Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Nghiên cứu sự biến đổi chức năng tâm sinh lý và thể lực của nam vận động viên Pencak Silat đội tuyển quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn trong chu kỳ huấn luyện năm

doc
Số trang Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Nghiên cứu sự biến đổi chức năng tâm sinh lý và thể lực của nam vận động viên Pencak Silat đội tuyển quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn trong chu kỳ huấn luyện năm 164 Cỡ tệp Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Nghiên cứu sự biến đổi chức năng tâm sinh lý và thể lực của nam vận động viên Pencak Silat đội tuyển quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn trong chu kỳ huấn luyện năm 1 MB Lượt tải Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Nghiên cứu sự biến đổi chức năng tâm sinh lý và thể lực của nam vận động viên Pencak Silat đội tuyển quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn trong chu kỳ huấn luyện năm 2 Lượt đọc Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Nghiên cứu sự biến đổi chức năng tâm sinh lý và thể lực của nam vận động viên Pencak Silat đội tuyển quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn trong chu kỳ huấn luyện năm 2
Đánh giá Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Nghiên cứu sự biến đổi chức năng tâm sinh lý và thể lực của nam vận động viên Pencak Silat đội tuyển quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn trong chu kỳ huấn luyện năm
4.3 ( 6 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN KHOA HỌC THỂ DỤC THỂ THAO NGUYỄN NGỌC ANH NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI CHỨC NĂNG TÂM SINH LÝ VÀ THỂ LỰC CỦA NAM VẬN ĐỘNG VIÊN PENCAK SILAT ĐỘI TUYỂN QUỐC GIA DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG BÀI TẬP SỨC BỀN CHUYÊN MÔN TRONG CHU KỲ HUẤN LUYỆN NĂM LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC HÀ NỘI - 2016 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN KHOA HỌC THỂ DỤC THỂ THAO 2 NGUYỄN NGỌC ANH NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI CHỨC NĂNG TÂM SINH LÝ VÀ THỂ LỰC CỦA NAM VẬN ĐỘNG VIÊN PENCAK SILAT ĐỘI TUYỂN QUỐC GIA DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG BÀI TẬP SỨC BỀN CHUYÊN MÔN TRONG CHU KỲ HUẤN LUYỆN NĂM Chuyên ngành: Huấn luyện thể thao Mã số: 62.14.01.04 LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 1. GS.TS NGUYỄN DANH THÁI 2. GS.TS LÊ QUÝ PHƯỢNG HÀ NỘI - 2016 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào Tác giả luận án Nguyễn Ngọc Anh DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN 4 HLV Huấn luyện viên HLTT Huấn luyện thể thao LVĐ Lượng vận động SB Sức bền SBC Sức bền chung SBCM Sức bền chuyên môn TCTL Tố chất thể lực TĐ Thi đấu TT Thể thao TDTT Thể dục thể thao VĐV Vận động viên DANH MỤC ĐƠN VỊ ĐO LƯỜNG TRONG LUẬN ÁN 5 cm kg m s sl V VE HR max VO2/HR ∂ X W% VO2max (ml/min/kg) VO2max (ml/min) BLA max centimet kilogam Met Giây Số lần Vận tốc chỉ số thông khí phổi thở ra trong 1 phút Nhịp tim tối đa Chỉ số oxy – mạch Độ lệch chuẩn Số trung bình cộng mức tăng trưởng VO2max tương đối VO2max tuyệt đối Hàm lượng acid lactic tối đa trong máu DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN ÁN Bảng 2.1 3.1 3.2 3.3 3.4 3.5 3.6 Nội dung Đánh giá trạng thái VĐV Kết quả phỏng vấn lựa chọn các chỉ số kiểm tra hình thái và chức năng tâm, sinh lý, thể lực của cơ thể nam VĐV Pencak Silat Quốc gia (n = 50) Các chỉ số về hình thái của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia lứa ở giai đoạn I (n=13) Kết quả phân loại sức khỏe của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia (n=13). Các chỉ số tim mạch trong quá trình thực hiện bài tập chuyên môn ở giai đoạn I (n=13) Các chỉ số chuyển hóa năng lượng trong quá trình thực hiện bài tập chuyên môn ở giai đoạn I (n=13) Các chỉ số hô hấp trong quá trình thực hiện bài tập chuyên môn ở giai đoạn I (n=13) Trang 56 60 62 63 64 65 66 6 3.7 3.8 3.9 3.10 3.11 3.12 3.13 3.14 3.15 3.16 3.17 3.18 3.19 3.20 3.21 3.22 3.23 3.24 3.25 3.26 3.27 3.28 3.29 3.30 Các chỉ số huyết học của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia giai đoạn I (n=13) Các chỉ số tâm lý giai đoạn I của nam Vận động viên Pencak Silat Quốc Gia (n=13) Các chỉ số thể lực trong quá trình thực hiện bài tập chuyên môn ở giai đoạn I (n=13) Kết quả phỏng vấn lựa chọn test đánh giá sức bền chuyên môn cho nam VĐV đội tuyển Pencak Silat Quốc gia (n=50) Tính thông báo và độ tin cậy của các test lựa chọn với thành tích thi đấu của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia Kết quả phỏng vấn lựa chọn các bài tập sức bền chuyên môn đặc trưng trong môn Pencak Silat (n=50) Kết quả phỏng vấn mức độ ưu tiên của các bài tập sức bền chuyên môn cho nam VĐV pencak Silat đội tuyển Quốc gia (n=50) Kết quả phỏng vấn tỷ lệ sắp xếp nội dung huấn luyện sức bền chuyên môn cho nam VĐV Pencak Silat Quốc gia (n=30) Giáo án mẫu bài tập sức bền chuyên môn giai đoạn I của nam VĐV đội tuyển Pencak Silat Quốc gia Giáo án mẫu bài tập sức bền chuyên môn giai đoạn II của nam VĐV đội tuyển Pencak Silat Quốc gia Giáo án mẫu bài tập sức bền chuyên môn giai đoạn III của nam VĐV đội tuyển Pencak Silat Quốc gia Phân bổ khối lượng theo thời gian Các chỉ số tim mạch trong quá trình thực hiện bài tập chuyên môn ở giai đoạn II (n=13) Các chỉ số chuyển hóa năng lượng trong quá trình thực hiện bài tập chuyên môn ở giai đoạn II (n=13) Các chỉ số hô hấp trong quá trình thực hiện bài tập chuyên môn ở giai đoạn II (n=13) Các chỉ số huyết học của nam VĐV Pencak Silat đội tuyển Quốc gia giai đoạn II (n=13) Các chỉ số tâm lý giai đoạn II của nam VĐV đội tuyển Pencak Silat Quốc gia (n=13) Các chỉ số thể lực trong quá trình thực hiện bài tập sức bền chuyên môn ở giai đoạn II (n=13) Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng tim mạch của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn từ giai đoạn I đến giai đoạn II. Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng hô hấp của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn từ giai đoạn I đến giai đoạn II. Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng chuyển hóa năng lượng của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn từ giai đoạn I đến giai đoạn II. Diễn biến phát triển các chỉ số huyết học của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn từ giai đoạn I đến giai đoạn II Diễn biến tâm lý của VĐV Pencak Silat đội tuyển Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn giai đoạn I đến giai đoạn II Diễn biễn các chỉ số thể lực của nam VĐV Pencak Silat đội tuyển Quốc giai đoạn I và giai đoạn II 67 67 68 82 84 S 86 S 87 S 89 90 91 92 96 102 103 103 104 104 104 S 105 S 105 S 105 S 105 106 107 7 3.31 3.32 3.33 3.34 3.35 3.36 3.37 3.38 3.39 3.40 3.41 3.42 3.43 3.44 3.45 3.46 3.47 3.48 3.49 3.50 Sơ đồ 1.1 Các chỉ số về hình thái của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia ở giai đoạn III (n=13). Các chỉ số tim mạch trong quá trình thực hiện bài tập sức bền chuyên môn ở giai đoạn III (n=13) Các chỉ số hô hấp trong quá trình thực hiện bài tập ở giai đoạn III (n=13) Kết quả kiểm tra các chỉ số về chuyển hóa năng lượng trong quá trình thực hiện các bài tập chuyên môn ở giai đoạn III (n=13) Các chỉ số về huyết học của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn ở giai đoạn III (n= 13). Các chỉ số tâm lý giai đoạn III của nam VĐV đội tuyểnPencak Silat Quốc gia (n=13) Kết quả kiểm tra các chỉ số thể lực trong quá trình thực hiện các bài tập chuyên môn ở giai đoạn III (n=13) Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng tim mạch của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn từ giai đoạn II đến giai đoạn III. Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng hô hấp của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn từ giai đoạn II đến giai đoạn III. Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng chuyển hóa năng lượng của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn từ giai đoạn II đến giai đoạn III. Diễn biến các chỉ số huyết học của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia lứa dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn từ giai đoạn II đến giai đoạn III. Diễn biến tâm lý của nam VĐV Pencak Silat đội tuyển Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập SBCM giai đoạn II và giai đoạn III. Diễn biến các chỉ số thể lực của nam VĐV Pencak Silat đội tuyển Quốc gia giai đoạn II và giai đoạn III Diễn biến các chỉ số về hình thái của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia giai đoạn I và giai đoạn III (n=13). Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng tim mạch của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn từ giai đoạn I đến giai đoạn III. Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng hô hấp của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn từ giai đoạn I đến giai đoạn III. Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng chuyển hóa năng lượng của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn từ giai đoạn I đến giai đoạn III. Diễn biến phát triển các chỉ số huyết học của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn từ giai đoạn I đến giai đoạn III. Diễn biến tâm lý của nam VĐV Pencak Silat đội tuyển Quốc gia dưới tác đông của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn giai đoạn I và giai đoạn III Diễn biến các chỉ số thể lực của nam VĐV Pencak Silat đội tuyển Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn giai đoạn I và giai đoạn III Tóm tắt đặc tính và tư tưởng của Pencak Silat. 108 S 109 S 109 S 109 110 110 110 S 111 S 111 S 111 S 111 S 111 S 111 S 113 S 113 S 113 S 113 S 113 S 113 S 113 11 8 1.2 Hệ thống tấn pháp của Pencak Silat Biểu đồ 3.1 Lượng vận động trong chu kỳ huấn luyện tuần và tháng 3.2 Diễn biến phát triển các chỉ số huyết học của nam VĐV Pencak Silat đội tuyển quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn từ giai đoạn I đến giai đoạn II 3.3 Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng tim mạch của nam VĐV Pencak Silat đội tuyển quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn TAY từ giai đoạn I đến giai đoạn II 3.4 Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng tim mạch của nam VĐV Pencak Silat đội tuyển quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn CHÂN từ giai đoạn I đến giai đoạn II 3.5 Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng tim mạch của nam VĐV Pencak Silat đội tuyển quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn HỖN HỢP từ giai đoạn I đến giai đoạn II 3.6 Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng tim mạch của nam VĐV Pencak Silat đội tuyển quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập GẮNG SỨC TỐI ĐA từ giai đoạn I đến giai đoạn II 3.7 Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng hô hấp của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn TAY từ giai đoạn I đến giai đoạn II 3.8 Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng hô hấp của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn CHÂN từ giai đoạn I đến giai đoạn II 3.9 Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng hô hấp của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn HỖN HỢP từ giai đoạn I đến giai đoạn II 3.10 Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng hô hấp của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn GẮNG SỨC TỐI ĐA từ giai đoạn I đến giai đoạn II 3.11 Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng chuyển hóa năng lượng của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn TAY từ giai đoạn I đến giai đoạn II 3.12 Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng chuyển hóa năng lượngcủa nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn CHÂN từ giai đoạn I đến giai đoạn II 3.13 Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng chuyển hóa năng lượng của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn HỖN HỢP từ giai đoạn I đến giai đoạn II 3.14 Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng chuyển hóa năng lượngcủa nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn GẮNG SỨC TỐI ĐA từ giai đoạn I đến giai đoạn II 3.15 Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng tim mạch của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn TAY từ giai đoạn II đến giai đoạn III 3.16 Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng tim mạch của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn CHÂN từ giai đoạn II đến giai đoạn III 3.17 Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng tim mạch của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn HỖN HỢP từ 12 97 S 105 S 105 S 105 S 105 S 105 S 105 S 105 S 105 S 105 S 105 S 105 S 105 S 105 S 111 S 111 S 111 9 3.18 3.19 3.20 3.21 3.22 3.23 3.24 3.25 3.26 3.27 3.28 3.29 3.30 3.31 3.32 3.33 giai đoạn II đến giai đoạn III Diễn biến phát triển các chức năng tim mạch của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn GẮNG SỨC TỐI ĐA từ giai đoạn IIđến giai đoạn III Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng hô hấp của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn TAY từ giai đoạn II đến giai đoạn III Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng hô hấp của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn CHÂN từ giai đoạn II đến giai đoạn III Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng hô hấp của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn HỖN HỢP từ giai đoạn II đến giai đoạn III Diễn biến phát triển các chức năng hô hấp của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn GẮNG SỨC TỐI ĐA từ giai đoạn IIđến giai đoạn III Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng chuyển hóa năng lượng của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn TAY từ giai đoạn II đến giai đoạn III Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng chuyển hóa năng lượng của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn CHÂN từ giai đoạn II đến giai đoạn III Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng chuyển hóa năng lượng của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn HỖN HỢP từ giai đoạn II đến giai đoạn III Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng chuyển hóa năng lượng của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn GẮNG SỨC TỐI ĐA từ giai đoạn II đến giai đoạn III Diễn biến các chỉ số huyết học của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia lứa dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn từ giai đoạn II đến giai đoạn III. Diễn biến các chỉ số thể lực của nam VĐV Pencak Silat đội tuyển Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn TAY từ giai đoạn II đến giai đoạn III Diễn biến các chỉ số thể lực của nam VĐV Pencak Silat đội tuyển Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn CHÂN từ giai đoạn II đến giai đoạn III Diễn biến các chỉ số thể lực của nam VĐV Pencak Silat đội tuyển Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập chuyên môn HỖN HỢP từ giai đoạn II đến giai đoạn III Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng tim mạch của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn TAY từ giai đoạn I đến giai đoạn III. Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng tim mạch của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn CHÂN từ giai đoạn I đến giai đoạn III. Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng tim mạch của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn HỖN HỢP từ giai đoạn I đến giai đoạn III. S 111 S 111 S 111 S 111 S 111 S 111 S 111 S 111 S 111 S 111 S 111 S 111 S 110 S 113 S 113 S 113 10 3.34 3.35 3.36 3.37 3.38 3.39 3.40 3.41 3.42 3.43 3.44 3.45 3.46 3.47 Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng tim mạch của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập GẮNG SỨC TỐI ĐA từ giai đoạn I đến giai đoạn III. Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng hô hấp của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn TAY từ giai đoạn I đến giai đoạn III. Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng hô hấp của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn CHÂN từ giai đoạn I đến giai đoạn III. Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng hô hấp của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn HỖN HỢP từ giai đoạn I đến giai đoạn III. Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng hô hấp của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập GẮNG SỨC TỐI ĐA từ giai đoạn I đến giai đoạn III. Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng chuyển hóa năng lượng của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn TAY từ giai đoạn I đến giai đoạn III. Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng chuyển hóa năng lượng của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn CHÂN từ giai đoạn I đến giai đoạn III. Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng chuyển hóa năng lượng của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn HỖN HỢP từ giai đoạn I đến giai đoạn III. Diễn biến phát triển các chỉ số chức năng chuyển hóa năng lượng của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập GẮNG SỨC TỐI ĐA từ giai đoạn I đến giai đoạn III Diễn biến phát triển các chỉ số huyết học của nam VĐV Pencak Silat Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn từ giai đoạn I đến giai đoạn III. Diễn biến tâm lý của VĐV Pencak Silat đội tuyển Quốc gia dưới tác đông của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn giai đoạn I và giai đoạn III Diễn biến các chỉ số thể lực của nam VĐV Pencak Silat đội tuyển Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn TAY từ giai đoạn I đến giai đoạn III. Diễn biến các chỉ số thể lực của nam VĐV Pencak Silat đội