình là một trong các chủ thể của hoạt động quảng cáo chứ không phải là một phương tiện quảng cáo thông thường. Điều này có thể lý giải trong việc phân tích quan 15 hệ quảng cáo, có sự tham gia của 3 loại chủ thể: người quảng cáo thương mại, người kinh doanh dịch vụ quảng cáo và người phát hành quảng cáo thương mại [25], [72]. Quảng cáo truyền hình có bốn chức năng: - Chức năng kinh tế: Quảng cáo truyền hình thông tri, báo cáo với người xem về sự ra đời hoặc sự có mặt của một mặt hàng. Trong thời đại sinh sản hàng loạt, nó thôi thúc sự tiêu thụ của khách hàng vốn chuộng những sản phẩm mới. Nó khai thác những nhu cầu tiềm ẩn của người tiêu thụ, lập lại thế quân bình giữa cung và cầu cũng như góp phần vào việc phân phối lợi tức trong xã hội. Sản phẩm ra càng nhiều thì giá thành càng rẻ và người mua có cơ hội mua rẻ và nâng cao chất lượng mức sinh hoạt của mình.Nhược điểm của nó là thúc đẩy người ta ăn tiêu hoang phí, lôi cuốn con người bắt chước nhau tiêu thụ theo thời trang, khơi gợi những lối tiêu thụ kiểu bốc đồng, nghĩa là mua mà không nghĩ trước nghĩ sau [25], [28], [31]. Chức năng thương mại: Quảng cáo truyền hình thông tri với xã hội vai trò của doanh nghiệp, đường lối hoạt động của nó. Quảng cáo cũng đốc thúc doanh nghiệp góp phần vào việc phục vụ khách hàng và xây dựng xã hội. Nó khuyến khích doanh nghiệp không ngừng cải tiến hoạt động của mình. Nó tạo danh tiếng cho nhãn hiệu (Brand) và nâng cao tinh thần của nhân viên. Điểm yếu của quảng cáo trong phạm vi này là nó gây ra khoảng cách giữa các doanh nghiệp, làm chi phí quảng cáo tăng vọt, làm cho các mặt hàng đoản mệnh vừa mới ra lò đã thành lỗi thời vì có mặt hàng mới ra ngay sau đó [1], [19], [31]. Chức năng xã hội: Quảng cáo nói chung và quảng cáo truyền hình nói riêng giáo dục người tiêu dùng.Quảng cáo truyền hình mở rộng tri thức, nâng cao mức độ suy nghĩ, phán đoán của người tiêu dùng, dạy người ta về cách dùng các mặt hàng và giúp người ta quyết định mua món hàng nào. Nó vừa là tư liệu của nội dung truyền thông đại chúng, vừa là lý do để người tiêu dùng bắt đầu biết quan tâm tới món hàng mình tiêu dùng. Nó khiến cho người ta đòi hỏi 16 những mặt hàng ra đời phải đúng theo qui trình và yêu cầu của xã hội. Nó giúp người ta tiết kiệm được thời giờ tìm hiểu vì giúp họ biết ngay ưu điểm của một mặt hàng. Tuy nhiên, những kẻ chống đối nó cho rằng quảng cáo chỉ đưa ra những tin tức hời hợt, nhiều từ hoa mỹ hơn là sự thực [25], [28], [33]. Chức năng văn hóa: Quảng cáo truyền hình đề nghị một nếp sống mới. Qua nó, chúng ta bắt mạch được hướng đi của xã hội. Nó là đề tài nói chuyện bất tận của quần chúng và nhờ nó, những hoạt động văn hóa, xã hội có phương tiện vật chất để thực hiện. Nó khai thác những đòi hỏi cao cả của con người. Con người ta sau khi đã no cơm ấm áo, có an ninh, sức khỏe, còn cần cả tinh yêu, lòng tự hào về những thành đạt trong đời và có nhu cầu cống hiến cho xã hội. Dĩ nhiên, ta đề cập đến nhu cầu nhân bản chứ không phải nói riêng về nhu cầu tiêu thụ. Thế nhưng, được hướng dẫn bởi những nhu cầu đó, con người có thể tìm đến những sản phẩm hay dịch vụ để thỏa mãn mục đích mình đòi hỏi [20]. Quảng cáo truyền hình có tác động mạnh mẽ đến hành vi mua sắm của người tiêu dùng nhưng đó là những ảnh hưởng tích cực nếu như sản phẩm quảng cáo đảm bảo chất lượng, còn nếu không, có thể gây ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến người tiêu dùng. Bởi lẽ, quảng cáo có sự tác động rất lớn đến niềm tin của người tiêu dùng đến một sản phẩm nào đó, vậy nên nếu một sản phẩm kém chất lượng mà do niềm tin của người tiêu dùng với quảng cáo truyền hình vẫn mua và sử dụng thì rất có thể gây thiệt hại cho chính người tiêu dùng tin vào quảng cáo truyền hình. Quảng cáo truyền hình không chỉ kích thích hành vi mua sắm của người tiêu dùng mà còn tác động đến cả mục đích mua sắm của người tiêu dùng. Bởi lẽ quảng cáo truyền hình sẽ góp phần mở rộng tri thức, nâng cao mức độ suy nghĩ, phán đoán của người tiêu thụ, dạy người ta về cách dùng các mặt hàng và giúp người ta quyết định mua món hàng nào. Bên cạnh đó sự tác động mạnh mẽ của quảng cáo truyền hình cũng có thể gây ra những hậu quả tiêu cực 17 như là thúc đẩy người ta ăn tiêu hoang phí, lôi cuốn con người bắt chước nhau tiêu thụ theo thời trang, khơi gợi những lối tiêu thụ kiểu bốc đồng, nghĩa là mua mà không nghĩ trước nghĩ sau. Quảng cáo truyền hình còn có tác động rất lớn đến một đối tượng rất đặc biệt nữa là trẻ em. Hầu hết những trẻ em được hỏi thích xem chương trình nào trên tivi nhất thì câu trả lời nhận được là quảng cáo [25], [83], [84], [85]. Các yếu tố ảnh hưởng đến quảng cáo truyền hình: Yếu tố kinh tế xã hội: Thực chất của hoạt động quảng cáo truyền hình là một hoạt động kinh doanh, do đó nó chịu tác động sâu sắc của yếu tố kinh tế xã hội. Ở những môi trường kinh tế khác nhau thì lại cần những chiến lược, kế hoạch khác nhau cho từng nhóm sản phẩm. Nhân tố kinh tế xã hội thể hiện qua trình độ học vấn, thu nhập bình quân đầu người, mức chi tiêu bình quân hộ gia đình hàng ngày,… trong xã hội đó. Vì thế, khi tiến hành một chương trình quảng cáo truyền hình, bạn phải xem xét kỹ lưỡng ảnh hưởng của các nhân tố trên đến hiệu quả quảng cáo truyền hình. Yếu tố văn hóa và tôn giáo: Mỗi dân tộc lại có một nền văn hóa, tôn giáo khác nhau thế nên một quảng cáo có thể phù hợp với dân tộc này nhưng lại không phù hợp với dân tộc khác. Ví dụ như với người phương tây thì những quảng cáo có hình ảnh các cô gái mặc bikini là bình thường thì ở các nước đạo hồi điều này lại là cấm kỵ. Các quảng cáo thiếu vải không phù hợp với văn hóa của người hồi giáo Yếu tố trình độ kỹ thuật: Trình độ kỹ thuật cho phép doanh nghiệp sáng tạo thông điệp quảng cáo ấn tượng nhằm giúp thu hút sự chú ý của khách hàng đến sản phẩm của mình. Thế nhưng, trình độ kỹ thuật ở mỗi nước khác nhau nên chất lượng quảng cáo ở các nước cũng rất khác nhau. Đặc tính của sản phẩm: Mỗi một nhóm sản phẩm có một đặc tính khác nhau và được sử dụng cho những nhóm khác hàng khác nhau. Vì thế, việc nghiên cứu kỹ đặc tính của sản phẩm sẽ giúp xác định được khách hàng mục 18 tiêu và đưa ra được thông điệp phù hợp trong quảng cáo. Yếu tố chi phí và giá thành quảng cáo: Có rất nhiều các doanh nghiệp ý thức được các lợi ích của quảng cáo truyền hình mang lại xong chính chi phí và giá thành thực hiện quảng cáo là rào cản khiến họ không thể thực hiện được ý muốn của mình [34], [37]. 1.5. Nội dung và các yếu tố then chốt của sản phẩm thể thao, hàng hoá thể thao 1.5.1. Sản phẩm thể thao, hàng hoá thể thao Theo quan điểm marketing, sản phẩm là tất cả những gì được chào bán trên thị trường với mục đích thu hút sự chú ý, mua, sử dụng hay tiêu dùng để có thể thỏa mãn nhu cầu hay mong muốn của người tiêu dùng, mang lại những lợi ích cho họ, vì những yếu tố này mà người tiêu dùng đã chọn mua sản phẩm này hay sản phẩm khác. Một sản phẩm thường được hình thành như là một hàng hóa hữu hình mang vỏ bọc vật chất được sản xuất, nó là một thứ gì đó có thể được cầm hay sờ được, chẳng hạn như đôi giày thể thao, bóng, vợt, trang phục bảo hiểm trong các môn võ, các thiết bị tập luyện…[19], [39]. Tuy nhiên, trong thể thao sản phẩm cũng có thể là những hàng hóa vô hình đó là các ý tưởng và dịch vụ. Thực tế, từ “sản phẩm” được sử dụng trong marketing thể thao được hiểu theo nhiều cách: 1/hàng hóa (hữu hình), 2/dịch vụ, 3/ý tưởng, 4/nhân vật (người), 5/địa điểm (công trình) hoặc các kết hợp ở trên [19] [28]. Có thể hiểu hàng hóa thể thao là một sản phẩm vật chất nào đó được đưa ra thị trường với mục đích mua bán, sử dụng và tiêu dùng. Trong ngành công nghiệp thể thao có nhiều sản phẩm hàng hóa hữu hình, từ đôi giày, trang phục thi đấu thể thao đến các dụng cụ, thiết bị tập luyện thi đấu như vợt tennis, bóng bàn, ván trượt, bóng đá, dụng cụ thể dục… Ngoài ra, cũng có những hàng hóa không chỉ dành riêng cho một môn thể thao, mà còn có thể sử dụng cho nhiều môn thể thao khác hoặc là một phần của hoạt động thể thao như các dụng cụ, 19 thiết bị tập luyện thể dục thể thao, kính mát, mũ, áo pull, đồng hồ bấm giây, máy nghe nhạc, dụng cụ tập thể dục, túi xách, quần áo thể thao…Đây là những loại hàng hóa hữu hình, nghĩa là người tiêu dùng có thể có cảm nhận thông qua các giác quan như thị giác, xúc giác, thính giác…[19], [23], [35]. Trong thực tế, hầu hết các sản phẩm thể thao là hỗn hợp của các yếu tố vật thể hữu hình và yếu tố vô hình. Nhiều sản phẩm vật chất có yếu tố dịch vụ hay ý tưởng, ví dụ người tiêu dùng mua thiết bị tập luyện thể dục tại nhà (băng chuyền, xe đạp lực kế…) không đơn thuần họ mua nó vì kiểu dáng, màu sắc, chất lượng mà họ còn cần được tư vấn, hướng dẫn về cách thức tập luyện bằng thiết bị đó bởi các nhà thể thao chuyên nghiệp. Sản phẩm tư vấn là một lời hứa mà giá trị của nó nằm ở danh tiếng hay thương hiệu của người tư vấn là các chuyên gia, vận động viên, huấn luyện viên nổi tiếng cũng như trong việc chuẩn bị nghiêm túc các nội dung tư vấn [66]. Hàng hóa thể thao thường được người tiêu dùng thể thao mua do lợi ích vô hình mà nó cung cấp. Tương tự, nhiều dịch vụ sẽ được bán (cung ứng) cùng với một vật thể hữu hình; ví dụ một thẻ thành viên câu lạc bộ bóng đá có thể đi kèm với một gói hàng gồm huy hiệu câu lạc bộ, trang phục hoặc bản tin thường xuyên. Trong nhiều trường hợp, người tiêu dùng thể thao có thể mua một hỗn hợp gồm hàng hóa, dịch vụ, lợi ích và ý tưởng. Ngoài ra, còn có các ví dụ về các dịch vụ thể thao được chuyển đổi thành các sản phẩm thể thao, giống như trò chơi trực tiếp đã được ghi vào DVD để bán sau này. Trong marketing thể thao, người ta thường kết hợp sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, các vật thể và phi vật thể để cung cấp một cách linh hoạt, hấp dẫn hơn sản phẩm cho người tiêu dùng thể thao [19]. 1.5.2. Các yếu tố then chốt của sản phẩm thể thao Các sản phẩm thể thao có một loạt các lợi ích cũng như các yếu tố hữu hình và vô hình. Nếu các sản phẩm thể thao thiếu các yếu tố hữu hình hay vô hình khác, nó có thể gặp khó khăn hơn với thị trường tiêu dùng. Do đó, cần phải 20 nghĩ các sản phẩm thể thao như là một gói hàng hoàn chỉnh hoặc một 'gói' các yếu tố, bao gồm các lợi ích cốt lõi, đặc tính của sản phẩm và các sản phẩm tăng cường. 1.5.2.1. Lợi ích cốt lõi Các lợi ích cốt lõi đại diện cho nguyên tắc lợi thế mà người tiêu dùng nhận được từ việc mua và sử dụng sản phẩm thể thao. Ví dụ, nếu một người tiêu dùng mua một chiếc xe thể thao, lợi ích chính là phương tiện để giao thông. Nếu một khách hàng mua một áo pull, lợi ích chính là một lớp vỏ che cơ thể. Nếu một khách hàng mua một vé cho một sự kiện thể thao, các lợi ích chính là giá trị giải trí hoặc trải nghiệm mà người tiêu dùng nhận như là một kết quả của việc tham dự. Nếu người tiêu dùng mua một dịch vụ, như buổi tập vật lý trị liệu thể thao hoặc một bài học kỹ thuật thể thao, lợi ích cốt lõi là cách phục hồi một chấn thương, hoặc được hướng dẫn cách chơi một môn thể thao tương ứng [64]. Thật dễ dàng để đánh giá thấp tầm quan trọng của lợi ích cốt lõi của một sản phẩm thể thao và tập trung vào các yếu tố khác như đặc tính (của sản phẩm thực tế) hoặc sự thêm vào (sản phẩm gia tăng). Nhưng lợi ích cốt lõi vẫn là lợi ích cơ bản nhất của sản phẩm thể thao; nếu nó không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thể thao, thì nó khó có thể thành công về sau [19]. 1.5.2.2. Sản phẩm thực tế Các sản phẩm thực tế đề cập đến các nét đặc biệt của sản phẩm. Các đặc tính của hàng hóa thể thao, ví dụ như trang phục thi đấu thể thao có thể có màu sắc, kích thước, chất liệu và hoa văn khác nhau. Các đặc tính của một sự kiện thể thao có thể bao gồm địa điểm, bảng điểm, cơ sở vật chất, vận động viên tham gia hoặc người chơi... Các đặc tính của một dịch vụ vật lý trị liệu thể thao có thể gồm các khoảng thời gian trị liệu, nơi điều trị được thực hiện (ví dụ như ở nhà hoặc tại cơ sở dịch vụ). Quan tâm đến các đặc tính của sản phẩm thể thao có thể là một cách làm nổi bật để chống lại sự cạnh tranh. Kéo dài lợi ích cốt lõi của sản phẩm là điều mọi người muốn, sau đó phát triển các đặc tính phù hợp có 21 thể giúp khuếch đại hiệu ứng của sản phẩm hay làm cho nó được tốt hơn để đáp ứng nhu cầu cụ thể của người tiêu dùng [87]. 1.5.2.3. Sản phẩm gia tăng (các dịch vụ kèm theo) Từ gia tăng có nghĩa là cải thiện hoặc tăng cường. Các sản phẩm gia tăng đề cập đến bất kỳ sự bổ sung hoặc mở rộng nào để thêm vào các đặc tính năng thực tế của sản phẩm. Chẳng hạn như khi một sản phẩm được gia tăng, có nghĩa là nó sẽ có được các dịch vụ kèm theo sản phẩm bao gồm các dịch vụ trước khi bán, trong khi bán và sau khi bán. Đây có thể là lợi ích bổ sung, thậm chí gia tăng thêm hình ảnh của một sản phẩm. Ví dụ khi bán một thiết bị tập luyện thể dục, người bán hàng (cung cấp) có thể thêm đĩa DVD hướng dẫn cách thức sử dụng thiết bị tập luyện bởi một chuyên gia về lĩnh vực thể hình hoặc thể lực, nó có thể cải thiện trong con mắt của người tiêu dùng như là một thương hiệu cụ thể mà họ nghĩ là chất lượng [66]. Thị trường giày thể thao là một ví dụ, các lợi ích cốt lõi của giày là như nhau (để bảo vệ đôi chân) bất kể ai làm ra nó, nhưng các nhà sản xuất khác nhau phải cố gắng tạo ra các đặc tính khác nhau của sản phẩm này về hình thức, màu sắc, bộ phận khí chống sốc ở đế giày...Tuy nhiên các đặc tính này thường nhanh chóng bị sao chép bởi đối thủ cạnh tranh. Một trong những cách hiệu quả nhất để làm cho đôi giày thể thao nổi bật là thông qua các hình ảnh của sản phẩm [80], [81]. Nhiều nhà sản xuất như Nike và Adidas sử dụng vận động viên tài trợ để cung cấp cho các sản phẩm của một sự gắn bó với thành công, tính độc quyền hoặc mang phong cách thể thao. Không phải là dễ dàng để phân biệt ba yếu tố chính của các sản phẩm thể thao. Người tiêu dùng có thể thao có những động cơ khác nhau cho các quyết định tiêu dùng của họ. Ví dụ mặc dù lợi ích cốt lõi của chiếc đạp thể thao là phương tiện di chuyển, ta cũng có thể kết luận rằng nó không thực sự đem lại lợi ích trong giao thông để hấp dẫn người tiêu dùng mua hàng. Thay vào đó, các đặc tính của một chiếc xe thể thao như kiểu dáng, đẳng 22 cấp… làm cho lợi ích vận chuyển của nó hấp dẫn hơn. Ngoài ra, sản phẩm gia tăng tiện ích thêm vào như được tham gia sinh hoạt ở một câu lạc bộ xe đạp thể thao, được tiếp cận các tay đua nổi tiếng…có thể cung cấp thêm những lợi thế có thể làm hài lòng người tiêu dùng thể thao khi quyết định mua loại xe này [65], [66]. 