tuyển Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn CHÂN từ giai đoạn I đến giai đoạn III Diễn biến các chỉ số thể lực của nam VĐV Pencak Silat đội tuyển Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn HỖN HỢP từ giai đoạn I đến giai đoạn III S 113 S 113 S 113 S 113 S 113 S 113 S 113 S 113 S 113 S 113 S 113 S 113 S 113 S 113 11 12 PHẦN MỞ ĐẦU Thể dục thể thao (TDTT) là một hoạt động gắn liền với đời sống của con người, trải qua hàng ngàn năm lịch sử cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nền văn minh nhân loại TDTT đã không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và trình độ, trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ, văn minh của xã hội loài người. Đặc biệt TDTT còn được coi là sứ giả của hòa bình, mang trong mình một sứ mệnh cao đẹp đó là nối vòng tay bằng hữu, thắt chặt tình đoàn kết giữa các quốc gia, các dân tộc trên thế giới [2], [4]. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc thượng võ, lịch sử TDTT gắn liền với truyền thống hơn 4000 năm dựng nước và đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Ngày nay dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, dưới ánh sáng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh nền TDTT nước ta đang có những bước tiến vững chắc vì sự nghiệp nâng cao sức khỏe cho nhân dân, vì thành tích thể thao đỉnh cao. Và Pencak Silat là một trong những môn thể thao mũi nhọn trong chiến lược phát triển thể thao thành tích cao của nền thể thao nước nhà. Pencak Silat là một môn võ thuật cổ xưa ra đời ở vùng quần đảo Nam Dương (Indonesia, Malaysia, Singapore) và có bề dày lịch sử hàng trăm năm môn võ này lúc đầu chỉ được dùng để biểu diễn trong các lễ hội, cầu khấn thần linh trải qua năm tháng nó đã trở thành môn võ được đưa vào thi đấu chính thức tại các kỳ Đại hội TDTT trong khu vực và quốc tế. Ngay từ những ngày đầu mới du nhập vào Việt Nam (năm 1989 sau Seagames 15 tại Malaysia), môn võ này đã thu hút mạnh mẽ lực lượng thanh thiếu niên tham gia tập luyện. Trong những năm gần đây, trên các võ đài quốc tế và khu vực các VĐV Pencak Silat đã giành được những chiến thắng vẻ vang đem lại vinh quang cho nền thể thao nước nhà. Cho đến nay Pencak Silat Việt Nam đã có nhiều nhà vô địch thế giới, vô địch Seagames như: Nguyễn Thị Hồng Hải, Trịnh Thị Mùi, Nguyễn Văn Hùng, Đặng Thị Thúy, Huỳnh Thị Thu Hồng…., góp phần nâng cao thành tích chung của đoàn thể thao Việt Nam. Được sự quan tâm và đầu tư đúng hướng của Đảng, Nhà nước và ngành TDTT môn Pencak Silat đang ngày 13 một phát triển để tiến tới giành được những thứ hạng cao hơn tại các giải thi đấu trong khu vực, quốc tế và trên thế giới. Tuy nhiên TDTT, đặc biệt là thể thao thành tích cao là một lĩnh vực luôn phát triển không ngừng. Điều này đòi hỏi những chuyên gia, huấn luyện viên (HLV) phải không ngừng học tập và nghiên cứu nâng cao trình độ trong công tác chuyên môn nhằm đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của thể thao thành tích cao. Để nâng cao được thành tích thể thao cần phải tuân theo những quy luật sinh học và quy luật giáo dục thể chất (GDTC) trong quá trình huấn luyện thể thao (HLTT), mọi sự tác động của bài tập lên cơ thể vận động viên (VĐV) đều dẫn đến những biến đổi về mặt hình thái, chức năng, chuyển hóa năng lượng [6], [[9]. Đã có rất nhiều chuyên gia, HLV và các sinh viên Pencak Silat đã nghiên cứu về vấn đề này như: Trần Kim Tuyến (2003; 2009), Nguyễn Hồng Hải (2009), Nguyễn Xuân Hải (2010), Mai Thế Lâm (2009), Lê Thị Hường (2012). Tuy nhiên chưa tác giả nào đề cập đến mức độ biến đổi hình thái, chức năng tâm, sinh lý trong mối tương quan giữa cường độ và khối lượng vận động của từng bài tập sức bền chuyên môn của nam vận động vên (VĐV) Pencak Silat. Đối với tất cả các môn thể thao nói chung và môn Pencak Silat nói riêng việc giải quyết được vấn đề trên có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao thành tích cho các VĐV. Xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn, nhận thấy sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu, chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu sự biến đổi hình thái, chức năng tâm, sinh lý và thể lực của nam vận động viên Pencak Silat đội tuyển Quốc gia dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn trong chu kỳ huấn luyện năm". Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu tổng hợp những cơ sở lý luận, những cơ sở y sinh học và qua quan sát thực tiễn đề tài được thực hiện với mục đích lựa chọn, hệ thống hóa và sắp xếp hợp lý các bài tập phát triển sức bền chuyên môn cho nam VĐV đội tuyển Pencak Silat Quốc gia, sao cho đem lại sự biến đổi tốt nhất đối với cơ thể VĐV để đạt được thành tích cao nhất trong thi đấu. 14 Mục tiêu nghiên cứu: Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng các chỉ số về hình thái, chức năng tâm, sinh lý và thể lực của nam VĐV đội tuyển Pencak Silat Quốc gia Mục tiêu 2: Nghiên cứu xác định hệ thống bài tập phát triển sức bền chuyên môn cho nam VĐV Pencak Silat đội tuyển quốc gia trong chu kỳ huấn luyện năm. Mục tiêu 3: Đánh giá sự biến đổi về hình thái, chức năng tâm, sinh lý và thể lực dưới tác động của hệ thống bài tập sức bền chuyên môn trong chu kỳ huấn luyện năm của nam VĐV Pencak Silat đội tuyển quôc gia. Giả thuyết khoa học: Trình độ tập luyện của VĐV vừa ảnh hưởng tới thành tích thi đấu. Nó bao gồm các nhân tố nội sinh và một số nhân tố ngoại sinh. Các nhân tố nội sinh là hình thái cơ thể, chức năng sinh lý, phẩm chất tâm lý, tố chất thể lực, trình độ kỹ chiến thuật. Từ lý luận và thực tiễn đào tạo VĐV Pencak silat cho thấy, trình độ tập luyện của VĐV Quốc gia môn Pencak Silat trong những năm gần đây có nhiều khiếm khuyết, dẫn tới thành tích thi đấu bị hạn chế. Vấn đề này do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân cơ bản là sức bền chuyên môn yếu. Nếu lựa chọn được các bài tập chuyên môn phù hợp và ưu tiên sắp xếp phát triển sức bền chuyên môn cho nam VĐV Pencak Silat một cách hợp lý và khoa học, chắc chắn sẽ ảnh hưởng tốt tới hình thái, chức năng tâm, sinh lý và thể lực của VĐV, vì vậy thành tích thi đấu sẽ khả quan hơn. 15 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Đặc điểm môn Pencak Silat. 1.1.1. Tính thực dụng của môn võ Pencak Silat. Các đặc tính của môn Pencak Silat bao gồm: Tính dân tộc, tính chiến đấu, tính Nghệ thuật và tính thể thao. Kết hợp bốn đặc tính của Pencak Silat là các hình thức tinh thần võ đạo, tự vệ chiến đấu, biểu diễn nghệ thuật võ và thi đấu thể thao đã tạo nên cơ sở cho việc hình thành phát triển Pencak Silat thành bốn nội dung, mỗi nội dung có tính chất và mục tiêu riêng đó là: Tinh thần võ đạo Pencak Silat, tự vệ và chiến đấu Pencak Silat, biểu diễn nghệ thuật võ Pencak Silat và thi đấu thể thao Pencak Silat. [15], [39]. Như vậy, trên cơ sở các hình thức và đặc tính cấu thành nội dung môn Pencak Silat, môn võ này đã được chia thành bốn nội dung nhỏ, mỗi nội dung này có mục tiêu riêng và căn cứ vào mục tiêu đó mà mỗi nội dung sẽ đi sâu vào hình thức cụ thể nhưng vẫn có sự kết hợp liên quan đến các hình thức còn lại. Như đã đề cập, nội dung thực chất của Pencak Silat chính là những đòn thế, kỹ thuật tự vệ chiến đấu dưới dạng hình ảnh tư duy và dưới dạng động tác hoạt động của cơ thể, bao gồm các tổ hợp đòn thế kỹ thuật được thực hiện một cách chủ động, có kiểm soát (có nghĩa là mang tinh thần võ đạo trong đó), có hiệu quả chiến thuật đẹp mắt, có tác dụng phát triển thể chất con người và mỗi tổ hợp bao giờ cũng có các tiêu chí thống nhất như sau: Tăng cường khả năng tự chủ và phát triển sức mạnh lý trí của người võ sĩ; Phát triển khả năng tự vệ trước sự tấn công của người khác; Thể hiện nét đẹp và sự hoà hợp trong các động tác; Phát triển kỹ năng thân thể và thể chất con người. Các kỹ thuật và tổ hợp đòn trong nội dung tự vệ chiến đấu là Pencak Silat nguyên bản và tương đối hoàn chỉnh, là khởi thuỷ cho các nội dung khác của Pencak Silat có nghĩa là: các kỹ thuật và tổ hợp trong các nội dung khác của 16 Pencak Silat là các kỹ thuật và tổ hợp được phát sinh và biến đổi từ các kỹ thuật và các tổ hợp của nội dung tự vệ chiến đấu. Tập Pencak Silat là hình thức rèn luyện thân thể và thi đấu, với mục tiêu là phát triển sức khoẻ và thi đấu thể thao, trong đó bao hàm bốn hình thức: Tinh thần võ đạo, tự vệ, nghệ thuật và thể thao [6], [16]; Thi đấu Pencak Silat là một lĩnh vực có thể tập trung phát triển mở rộng, về phương diện kỹ thuật thực chất là Pencak Silat tự vệ chiến đấu được tổ chức theo luật thi đấu thể thao. Do đó, các kỹ thuật thi đấu Pencak Silat ngoài tác dụng rèn luyện thân thể còn có tác dụng tự vệ chiến đấu, biểu diễn nghệ thuật võ và rèn luyện sự tự chủ, kiểm soát bản thân [15], [39]. Pencak Silat có thể là một môn võ với các động tác được rút ra và biến đổi từ các kỹ thuật, tổ hợp kỹ thuật, Pencak Silat cũng có thể chia làm hai cấp độ đó là Pencak Silat vận động nhẹ dùng để rèn luyện thân