1.6. Khái niệm nhu cầu, phân loại, đặc điểm tiêu thụ thể dục thể thao 1.6.1. Khái niệm nhu cầu, tiêu thụ thể dục thể thao Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của con người; là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển. Tùy theo trình độ nhận thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có những nhu cầu khác nhau. Nhu cầu là cảm giác thiếu hụt một cái gì đó mà con người cảm nhận được [58]. Nhu cầu là yếu tố thúc đẩy con người hoạt động. Nhu cầu càng cấp bách thì khả năng chi phối con người càng cao; có 2 nhu cầu: vật chất và tinh thần .Cũng theo các nhà nghiên cứu xã hội học thì nhu cầu có 3 loại: Nhu cầu sinh tồn; Nhu cầu phát triển; Nhu cầu hưởng thụ.Nhu cầu là động lực phát triển, có mục đích mới trở thành động cơ, như yếu tố tích cực của tâm lý. Nhu cầu thể dục thể thao là loại nhu cầu phát triển và hưởng thụ [21], [53],. Tiêu thụ là khái niệm thuộc phạm trù kinh tế xã hội để chỉ sự sử dụng những của cải vật chất hoặc phi vật chất mà con người làm ra đã thỏa mãn nhu cầu của con người. Tiêu thụ là hoạt động và quá trình quan trọng trong hoạt động kinh tế của xã hội loài người, cũng là một lĩnh vực quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội. Quá trình hoạt động tiêu thụ cá nhân thông thường cũng biểu hiện qua quá trình chi tiêu tiền tệ, mua sắm hàng hóa để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ khác nhau của mỗi cá nhân [22]. Tiêu thụ thể dục thể thao chỉ chi tiêu của cá nhân trong hoạt động thể thao. Tiêu thụ thể dục thể thao hiểu theo nghĩa hẹp là tiêu thụ thể dục thể thao 23 cá nhân có liên quan trực tiếp đến hoạt động thể dục thể thao chẳng hạn như mua thiết bị hay trang phục thể dục thể thao. Tiêu thụ thể dục thể thao theo nghĩa rộng là tiêu thụ thể dục thể thao có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động thể dục thể thao; ví dụ như tham gia hoặc theo dõi các hoạt động thể dục thể thao người tiêu dùng phải chi tiêu cho một số dịch vụ đi kèm như chi phí đi lại, báo chí, truyền hình [64]. Tiêu thụ thể dục thể thao là hoạt động tiêu dùng cá nhân mà con người theo đuổi nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển và hưởng thụ sau khi đáp ứng nhu cầu tiêu dùng sinh tồn cơ bản. Đồng thời là hoạt động tiêu thụ cá nhân trong thời gian rảnh rỗi ngoài thời gian hoàn thành công việc. Tiêu thụ thể dục thể thao là một bộ phận cấu thành quan trọng trong tiêu dùng vui chơi giải trí và tiêu khiển xã hội, chiếm một vị trí quan trọng trong tiêu dùng thời gian nghỉ ngơi cá nhân. Với sự phát triển của nền kinh tế xã hội như hiện nay, thời gian nghỉ ngơi được tăng lên thì các hoạt động thể thao giải trí đang trở thành nhân tố ưu tiên của lối sống văn minh. Vì thế tiêu thụ thể dục thể thao là tiêu dùng vui chơi giải trí của phòng cách sống văn minh nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống. Tiêu thụ thể thao không ngừng phát triển là biểu hiện của một xã hội tiến bộ và văn minh [18], [21]. 1.6.2. Các loại hình tiêu thụ thể dục thể thao Khi tiến hành tiêu thụ thể dục thể thao, chúng ta sử dụng những nội dung liên quan để tiến hành hoạt động thể thao, các loại nội dung tiêu thụ thể thao khác nhau thì có hình thái và chức năng khác nhau. Xuất phát từ chức năng khác nhau trong việc đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của người tiêu dùng, tiêu thụ thể thao có thể phân loại như sau: Tiêu dùng thể thao mang tính thưởng thức nhằm đáp ứng nhu cầu thị giác của người tiêu dùng; Ví dụ: các loại thi đấu thể thao, biểu diễn thể thao, triển lãm thể thao.... Tiêu dùng thể thao hiện vật nhằm đáp ứng nhu cầu tham gia hoạt động thể 24 thao của người tiêu dùng, trong đó các vật dụng có tác dụng phòng hộ hay có tác dụng là một thiết bị, công cụ thể thao; ví dụ như các loại thiết bị hoạt động hay trang phục thể thao. Loại hình tiêu thụ thể dục thể thao này có thể phân ra làm 2 bộ phận: Mua sắm tư liệu tiêu dùng vật dụng thể thao với mục đích trực tiếp tham gia các hoạt động thể thao, bộ phận còn lại là đặt mua các loại tạp chí sách báo có liên quan đến thể thao với mục đích tăng cường kiến thức và sự hiểu biết về thể thao Thông thường chức năng của nội dung, đối tượng tiêu thụ thể thao không thể thay thế cho nhau, do đó ranh giới chức năng giữa chúng rất rõ ràng, ví dụ như bóng chuyền, bóng bàn, quần vợt, cầu lông... Nhưng một số chức năng của nội dung, đối tượng tiêu thụ thể dục thể thao không có gì khác biệt so với chức năng các loại tiêu dùng sinh hoạt hàng ngày, ví dụ như trang phục thể thao, giầy thể thao. Trong hoạt động thể thao có thể phát huy, đảm bảo chức năng công cụ, nhưng bình thường cũng có thể sử dụng, do đó chức năng tiêu thụ thể dục thể thao và chức năng tiêu thụ sinh hoạt có thể thay đổi lẫn nhau [65], [66]. Xét từ hình thái tự nhiên của tiêu thụ thể thao, có thể phân thành 2 loại lớn: Tư liệu tiêu thụ vật dụng thể thao và tiêu thụ dịch vụ thể thao. Tiêu thụ vật dụng thể thao có liên quan đến hoạt động thể thao dưới sự tồn tại hình thái sản phẩm vật chất như trang phục, dụng cụ TDTT…. Tiêu thụ dịch vụ thể thao dưới sự tồn tại của hình thái hoạt động, nó đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thể thao của người tiêu dùng theo phương thức hoạt động dịch vụ nhất định như xem các hoạt động thi đấu thể thao, tham gia các hoạt động thể thao… [18]. 1.6.3. Tính chất của tiêu thụ thể dục thể thao Nguyên lí cơ bản của kinh tế chính trị học chủ nghĩa Mác cho thấy, tính chất và đặc điểm của chế độ kinh tế xã hội quyết định tính chất và đặc điểm của tiêu thụ xã hội…[61], [62]. Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, những đặc trưng cơ bản của tiêu thụ thể dục thể thao bao gồm những vấn đề sau [18]: 25 Tiêu thụ thể dục thể thao là tiêu dùng văn minh, lành mạnh và khoa học: Tiêu thụ thể dục thể thao phải có lợi cho sự phát triển toàn diện của con người về các mặt đức, trí, thể, mỹ; đem lại cho người dân cuộc sống hạnh phúc và thật sự có ý nghĩa trong khoảng thời gian nghỉ ngơi. Khi toàn xã hội hình thành phương thức và phong cách tiêu thụ thể dục thể thao văn minh, lành mạnh và khoa học, sẽ thúc đẩy sự phát triển tinh thần văn minh dân tộc, hiện đại. Do đó, tiêu thụ thể dục thể thao xã hội chủ nghĩa phải kiên quyết phản đối phương thức sinh hoạt cổ hủ, dung tục, thấp kém trái với thuần phong mỹ tục. Đồng thời ngăn cấm phương thức tiêu thụ thể dục thể thao có hại cho sức khỏe của con người, đi ngược lại với nguyên tắc xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa áp dụng những biện pháp kinh tế, chính trị và dư luận tuyên truyền để tăng cường và hướng dẫn một cách khoa học đối với hoạt động tiêu thụ thể dục thể thao cho mọi người để nâng cao chất lượng cuộc sống cá nhân và an ninh xã hội [18]. Tiêu thụ thể dục thể thao gắn liền với tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế là yếu tố cần thiết để tiêu thụ thể dục thể thao đồng thời tiêu thụ thể dục thể thao cũng phản ánh trình độ phát triển kinh tế tiêu dùng thể thao để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đồng thời mục tiêu cơ bản của sản xuất xã hội chủ nghĩa là đáp ứng nhu cầu về văn hóa cũng như về vật chất đang ngày một tăng lên của toàn thể nhân dân, trong đó tiêu thụ thể dục thể thao có thể đáp ứng nhu cầu phát triển và hưởng thụ của con người. Tiêu thụ thể dục thể thao là biện pháp quan trọng thực hiện mục tiêu sản xuất xã hội chủ nghĩa. Vì thế đẩy mạnh tiêu thụ thể dục thể thao gắn liền với tăng trưởng kinh tế là đặc trưng quan trọng của tiêu thụ thể dục thể thao xã hội chủ nghĩa [19]. Nhu cầu tiêu thụ thể dục thể thao là bộ phận của tiêu thụ phát triển và tiêu thụ hưởng thụ. Tiêu thụ thể thao mang tính thời gian và không gian trong đời sống xã hội. Thời gian lưu hành của một số loại hình tiêu thụ thể dục thể thao khá ngắn như xem một sự kiện thi đấu thể thao nhưng cũng có loại hình 26 kéo dài nhiều năm như việc rèn luyện thân thể nâng cao sức khỏe hàng ngày. Trong quá trình lưu hành nhu cầu của xã hội đối với loại hình tiêu thụ thể dục thể thao khá lớn, nhu cầu của xã hội đối với loại hình tiêu thụ thể dục thể thao này không phân biệt tuổi, giới tính, nghề nghiệp xã hội. Có sự chênh lệch rõ rệt trình độ tiêu thụ thể dục thể thao giữa các vùng miền. Do chịu ảnh hưởng của trình độ phát triển kinh tế, ở các thành phố trình độ tiêu thụ thể dục thể thao khá cao; ở các vùng nông thôn và vùng núi cao, vùng sâu vùng xa việc tiêu thụ thể dục thể thao ít và không liên tục. Trong cùng một khu vực, tiêu thụ thể dục thể thao cũng thể hiện tính tầng lớp nhất định do điều kiện kinh tế khác nhau của người tiêu thụ thể thao. Tham gia chương trình tiêu thụ thể dục thể thao tầng lớp cao như: Golf, Tennis, Cầu lông; những người tiêu thụ thể dục thể thao với chi phí thấp hơn như: bóng bàn, bơi lội là sự phát triển khách quan trong xã hội. Tiêu thụ thể dục thể thao là một biện pháp quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vật chất và đời sống văn hóa đang không ngừng tăng lên của mỗi người dân trong xã hội hiện nay, thực hiện mục tiêu sản xuất xã hội chủ nghĩa, nâng cao chất lượng đời sống, thúc đẩy sự phát triển toàn diện của con người. Đồng thời cũng là con đường phổ biến rộng rãi ý thức thể dục thể thao của toàn dân, nâng cao tố chất sức khỏe của dân tộc. Chính vì vậy nhà nước phải chăm lo, đầu tư để thể dục thể thao phát triển không ngừng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội về mặt thể chất và tinh thần, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân. Đẩy mạnh chính sách xã hội hóa thể dục thể thao, huy động mọi thành phần xã hội đầu tư phát triển thể dục thể thao và được hưởng thụ giá trị lợi ích của thể dục thể thao [9], [10], [11]. 1.6.4. Lợi ích của tiêu thụ thể dục thể thao Tiêu thụ thể dục thể thao là một loại đầu tư lành mạnh: Việc chi tiêu cho các hoạt động thể dục thể thao đối với một số người cảm thấy rất khó tính toán và cho rằng đây là một loại tiêu hao không hoàn lại. Thực ra tiêu thụ thể dục thể 27 thao không phải là loại chi tiêu không hoàn lại, mà tiêu thụ thể dục thể thao là một loại đầu tư, kết quả của loại đầu tư này mang lại đó chính là giúp con người tăng cường tố chất sức khỏe, điều tiết nhịp điệu cuộc sống, tận hưởng cảm giác hưởng thụ, duy trì và tăng cường lao động trí óc và lao động chân tay. Các loại chi tiêu cho thể dục thể thao đều có thể thu về lợi nhuận. Lợi ích tiêu thụ thể dục thể thao chỉ người tiêu dùng thể thao tiêu thụ một lượng tư liệu thể thao nhất định để đạt được mức độ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ thể dục thể thao trên thực tế. Lợi ích tiêu thụ thể dục thể thao có thể xem xét từ góc độ lợi ích kinh tế cũng có thể xét từ góc độ lợi ích xã hội. Trong nhiều trường hợp lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội của tiêu thụ thể dục thể thao đan xen lẫn nhau, khó có thể phân chia một cách rõ ràng [69], [70], [74]. Tiêu thụ thể dục thể thao có lợi ích cho việc tăng cường và nâng cao tố chất sức khỏe cũng như phát triển trí tuệ của người lao động thông qua việc tham gia vào các hoạt động thể thao, đồng thời cũng tránh được bệnh tật và một số loại bệnh nghề nghiệp, tăng cường mức độ chăm chỉ và hiệu quả công việc. Tiêu thụ thể dục thể thao có lợi ích cho việc phát triển sản xuất các thiết bị vật dụng thể thao, trang phục thể thao, đồ uống, thực phẩm, vui chơi thể thao … đồng thời cung cấp nhu cầu và thông tin cho ngành sản xuất về các loại sản phẩm để tiêu thụ thể dục thể thao. Từ đó có thể thúc đẩy và đẩy mạnh ngành thể dục thể thao và các ngành có liên quan đến thể thao phát triển nhanh chóng. Tiêu thụ thể dục thể thao góp phần tăng thu nhập kinh tế nâng cao hiệu suất sử dụng cũng như lợi ích kinh tế của các cơ sở vật chất kỹ thuật công trình thể thao: Tiêu thụ thể dục thể thao có lợi trong việc đáp ứng nhu cầu phát triển và hưởng thụ của người tiêu dùng, kích thích chí tiến thủ, nâng cao tinh thần cao thượng, bồi dưỡng ý chí cạnh tranh và tinh thần đoàn kết đồng đội thúc đẩy con người phát triển toàn diện. Tiêu thụ thể dục thể thao có lợi ích cho việc tăng cường ý thức thể thao cho người dân, nâng cao mức độ hoạt động thể thao của toàn xã hội, nâng cao 28 tính tích cực và thú vị khi người dân tham gia các hoạt động thể thao, mở rộng số lượng người tham gia thể thao. Từ đó thúc đẩy hoạt động thể thao tập thể phát triển mạnh mẽ, tiến trình xã hội hóa thể thao và thực hiện chiến lược sức khỏe toàn dân [9], [10], [11]. Tiêu thụ thể dục thể thao có lợi cho việc xây dựng một xã hội văn hóa văn minh, kích thích tinh thần yêu nước và tăng cường hiểu biết giữa các quốc gia. 1.6.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn mua sắm hàng hóa thể dục thể thao Hành vi mua các mặt hàng thể thao của người tiêu dùng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố [89], [91], [93] Thương hiệu: Một nhãn hàng sử dụng một tên để phân biệt sản phẩm của một tổ chức này với sản phẩm của tổ chức khác. Thương hiệu của một nhãn hàng thể thao là một yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua hàng của người tiêu dùng. Thương hiệu nổi tiếng và hình ảnh liên quan đến nó dụ dỗ khách hàng mua và dẫn đến hành vi mua hàng thường xuyên và giảm sự thay đổi của khách hàng khi giá cả thay đổi. Thương hiệu nổi tiếng ảnh hưởng tích cực đến việc mua hàng và tiếp tục lặp lại việc mua hàng. Có bằng chứng cho thấy thương hiệu có thể ảnh hưởng đến việc mua hàng một cách vô thức. Người tiêu dùng có thể biểu hiện sự tin tưởng đối với một thương hiệu nổi tiếng mà bỏ qua các thương hiệu không quen thuộc. Vì vậy thương hiệu dường như là một yếu tố quan trọng tác động đến sự lựa chọn mua mà cũng có thể áp dụng đối với các mặt hàng thể thao và ảnh hưởng đến khách hàng và thói quen mua sắm của họ. Chất lượng sản phẩm: Những người khác nhau nhìn nhận chất lượng khác nhau, như mỗi cá nhân có nhu cầu khác nhau. Trong thị trường, chất lượng được chứng nhận với sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng hoặc biểu hiện ở mức độ đáp ứng được sự kỳ vọng của khách hàng đối với sản phẩm. Trong một mức độ đặc biệt hơn, chất lượng sẽ gắn liền với tính năng, đặc điểm của một sản phẩm cho phép sản phẩm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. 29 Sự cảm nhận chất lượng của nhãn hàng cũng ảnh hưởng rất tích cực đến sự lựa chọn của người tiêu dùng. Chất lượng hữu hình của sản phẩm có liên quan đến một thương hiệu có thể kích thích việc mua hàng. Sự cảm nhận tích cực về chất lượng sản phẩm sẽ cung cấp cho khách hàng lý do để mua các thương hiệu cũng như nó được phân biệt dựa trên chất lượng. Giá cả: Giá cả là số tiền mà khách hàng nên trả và phải trả trong việc yêu cầu giá trị hàng hóa Nó được hiểu đóng vai trò quan trọng trong việc tác động đến việc mua hàng của người tiêu dùng. Ví dụ khách hàng thường so sánh các thương hiệu thay thế dựa vào giá cả bằng cách so sánh giá với giá trị, do đó nhận thức giá trị của một thương hiệu liên quan cao hơn chi phí của nó, là cơ hội của một khách hàng chọn nó. Tuy nhiên mặc dù giá cả là một yếu tố quan trọng được xem xét bởi một khách hàng trung bình, khách hàng trung thành với thương hiệu sẽ trả một giá cáo hơn cho thương hiệu và không bị ảnh hưởng bởi giá. Vận động viên hoặc đội được tài trợ bởi thương hiệu: Cá nhân các vận động viên đã thể hiện sức ảnh hưởng lên sự nhận thức của khách hàng. Thông thường, thương hiệu gắn liền với các vận động viên ngầm xác nhận gắn liền với chất lượng, do đó nó đã ảnh hưởng đến nhận thức của người tiêu dùng. Các đội thể thao nổi tiếng ví dụ MU và Real M được biết đến là có tác động tích cực đến việc kinh doanh bán lẻ của các nhãn hiệu gắn liền với đội bóng. Những đội bóng như vậy đã truyền tải những đặc tính tích cực đến các thương hiệu mà họ làm đại diện và như vậy đã làm gia tăng sự nhận dạng dựa vào sự nổi tiếng [66]. Quốc gia sản xuất: Các nghiên cứu cho biết, quốc gia sản xuất các thương hiệu có một tác động lên nhận định của khách hàng về chất lượng và sự yêu thích thương hiệu. Quốc gia sản xuất nhãn hàng có vai trò thuyết phục sự đánh giá của khách hàng cho nhãn hàng bởi vì khách hàng có những ý kiến và hình ảnh nhất định về quốc gia đó đặc biệt là liên quan đến cảm nhận về nguồn gốc sản phẩm. Thực tế, một vài nghiên cứu chỉ ra rằng ảnh hưởng của quốc gia sản 30 xuất hàng hoá là không tồn tại và nếu có thì tác động của chúng đối với việc quyết định mua hàng của người tiêu dùng là rất nhỏ [66]. 