thể và phát triển sức khoẻ cho tất cả các lứa tuổi và Pencak Silat vận động nặng dành cho các vận động viên thành tích cao. Pencak Silat thi đấu thể thao sử dụng sức mạnh, tốc độ, sự khéo léo, kỹ thuật phòng thủ, tấn công, bộ pháp để chiến thắng đối phương và gần gũi với nội dung tự vệ chiến đấu. Pencak Silat là môn thể thao, là một môn giáo dục thể chất rèn luyện sức khoẻ con người, là môn thể thao phù hợp với quần chúng, loại hình tập luyện đơn giản, tiện lợi, bổ ích và dễ đầu tư. 1.1.2. Đặc điểm thi đấu môn Pencak Silat. Pencak Silat là sản phẩm văn hoá, các loại tổ hợp đòn, kỹ thuật được thể hiện đa dạng tuỳ vào bản sắc văn hoá riêng của mỗi Dân tộc. Một phong cách thể hiện tổ hợp đòn, kỹ thuật nhất định có các đặc điểm riêng khác biệt hẳn so với các phong cách khác thì được gọi là một trường phái võ Pencak Silat [15], [39]. Việc hình thành nên nhiều trường phái (phong cách) riêng xuất phát từ những lý do sau: 17 Điều kiện địa lý và tự nhiên của từng vùng, Ví dụ: ở những vùng núi, địa hình gồ ghề mấp mô, vùng đồng bằng địa hình bằng phẳng… nên việc sử dụng các kỹ thuật chiến đấu, các tổ hợp đòn cũng phải khác nhau. Những loài động vật được quan sát để sáng tạo ra kỹ thuật có rất nhiều loại: Hổ, Báo, Rắn, Sư tử, Chim ưng, Khỉ… do vậy các kỹ thuật, tổ hợp đòn sáng tạo ra cũng rất khác nhau. Cách thức chọn cự ly trong chiến đấu khác nhau tuỳ theo cấu tạo cơ thể khác nhau của con người, Ví dụ: Chiến đấu tầm xa, tầm trung, tầm gần. Tính chất tự vệ chiến đấu khác nhau, tự vệ chủ động hay tự vệ bị động. Nhưng tất cả các trường phái đều phải hội tụ bốn đặc tính của Pencak Silat: Tính võ đạo, Tính tự vệ chiến đấu, Tính nghệ thuật và tính thể thao thượng võ. Kỹ thuật Pencak Silat có thể thu nhận những kỹ thuật của Karatedo, Taekwondo, Jujitsu và các môn võ thuật khác để ngày càng trở lên phong phú, đa dạng và đặc sắc hơn. Điều thiết yếu để có thể hợp các kỹ thuật của các môn võ khác vào Pencak Silat là phải đảm bảo được các quy chuẩn kỹ thuật của Pencak Silat. Mặc dù kỹ thuật chiến đấu khác nhau nhưng trong lĩnh vực tinh thần võ đạo và tư tưởng triết lý xuyên suốt thì không được khác. Nhờ vậy, Pencak Silat phát huy được tính đa dạng, phong phú nhưng không mất đi những đặc tính truyền thống của mình [15], [39]. Do đặc điểm của môn Pencak Silat nên hiện nay các quốc gia trên thế giới có môn Pencak Silat thì việc thể hiện các kỹ thuật thi đấu cũng như tổ hợp đòn rất đa dạng và phong phú, ngay ở vùng Đông Nam Á là cái nôi của Pencak Silat, các quốc gia dựa trên quy chuẩn của Pencak Silat và bên cạnh đó cũng đã tận dụng hết những tinh hoa võ thuật của mình để đưa vào tập luyện và thi đấu Pencak Silat và làm cho môn này ngày càng đa dạng và hấp dẫn hơn. Thông qua các giải thi đấu quốc tế cho thấy rõ rệt nhất có 2 phong cách thi đấu ở vùng Đông Nam Á đó là lối đánh va chạm và lối đánh kỹ thuật. Phong cách thứ nhất là lối đánh va chạm theo kiểu võ tự do, các Quốc gia đánh theo phong cách này là Thái Lan, Lào, Myanma, các tổ hợp đòn và kỹ 18 thuật mang tính chất thực dụng ít hoa mỹ, khả năng va chạm và lối đánh áp đảo, dùng sức. Phong cách thứ hai là lối đánh kỹ thuật được các Quốc gia là Inđônêsia, Malaisia, Singapo, Philippin, Brunei sử dụng và tổ hợp đòn được sử dụng khéo léo, phối hợp đòn linh hoạt và đa dạng. Quy chuẩn thi đấu Pencak Silat. Trong thi đấu Pencak Silat các kỹ thuật của Pencak Silat còn được gọi là quy định kỹ thuật của thi đấu hay quy định kỹ thuật trận đấu. Đây là những quy định cơ bản về thi đấu đối kháng Pencak Silat được áp dụng trong các trận đấu và được chia thành 4 nhóm quy tắc như sau: Tuân thủ luật thi đấu Pencak Silat. Bắt đầu bằng cách lập thế và di chuyển theo các bộ pháp, thế tấn của Pencak Silat. Ra đòn tấn công, phòng thủ, đánh ngã. Trở về vị trí lập tấn ban đầu và bắt đầu di chuyển. Tuân thủ luật thi đấu Pencak Silat: Bất kỳ trận đấu đối kháng nào cũng phải tuân thủ luật thi đấu Pencak Silat. Bắt đầu thi đấu: Trận đấu bắt đầu bằng cách lập thế và di chuyển theo các bộ pháp, thế tấn của Pencak Silat. Thế lập tấn là tư thế đầu tiên trước khi di chuyển tiếp cận hay tránh né để tấn công hay phòng thủ, tư thế lập tấn là sự tổng hợp của các phần sau: Thế tấn: Có 8 thế tấn đó là: Tấn trọng tâm trước (Tấn trước), Tấn trọng tâm trước xoay người (Tấn xoay), Tấn trọng tâm trước chéo (Tấn chéo), Tấn trung bình ngang (Tấn ngang), Tấn trọng tâm sau (Tấn sau), Tấn trung bình bên (Tấn bên), Tấn trọng tâm trước mở (Tấn