1.7. Tác dụng của thể thao đối với việc phát triển kinh tế, đời sống và sức khỏe nhân dân 1.7.1. Mối quan hệ giữa sự phát triển của sự nghiệp thể thao với các ngành nghề khác Mối quan hệ giữa sự phát triển của sự nghiệp thể thao và các ngành giao thông vận tải, bưu chính, thông tin liên lạc, xây dựng các công trình quản lý thành phố là một tổ hợp các ngành có sự hỗ trợ và tương quan. Tác dụng của chúng có sự hỗ trợ và tương quan sở dĩ là bởi sự phát triển của một phía nhất định yêu cầu sự tồn tại và phát triển của phía kia. Bởi vì, phát triển hoạt động thể thao tổ chức cá cược thi đấu thể thao quy mô lớn trong và ngoài nước không chỉ cần xây dựng các công trình thể thao với quy mô lớn, mà còn cần sự tương thích của nhiều cơ sở dịch vụ sinh hoạt [41]. Tác dụng thúc đẩy của sự phát triển của hoạt động thể thao đối với ngành du lịch, ẩm thực, dịch vụ và thương nghiệp là quan hệ ngành tương quan hỗ trợ trong ngành dịch vụ. Sự vận hành thị trường hóa của ngành thể thao cần đến các loại người lao động khác nhau, đã mang lại những cơ hội cho việc mở rộng con đường tìm kiếm việc làm trong xã hội. Sự phát triển của hoạt động thể thao đã làm tăng nhu cầu xã hội đối với sản phẩm của các ngành có liên quan đến thể thao như: trang phục thể thao, dụng cụ thể thao. Vì thế, quy mô sản xuất của các doanh nghiệp này cũng được mở rộng theo, nhu cầu với người lao động cũng tăng lên [18]. Sự phát triển ngành thể thao đã làm tăng nhu cầu xã hội đối với các sản phẩm dịch vụ liên quan của ngành dịch vụ, thúc đẩy sự phát triển của ngành dịch vụ. Vì thế, nhu cầu đối với người lao động trong các ngành liên quan đến ngành dịch vụ cũng tăng lên theo. Thể thao là nội dung quan trọng để xây dựng nền văn minh xã hội chủ 31 nghĩa, là biện pháp quan trọng để nâng cao tố chất cơ thể của người lao động, thúc đẩy sự phát triển của sức sản xuất, tiến hành xây dựng văn minh vật chất; cũng là con đường quan trọng để xây dựng phương thức sống văn minh, lành mạnh, khoa học, nâng cao chất lượng cuộc sống và mức sống của nhân dân. Tác dụng của thể thao đối với việc nâng cao chất lượng sống và mức sống của nhân dân chủ yếu được thể hiện ở mấy điểm sau [18]: Từ khi cải cách mở cửa đến nay, nước ta kiên trì cải cách theo định hướng kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, giúp kinh tế phát triển nhành chóng. Sự phát triển kinh tế mang đến cho phương thức sống của xã hội một loạt sự thay đổi, cả những thay đổi lớn về phương diện thể thao. Đó là sự phong phú đa dạng trong nội dung hoạt động thể thao. Nội dung của hoạt động thể thao hiện nay là kết hợp các hạng mục truyền thống và hiện đại, kết hợp giữa giải trí, du lịch, thương mại với thể thao. Kết hợp giữa thể thao phương đông và phương tây, giữa thể thao và văn hóa, trong khi trước đó, chỉ là tập thể dục, đánh cầu, leo núi, bơi lội, … Phương thức sống lành mạnh, văn minh, khoa học, được sự tiếp nhận của đông đảo quần chúng nhân dân. Vì thế, hình thức đơn nhất hóa các hạng mục của hoạt động thể thao đã được thay thế bằng hình thức đa dạng hóa, như các nội dung thể thao, bi-a, bowling, golf, bóng tường, bóng đá nữ, đua thuyền buồn, thể dục thẩm mĩ,… đã được tiếp nhận rộng rãi trong quần chúng nhân dân, được mở rộng hơn ở một số khu vực vô cùng phong phú và đa dạng. Sự phát triển của thể thao đã khiến cho nhiều hạng mục truyền thống ngày càng sôi nổi. Ví dụ như: đua thuyền rồng, múa lân, võ thuật,…Thêm nữa, người dân đã kết hợp các ngày nghỉ lễ tết, quốc khánh, hoạt động thương mại với thể thao, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của con người. Ví dụ: liên hoan thể thao mùa xuân, dạ hội thể thao tết nguyên tiêu, biểu diễn thể thao mừng quốc khánh…[42]. 32 1.7.2. Thể thao là biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân Thể thao là biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, sắp xếp thời gian nghỉ ngơi một cách khoa học, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tinh thần của người dân. Ở Việt Nam hiện nay cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tăng mạnh của ý thức cạnh tranh, yêu cầu qua trình lao động sản xuất và làm việc của con người phải đi theo hướng tự động hóa, điện tử hóa, tin tức hóa cao độ, khiến cho thời gian lao động và làm việc giảm đi rất nhiều. Như vậy, thời gian rảnh rỗi của con người cũng tăng lên [17]. Theo những thống kê, tư liệu có liên quan, số ngày nghỉ lễ ở các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới không ngừng tăng lên cùng với sự phát triển kinh tế. Ví dụ như: trong 1 năm, Mĩ có 132 ngày nghỉ lễ, Anh có 136 ngày nghỉ lễ, Pháp có 144 ngày nghỉ lễ, Nhật có 166 ngày nghỉ lễ. Từ tháng 3 năm 1994, chính phủ nước ta đã ban hành chế độ thời gian làm việc mới, mỗi tuần công nhân viên có 44 giờ làm việc. Tháng 5 năm 1995, nước ta thực hiện chế độ 40 giờ làm việc 1 tuần, công nhân viên được nghỉ 2 ngày cuối tuần, từ đó đã tăng thêm thời gian nghỉ ngơi của mọi người. Việc sắp xếp thời gian nghỉ ngơi thuộc về cá nhân và các phương thức nghỉ ngơi cũng rất đa dạng, cùng với sự tiến bộ của xã hội loài người và sự nâng cao trình độ văn minh cuộc sống, con người ngày càng nâng cao đến việc quan tâm sức khỏe cho bản thân. Các nước trên thế giới ngày càng đem những hoạt động rèn luyện thân thể có ích trở thành nội dung không thể thiếu của việc sắp xếp thời gian nghỉ ngơi một cách khoa học. Điều đó đã chứng minh một cách đầy đủ, thể thao là biện pháp cần thiết để nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống của nhân dân, sắp xếp thời gian nghỉ ngơi một cách khoa học, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tinh thần của người dân, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của phương thức sống lành mạnh, văn minh, khoa học của người dân [21], [29], [45]. 33 1.7.3. Thể thao là biện pháp hữu hiệu để nâng cao tố chất của người dân, phòng ngừa và chữa trị “căn bệnh của xã hội văn minh” và kéo dài tuổi thọ Cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học kĩ thuật, sức sản xuất xã hội và sự tăng trưởng kinh tế, mức sống của nhân dân ngày càng cao. Tác dụng của thể thao trong việc nâng cao tố chất của người dân, phòng ngừa và chữa trị “căn bệnh của xã hội văn minh” và kéo dài tuổi thọ ngày càng nổi bật. Do quá trình sản xuất và công tác, tùy thuộc vào sự phát triển của cách mạng khoa học kĩ thuật mới, nhịp điệu sống của người dân ngày càng đi theo hướng cường độ cao, hiệu suất cao, tiết tấu nhanh. Điều này yêu cầu chu kì đổi mới tri thức của con người ngày càng nhanh hơn và ngắn hơn, không chỉ có khai thác tinh thần và sức sáng tạo, mà còn yêu cầu một cơ thể mạnh khỏe và tinh lực dồi dào. Thể thao là một khoa học, có liên quan đến cơ thể người và việc bồi dưỡng phát triển bảo vệ, duy trì, khai thác, nghiên cứu tác dụng nâng cao tố chất của con người trong xã hội hiện đại trở nên đặc biệt quan trọng. Đồng thời, xã hội hiện đại cũng mang đến ảnh hưởng ở một phương diện khác cho đời sống của nhân dân. Đó là giúp con người được giải phóng khỏi lao động thể lực và công tác nặng nhọc mang lại hạnh phúc cho mọi người, Tuy nhiên, do lao động thể lực ngày càng giảm, lao động trí óc ngày càng tăng, dẫn đến sự thiếu hụt về vận động thể lực khiến cho cơ thể con người ngày càng suy nhược. Thêm vào đó là sự nâng cao mức sống, hàm lượng mỡ và protein động vật hấp thu vào cơ thể người quá cao khiến cho tỉ lệ mắc những căn bệnh của xã hội văn minh cũng tăng lên như: bệnh động mạch vành, tiểu đường, cao huyết áp, béo phì,… đều có kiên quan tới việc lười vận động. Vì thế, phát triển hoạt động thể thao, tăng cường thể chất của con người đã trở thành một biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa và chữa trị những căn bệnh của xã hội văn minh, kéo dài tuổi thọ của các nước trên thế giới [73]. 34 1.8. Khái quát về truyền hình, truyền hình thể thao và thể dục thể thao quần chúng Thành phố Đà Nẵng 1.8.1. Khái quát về truyền hình và truyền hình thể thao hiện nay Truyền hình Việt Nam sau một chặng đường phát triển tuy không dài những đã đóng một phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Là kênh thông tin tuyên truyền đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước, truyền hình đã truyền tải nhanh chóng, chính xác, kịp thời những quyết sách quan trọng, mang tính chiến lược tới mọi vùng miền của Tổ quốc. Những thông tin về tình hình kinh tế, chính trị, ngoại giao, các hoạt động kinh tế quốc tế trong và ngoài nước được cập nhật liên tục và truyền tải kịp thời. Truyền hình đã góp phần thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, quảng bá hình ảnh, những lợi thế của từng địa phương, mỗi vùng miền và cả quốc gia ra bên ngoài thế giới. Đồng thời, truyền hình cũng tạo ra những cơ hội cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, giao lưu văn hoá và là kênh cung cấp các hoạt động giải trí,... Tháng 9/2014, Trung tâm Sản xuất các chương trình thể thao của Đài truyền hình Việt Nam được chuyển thành Ban Sản xuất các chương trình thể thao, các chương trình đã được Ban đầu tư nghiêm túc không chỉ duy trì 07 bản tin lên sóng hàng ngày đúng quy trình, đảm bảo về hình ảnh và chất lượng nội dung cho các kênh sóng của Đài, Ban còn thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền cho các sự kiện lớn của Thể dục thể thao nước nhà. Trong thời gian qua Đài Truyền hình Việt Nam tiếp tục mua bản quyền của những chương trình thể thao lớn trong khu vực và trên thế giới. Trong năm 2015 Ban được trang bị nhiều trang thiết bị đồng bộ trên cả nước tạo điều kiện cho Ban Sản xuất chương trình truyền hình thực hiện tường thuật các giải thể thao với hình ảnh có chất lượng tốt hơn, nâng cao chất lượng toàn diện cho các chương trình Thể thao VTV cũng như nâng cao rating cho các chương trình đặc biệt là các chương trình định kỳ hàng ngày. Toàn bộ các chương trình thể thao phát sóng trên các kênh VTV đều 35 do Ban sản xuất các chương trình thể thao thực hiện. Đối với các Đài địa phương ngoài việc sử dụng các chương trình, bản tin thể thao do Ban Sản xuất chương trình truyền hình cung cấp, còn xây dựng các chương trình riêng phù hợp với đặc điểm của địa phương và các giải thi đấu được tổ chức tại địa phương. Trong thời đại kỷ nguyên số, sự phát triển của internet đã đặt các nhà đài vào cuộc chiến giành giật khán giả. Đây cũng là một yêu cầu bức thiết cần phải giải quyết để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của truyền hình. Các nhà đài đã sử dụng công nghệ tiên tiến phối hợp với các đơn vị cung cấp dịch vụ viễn thông trong việc sản xuất các chương trình thể thao, tăng khả năng tương tác giữa truyền hình và khán giả xem đài, điều này vừa là cách thu hút khán giả đến với chương trình truyền hình vừa là nguồn thu không nhỏ của nhà đài. Theo báo cáo của Đài truyền hình Việt Nam, tổng số tin nhắn tương tác với các chương trình Thể thao từ ngày 1/1/2015 đến ngày 31/10/2015 lên tới 1.614.865 tin nhắn (tương đương gần 5 tỷ đồng). Kỷ lục về số lượt tương tác là trận giao hữu giữa đội tuyển Việt Nam và CLB Manchester City với 197.843 tin nhắn (tương đương gần 600 triệu đồng) [88]. Truyền hình tương tác, truyền hình hướng tới giới trẻ, phát triển truyền hình trên các thiết bị thông minh là những xu hướng đặt ra trong quá trình phát triển ngành truyền hình trong môi trường truyền thông mới - kỷ nguyên internet. Bên cạnh đó, xu hướng phát triển thiết kế màn hình di động ngày càng rộng, kết nối truyền thông qua mạng điện thoại sẽ phát triển không ngừng nên con đường để truyền hình tồn tại là thiết kế nội dung chương trình phù hợp với việc chạy ứng dụng trên các thiết bị di động. Ngoài ra, đối với một Đài Truyền hình, "vũ khí" để có thể cạnh tranh với Internet, với mạng xã hội chính là việc phát triển thêm nội dung chương trình có tính sáng tạo, thay đổi, làm mới những nội dung cũ. Thay vì đăng tải các chương trình đã phát sóng lên internet, nhà Đài/đơn vị sản xuất chương trình truyền hình có thể tạo hiệu ứng, thu thập ý kiến khán giả ở 36 chính kênh fanpage của chương trình. Sức hút của môn thể thao vua chưa bao giờ hạ nhiệt đối với khán giả truyền hình, tạo ra hiệu ứng xã hội mạnh mẽ. Sức hút khán giả của các trận bóng đá phát sóng trên truyền hình tại Việt Nam có sự dịch chuyển thay đổi, lượng khán giả đến với các trận bóng V-League và giải hạng nhất quốc gia đã đạt tỉ lệ khán giả cao hơn nhiều lần so với các giải đấu nước ngoài. Số lượng trận đấu trong khuôn khổ giải hạng nhất được truyền hình trực tiếp là chưa nhiều song đều là những trận cầu đinh của mỗi vòng đấu. Điều này tương tự với giải vô địch quốc gia V League. VTV6 đang trực tiếp phát sóng hai giải đấu này đã đạt được thành công nhất định về mặt thu hút khán giả, tỉ lệ khán giả bình quân của những trận cầu được phát sóng trực tiếp trên kênh là 0.96% [84]. Khi bóng đá là một phần không thể thiếu của bức tranh văn hoá, nó đã không còn đơn thuần là một môn thể thao. Từ lâu bóng đá đã trở thành một công cụ thể hiện lòng yêu nước, một hình thức thể hiện phong cách sống, hay một phương tiện diễn đạt và bùng nổ cảm xúc. U19 Việt Nam những năm đầu tiên mang đã trở thành một hiện tượng. Một hiện tượng đặc biệt vượt ra khỏi giá trị bóng đá đơn thuần. Chưa bao giờ một đội bóng trẻ tạo ra hiệu ứng xã hội lớn như vậy. Hiệu ứng của đội tuyển quốc gia tại Tiger cup 1998 (Thế hệ vàng bóng đá Việt Nam lần đầu tiên thắng Thái Lan 3-0 tại sân Hàng Đẫy) hay AFF Suzuki Cup 2008 (Việt Nam lần đầu tiên vô địch Đông Nam Á) cũng chưa thu hút được sự yêu thương lớn của người hâm mộ như vậy. Thành tích ấn tượng của U23 Việt Nam tại giải Vô địch Bóng đá châu Á 2018 đã tạo nên một cơn địa chấn không chỉ ở nước nhà mà còn lan nhanh khắp châu Á. Lần đầu tiên một đội tuyển tưởng chừng như “gạch lót đường” cho những tên tuổi tầm cỡ châu lục xưng vương lại có thể tiến thẳng vào vòng chung kết. Có lẽ đã lâu lắm rồi kể từ 10 năm trước khi chiếc cúp AFF Suzuki thuộc về chúng ta, cả đất nước mới thực sự hoà chung một nhịp. Nhà nhà người người đều đắm chìm vào bóng đá, hình ảnh cầu thủ, video bàn thắng ngập tràn muôn 37 nơi, sẽ thật lạc lõng cho những thương hiệu nào đăng tải nội dung không liên quan đến bóng đá. Sau giải đấu các loại áo, giày thi đấu của các cầu thủ được người hâm mộ săn lùng, tìm kiếm và mua sắm. Các nhà đài dự báo rating của các chương trình truyền hình có liên quan đến bóng đã sẽ thu hút một lượng rất lớn khán giả [84]. Sự ảnh hưởng của các vận động viên thể thao nổi tiếng đối với công chúng là rất lớn. Chính vì hâm một thành tích thi đấu của các vận động viên này cũng như môn thể thao mà họ tham gia, người hâm mộ không ngần ngại bỏ thời gian, tiền bạc để được chứng kiến trận thi đấu mà có thần tượng của mình tham gia và sẵn sàng tập môn thể thao đó với mong muốn được gần với mẫu hình lý tưởng mà mình đang hướng đến. Điều này cũng lý giải vì sao mà các chương trình thể thao phát sóng trên truyền hình luôn thu hút một lượng rất lớn khán giả và gần như họ không có nhu cầu chuyển kênh ngay cả khi nhà đài chèn nhiều “cut” quảng cáo. Năm 2016 một sự kiện thể thao đã lọt vào top 5 We choice Awards với giải thưởng “ Sự kiện có ảnh hưởng đến giới trẻ nhất” đó là Giải bóng rổ chuyên nghiệp đầu tiên tại Việt Nam được tổ chức với sự tham dự của 5 đội tuyển. Chiếc cúp vô địch năm 2016 đã ở lại Đà nẵng với thành công của đội Đà nẵng Dragon. Với 48 trận đấu trong đó có 42 trận đấu được tường thuật trực tiếp trên các kênh sóng truyền hình, VBA 2016 là cú hích quan trọng cho sự phát triển dài hạn, đưa bóng rổ trở thành môn thể thao số hai tại Việt Nam (sau bóng đá). Qua đó đẩy mạnh phong trào tập luyện bóng rổ ở mọi tầng lớp, đặc biệt là đối tượng thanh thiếu niên, góp phần tăng cường sức khỏe và nâng cao thể trạng người Việt, đặc biệt là ở Thành phố Đà Nẵng [78]. Quảng cáo thương mại là hoạt động nhằm giới thiệu hàng hóa, dịch vụ thông qua sản phẩm bởi phương tiện quảng cáo. Quảng cáo thương mại được thực hiện không phải để trực tiếp tiêu thụ hàng hóa dịch vụ mà chỉ đóng vai trò thúc đẩy nhóm hành vi mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại được 38 thực hiện thường xuyên liên tục [72]. Khi những vận động viên thi đấu, họ chẳng khác gì một ngôi sao, một người nổi tiếng đang toả sáng. Chính vì thế, sự góp mặt của các nhân vật đặc biệt này như là đại sứ quảng bá cho thương hiệu, chứng tỏ sự đồng hành của nhãn hàng với các sự kiện thể thao. Người tiêu dùng với cách hâm mộ riêng của mình có thể săn lùng các sản phẩm thể thao như các vận động viên nổi tiếng sử dụng. Không thể phủ nhận rằng việc tài trợ các hoạt động thể thao phần nào sẽ giúp các doanh nghiệp quảng bá thương hiệu đến người tiêu dùng. Do đó trong chiến lược marketing của mình, nhiều công ty luôn mong muốn làm sao có thể gắn kết hoạt động sản xuất kinh doanh với thể thao khi tham gia các tài trợ. Thậm chí nhiều doanh nghiệp sẵn sàng bỏ ra một số tiền lớn để lập hẳn một đội bóng mang tên công ty mình. Khi đội bóng có tên tuổi sẽ góp phần đưa thương hiệu của doanh nghiệp lên cùng, hoặc chỉ cần nhắc đến tên doanh nghiệp hay sản phẩm là có thể biết ngay đội bóng hoặc môn thể thao được nhà sản xuất tài trợ. Gần đây cũng không ít nhà sản xuất bỏ tiền tài trợ riêng các vận động viên (VĐV) từ trang phục đến chi phí đi lại, ăn ở khi ra nước ngoài thi đấu. Cụ thể như tay vợt cầu lông Nguyễn Tiến Minh. Anh từng được một nhà sản xuất trang phục thể thao Nhật Bản tài trợ trên 1 tỷ đồng/năm. Công ty cổ phần Động Lực là nhà cung cấp trang phục cho đoàn thể thao Việt Nam mang thương thiệu mitre do Động lực sản xuất và phân phối với tổng giá trị Hợp đồng tài trợ đã ký giữa Công ty Cổ phần Động Lực với Ủy ban Olympic Việt Nam trong thời gian 02 năm (2015 - 2016) có giá trị ước tính 5,5 tỷ đồng cho các Đại hội thể thao: SEA Games 28, ASEAN Para Games 8, Thế vận hội Olympic mùa hè 31, Đại hội Thể thao người khuyết tật Paralympic Rio 2016, Đại hội Thể thao Bãi biển Châu Á lần thứ 5… Năm 2017, Công ty CP Động Lực tiếp tục được Ủy ban Olympic Quốc gia chọn là đơn vị cung cấp các trang phục thể thao cho Đoàn TTVN tham dự các kỳ Đại hội Thể thao quốc tế từ năm 2017 đến năm 2019 với các loại 39 trang phục: bộ suvec, áo phông tập luyện, di chuyển, giầy thể thao và ba lô với tổng trị giá trên 3 tỉ đồng. Sự đồng hành của các doanh nghiệp bên cạnh sự quan tâm đến thể thao còn tạo nên hiệu ứng dây chuyền tác động đến khán giả truyền hình khi sản phẩm của doanh nghiệp được vận động viên sử dụng, xuất hiện nhiều lần trên các kênh truyền hình trực tiếp hoặc các bản tin thời sự. Đây là một cách ngắn nhất để đưa thương hiệu đến với người tiêu dùng [86]. 1.8.2. Khái quát về thể dục thể thao quần chúng Thành phố Đà Nẵng Sau 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 01/12/2011 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục, thể thao đến năm 2020, đã tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương về vai trò của thể dục, thể thao trong sự nghiệp đào tạo và phát huy nhân tố con người; công tác thể dục, thể thao là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh. Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp đối với sự nghiệp phát triển thể dục, thể thao chuyển biến toàn diện và thường xuyên hơn, giải quyết kịp thời những vấn đề đặt ra từ thực tiễn; đầu tư ngân sách cho công tác này được nâng lên, tạo không khí mới thu hút đông đảo nhân dân tự nguyện tham gia vào các hoạt động thể dục thể thao; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xã hội hoá các hoạt động thể dục thể thao [3], [8],[56]. Phong trào thể dục, thể thao quần chúng đã phát triển sâu rộng đến mọi đối tượng, địa bàn với nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Thông qua việc tổ chức các hoạt động thể dục thể thao quần chúng đội ngũ cán bộ thể dục thể thao ở cơ sở đã được bổ sung, ổn định và trình độ từng bước được nâng cao phục vụ sự nghiệp phát triển phong trào thể dục thể thao trên địa bàn thành phố. Chủ trương xã hội hóa được triển khai ngày càng rộng rãi đến tận cơ sở, đã được xã hội và nhân dân ủng hộ. Qua quá trình thực hiện các cấp ủy Đảng, chính quyền các địa phương, ban, ngành, đoàn thể nhận thức được xã hội hoá các hoạt động 40 thể dục thể thao là một biện pháp cần thiết, hiệu quả để duy trì và phát triển rộng rãi phong trào thể dục thể thao quần chúng. Vì vậy, những năm gần đây, phong trào thể dục, thể thao quần chúng của thành phố đã đạt được nhiều kết quả [45], [75],[77]. Phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” giai đoạn 2012 - 2020 tiếp tục được mở rộng, thu hút sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân, góp phần nâng cao sức khỏe, xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh ở cơ sở. Hoạt động thể dục thể thao của người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được quan tâm hơn; các trò chơi dân gian và một số môn thể thao dân tộc được duy trì, phát triển trong hệ thống trường học và trên địa bàn thành phố. Hoạt động thể dục thể thao trong lực lượng vũ trang, công chức, viên chức có bước chuyển biến tích cực, các cấp, ngành đã huy động các nguồn lực xã hội để tổ chức các giải thi đấu có quy mô rộng, chất lượng hơn. Năm 2016 số người tập luyện thể dục thể thao thường xuyên 31,5% dân số, 22,6 % số hộ gia đình tập luyện thể dục thể thao thường xuyên, cả thành phố hiện có trên 574 CLB thể dục, thể thao đơn môn và đa môn, 100% số trường học duy trì thường xuyên hoạt động thể dục, thể thao ngoại khóa [77]. Xây dựng cơ sở vật chất cho thể dục, thể thao quần chúng cũng được thành phố quan tâm, Trung tâm Văn hóa - Thể thao các quận, huyện đã được quan tâm đầu tư xây dựng tương đối hoàn thiện, điển hình như: Ngũ Hành Sơn, Cẩm Lệ, Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Hòa Vang có nhà tập luyện thể dục, thể thao đa năng, sân quần vợt, sân bóng đá, đường chạy điền kinh…Ngoài ra, các cơ sở thể dục thể thao ngoài công lập cũng hình thành và phát triển khá mạnh so với thời gian trước đây, hàng loạt các sân quần vợt, cầu lông, các sân bóng đá cỏ nhân tạo, các CLB bóng bàn, võ thuật…được xây dựng khá bài bản như Làng Thể thao Tuyên Sơn, Câu lạc bộ Thể thao Phan Chu Trinh, các sân bóng đá nhân tạo hầu như quận huyện nào cũng có. Những cơ sở này hằng ngày thu hút hàng ngàn người đến tập luyện, trong đó, thành phần thanh, thiếu niên 41 chiếm tỷ lệ rất cao, góp phần vào việc hạn chế các tệ nạn xã hội và nâng cao đời sống tinh thần, sức khỏe cho nhân dân. Đặc biệt, ở tuyến quận huyện, phường xã các hoạt động thể quần dục, thể thao chúng được tổ chức gắn với các ngày lễ lớn của địa phương, ngày kỷ niệm trọng đại của đất nước, thu hút tất cả các đối tượng là thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên, công nhân, công chức, viên chức, nông dân, lực lượng vũ trang, người cao tuổi và quần chúng nhân dân tham gia, tạo không khí vui tươi, phấn khởi, hăng say trong công tác, học tập và lao động. Phong trào thể dục thể thao quần chúng phát triển đã tạo điều kiện cho các quận, huyện phát hiện và tuyển chọn được những tài năng thể thao tiêu biểu để bồi dưỡng, tham gia thi đấu các giải của thành phố và quốc gia. Tiêu biểu như Hoàng Quý Phước, Nguyễn Thị Thanh Phúc, Trần Lê Quốc Toàn…là những tài năng thể thao được phát hiện và bồi dưỡng từ phong trào thể dục, thể thao quần chúng ở cơ sở. Để thực hiện có hiệu quả 6 nhiệm vụ của Nghị quyết số 08-NQ/TW trong thời gian tới, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, làm cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nhận thức rõ về lợi ích của thể dục, thể thao. Hỗ trợ, động viên, tạo điều kiện hơn nữa cho các tổ chức, cá nhân tham gia vào sự nghiệp phát triển thể dục, thể thao. Xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích doanh nghiệp, cá nhân tham gia đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp vào các hoạt động đào tạo vận động viên tại các câu lạc bộ tư nhân ở một số môn thể thao có điều kiện như: Quần vợt, Bóng bàn, Cầu lông, Bida, Thể dục thể hình. Quan tâm công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ để hướng dẫn quần chúng luyện tập thể dục thể thao nâng cao sức khỏe và nâng cao hiệu quả đào tạo tài năng thể thao. Tạo cơ chế và các điều kiện thuận lợi để tư nhân và nhà đầu tư nước ngoài mạnh dạn bỏ vốn đầu tư xây dựng các cơ sở kinh doanh dịch vụ thể thao như cơ sở tập luyện, các trường năng khiếu thể thao. Khuyến khích các doanh nghiệp du lịch đầu tư cơ sở vật chất cho các môn thể thao giải trí trên biển như môtô nước, lướt ván, dù lượn, đua thuyền 42 buồm, lặn biển…[77]. 1.9. Các công trình nghiên cứu liên quan Vấn đề xác định nhu cầu và tiêu dùng TDTT đã được nhiều tác giả ngoài nước quan tâm nghiên cứu như: Claudia Mast (2015) [9]; Chertrichonu (2004) [13]; Cudonhetxop. GV (2004) [14]; E.P Prokhorop (2004) [30]; Eriasvili, N.D (2004) [31]; V.V Vorokhop (2015) [73]; Wiliam M.Luther (2016), [76] … Song chưa có nhà khoa học nước ngoài nào nghiên cứu về nhu cầu và tiêu dùng TDTT khu dân cư đô thị ở Việt Nam. Nhiều tác giả trong nước đã tiến hành nghiên cứu về xã hội học và xã hội học TDTT [17], [36], [48]; Đơn cử, trong cuốn sách "Xã hội học TDTT" , các tác giả đã giới thiệu về TDTT khu dân cư, song vấn đề nhu cầu và tiêu dùng TDTT cũng chưa được đề cập; mới chỉ dừng lại với những giải pháp quản lý có liên quan đến hệ thống cơ sở vật chất, tài chính... Đặc biệt chưa đi sâu xác định nhu cầu, tiêu dùng TDTT giải trí, mối quan hệ giữa TDTT trường học với TDTT khu dân cư, ảnh hưởng của nhu cầu, tiêu dùng TDTT tác động đến sự hoạch định phát triển hệ thống cơ sở vật chất, hướng dẫn viên. Đặc biệt khi đặt các mối quan hệ đó dưới tác động của quá trình đô thị hoá, quá trình phát triển nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN để phục vụ quá trình quản lý TDTT [17]. Trong cuốn sách “Kinh tế học TDTT”, các tác giả đã giới thiệu sơ bộ về thị trường TDTT, nhu cầu, tiêu dùng TDTT, song chưa đi sâu nghiên cứu về nhu cầu, tiêu dùng TDTT trong khu dân cư đô thị [18]. Trong cuốn sách “Tài sản TDTT - kinh doanh và quản trị”, các tác giả đã giới thiệu về phương pháp luận, lý luận cơ bản trong kinh doanh tài sản TDTT theo cơ chế thị trường định hướng XHCN [59]. Tổng hợp và phân tích một số đề tài nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài nghiên cứu cho thấy: Bùi Chí Trung (2011), Nghiên cứu xu hướng phát triển của truyền hình từ 43 góc độ kinh tế học truyền thông; Đã phân tích, tìm hiểu chúng minh những luận điểm: Kinh tế truyền thông nói chung, cũng như kinh tế truyền hình nói riêng chưa được nhận diện, thấu hiểu và chưa phát huy hết tiềm năng và vai trò của nó trong sự phát triển báo chí truyền thông nước ta; Lĩnh vực truyền hình thế giới đang vận động thay đổi mạnh mẽ, sang một không gian mới-không gian số hoá hoàn toàn khác biệt về kỹ thuật lẫn nội dung. Tuy nhiên chính những người làm truyền hình, hệ thống quản lý truyền hình, khán giả truyền hình Việt Nam, ít nhiều chưa hình dung và nắm bắt; Mô hình thiết kế hệ thống truyền hình nói riêng, cũng như hệ thống báo chí truyền thông Việt Nam đang dần bộc lộ những bất cập, không tương thích với sự phát triển của thời đại…[63]; Đặng Quốc Nam (2006), "Nghiên cứu các giải pháp xã hội hóa nhằm khai thác tiềm năng để phát triển TDTT quần chúng ở Thành phố Đà Nẵng". Đề tài của tác giả có ý nghĩa nhất định về việc triển khai quan điểm trong Nghị quyết 05/2005/NQ-CP của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giao dục, y tế, văn hoá và TDTT trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng. Trong phần luận án, tác giả đã công bố những thực trạng của TDTT cũng như phong trào phát triển TDTT ở Đà Nẵng; cách phỏng vấn cũng như cách lấy tư liệu để làm rõ những thực trạng này đã có tác dụng tốt đối với công tác quản lý. Việc làm rõ về thực trạng TDTT ở Đà Nẵng có thể coi là tài liệu tham khảo trong công tác quản lý TDTT chung của nước ta. Vì vậy, vấn đề phát triển phong trào TDTT khu dân cư thị xã Từ Sơn thì các giải pháp của tác giả lựa chọn và đưa ra ứng dụng trong Đà Nẵng cũng có thể ứng dụng cho một số tỉnh thành nói chung và khu dân cư thị xã Từ Sơn nói riêng. Tuy nhiên, các giải pháp cần thiết phải được bổ sung và hoàn chỉnh thêm, đặc biệt là chú trọng nhóm giải pháp về kinh tế mà đề tài đề cập đến [45]; Lê Tấn Đạt (2011), Nghiên cứu sự phát triển TDTT giải trí ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên để xây dựng môn học chuyên ngành TDTT giải trí của Trường Đại học TDTT Đà Nẵng. Chỉ ra, nhu cầu tập luyện thể dục thể thao là 44 động lực phát triển thể dục thể thao giải trí ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Nhu cầu này rất phong phú, đa dạng gồm 31 môn thuộc 6 nhóm môn mô phỏng các môn thể thao Olympic để giải trí. Số người tập luyện đa số ở lứa tuổi 30 trở xuống và đa số là nam giới. Số người tập ở khu vực thành phố nhiều hơn ở khu vực các tỉnh duyên hải và Tây Nguyên. Trong khi nhu cầu tập luyện thể dục thể thao giải trí của nhân dân rất lớn thì nguồn nhân lực công tác trong ngành dọc thể dục thể thao lại rất ít, chỉ có 1029 người ở các tỉnh thành miền Trung và Tây Nguyên. Trong số cán bộ quản lý Nhà nước về thể dục thể thao ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên chưa có người được đào tạo chuyên ngành thể dục thể thao giải trí. Kết quả giảng dạy thí điểm môn chuyên ngành thể dục thể thao giải trí trong hai năm học đầu của Trường đại học thể dục thể thao Đà Nẵng được đánh giá tốt [29]. Ngô Trang Hưng (2013), nghiên cứu "Xác định tài sản TDTT ở một số tỉnh thành phía bắc để phục vụ quản lý TDTT ở nước ta". Từ xác định cơ sở lý luận và thực tiễn về tài sản TDTT, tác giả đã chỉ ra được mối liên hệ phụ thuộc, quan hệ cung cầu giữa công trình TDTT và dịch vụ TDTT. Giả thiết để thiết lập phương trình hành vi cho mối liên hệ này là: Công suất công trình TDTT (người) = Dịch vụ TDTT (người) Từ giả thiết, tác giả đã lượng hoá được 10 phương pháp tính toán và phiếu khảo sát công trình TDTT. Các phương pháp tính toán gắn liền với công cụ và lý thuyết kinh tế, khoa học quản lý, khoa học TDTT để phục vụ quy hoạch phát triển TDTT và chuyển đổi cơ sở thể thao sang cơ chế cung ứng dịch vụ. Việc ứng dụng phiếu khảo sát công trình TDTT và 10 phương pháp tính toán mà tác giả lựa chọn đều chưa được ứng dụng trong quản lý TDTT quần chúng ở nước ta. Những cơ sở lý luận và các phương pháp tính toán là cơ sở ban đầu để xây dựng mô hình toán kinh tế, nhằm cân bằng giữa nguồn lực công trình TDTT (đầu vào) và dịch vụ TDTT (đầu ra). Việc phát triển mô hình quản lý kinh tế công trình TDTT, để tiếp cận vấn đề quản lý TDTT trong nền kinh tế thị trường định 45 hướng XHCN. Các tính toán trong đề tài dựa trên sự dẫn giải số liệu từ hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Tuy nhiên, trong đề tài chỉ nêu nên các điểm khái quát để ứng dụng tính toán, song chưa tính toán cụ thể cho một khu dân cư nhất định, đặc biệt là thị ...
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.