mở) và Tấn co chân. Hướng thân người: Đối diện, đổi bên xoay người. Thế tay thủ: Những tư thế lập thế bị cấm là: Tư thế lập tấn không có tay thủ (hai tay buông thõng). Thế tấn không thuộc 8 thế tấn quy định nói trên. 19 Tư thế và phong cách không phải của Pencak Silat. Di chuyển tiếp cận hay tránh né: Được thực hiện theo các bộ pháp, thế tấn đồ hình di chuyển của Pencak Silat. Các bộ pháp, thế đồ hình di chuyển phải đảm bảo đúng yêu cầu kỹ thuật, đẹp mắt. Thế tấn di chuyển chuẩn xác: là 8 thế tấn nói trên. Bộ pháp di chuyển chuẩn xác: bao gồm các bước di chuyển : Bước thường, bước nhấc chân, bước di chân và bước dích chân. Đồ hình di chuyển: Đường thẳng, Chữ U, Chữ nhật, Tam giác, Ziczắc, Chữ S, Chữ X. Các cách di chuyển bị cấm là: Bước chạy, nhảy liên tục tại chỗ, nhảy vọt về trước hoặc về sau. Ra đòn tấn công, phòng thủ, đánh ngã đối phương Đòn phòng thủ: Kỹ thuật phòng thủ là những kỹ thuật căn bản dùng để chống trả lại đòn tấn công của đối phương. Đòn phòng thủ bao gồm các đòn gạt đỡ, tránh né, lách đòn, hoá giải. Đòn gạt đỡ: Là các kỹ thuật dùng cánh tay, bàn tay để cản đòn tấn công hay thay đổi hướng đòn tấn công của đối phương. Đòn tránh né: Là các kỹ thuật tránh khỏi hướng tấn công của đối phương bằng cách thay đổi thế tấn, vị trí và di chuyển bằng các bộ pháp. Đòn lách: Là các kỹ thuật tránh đòn tấn công của đối phương bằng cách đảm bảo thân người nhưng không thay đổi thế tấn hay vị trí. Đòn hoá giải: Là các kỹ thuật làm cho đòn tấn công của đối phương bị vô dụng bằng cách sử dụng các kỹ thuật tấn công hay các kỹ thuật đặc biệt khác. Đòn tấn công: kỹ thuật tấn công là những kỹ thuật căn bản dùng để đánh trúng đối phương hoặc làm cho đối phương không còn khả năng duy trì tấn công hay hạn chế sự tấn công của đối phương. Đòn tấn công bao gồm các đòn tay, đòn chân, đòn cắt kéo, đòn quét trước, quét sau. Đòn tấn công bằng tay hợp lệ: Là những đòn đánh thẳng và phải trúng giáp bảo vệ (đích tấn công hợp lệ). 20 Các đòn cấm là những đòn đánh vào những vùng cấm, những đòn đánh móc từ dưới lên. Đòn tấn công bằng chân hợp lệ: Đá trước, đá vòng cầu, đá ngang, đá sau. Đòn đánh ngã là các kỹ thuật cao cấp dùng để làm cho đối phương bị ngã và không thể tấn công lại được. Kỹ thuật đánh ngã bao gồm các kỹ thuật sau: cài móc, tỳ hông, bốc, quét, móc đẩy,cài đẩy, cắt kéo. Những đòn đánh ngã không được công nhận là: Sau khi thực hiện đòn đánh ngã chưa thoát ly, vẫn để đối phương tóm giữ tay, thân người, vai và cổ. Thời gian thực hiện đòn đãnh ngã quá 3 giây. Sau khi thực hiện đòn đánh ngã bị ngã theo đối phương. Trở về vị trí lập tấn ban đầu và bắt đầu di chuyển: Sau khi thực hiện các đòn tấn công, phòng thủ, võ sĩ thi đấu lại thoát ly khỏi tầm đòn, lập tấn, di chuyển và chuẩn bị đợt tấn công phòng thủ mới. Quy định kỹ thuật trong thi đấu Pencak Silat Pencak Silat có thể sử dụng nhiều kỹ thuật và các thế tấn khác nhau. Mỗi tổ hợp các kỹ thuật, các thế tấn được ghép lại với nhau theo một ý tưởng, mục đích riêng tạo thành một tổ hợp đòn và Pencak Silat là tổng thể một hệ thống kỹ thuật tự vệ chiến đấu bao gồm nhiều tổ hợp đòn, mỗi một tổ hợp đòn là độc lập nhưng lại gắn bó, kết hợp liên quan chặt chẽ đến nhau. Hệ thống các kỹ thuật cấu thành của Pencak Silat bao gồm bốn phần, đó là: Hệ thống tấn pháp, hệ thống bộ pháp di chuyển, hệ thống các kỹ thuật tấn công và hệ thống các kỹ thuật phòng thủ. Hệ thống tấn pháp: là hệ thống các tư thế đứng thủ ban đầu trước khi thực hiện các kỹ thuật phòng thủ, tấn công. Về mặt kỹ thuật, hệ thống tấn pháp là sự phối kết hợp của 3 phần: Các thế tấn, hướng thân người và thế tay thủ. Hệ thống các bộ pháp di chuyển: là hệ thống các kỹ thuật di chuyển để thay đổi vị trí, thay đổi tấn pháp nhằm mục đích tiếp cận đối phương, ra đòn tấn công phòng thủ hay tránh né đòn tấn công của đối phương. Về mặt kỹ thuật hệ 21 thống này bao gồm các bước chân di chuyển, các vị trí thân người và các thế tay kết hợp khi di chuyển. Hệ thống các kỹ thuật tấn công: là hệ thống các kỹ thuật dùng để đánh trúng đối phương hoặc làm cho đối phương không còn khả năng duy trì tấn công hay hạn chế sự tấn công của đối phương. Các kỹ thuật tấn công có thể sử dụng đấm, đá, đánh ngã… Mỗi loại lại có nhiều đòn thế khác nhau. Hệ thống các kỹ thuật phòng thủ: là hệ thống kỹ thuật dùng để chống trả lại đòn tấn công của đối phương. Căn cứ vào tính chất phòng thủ, người ta chia hệ thống này ra làm hai hệ thống nhỏ đó là: Hệ thống phòng thủ bị động và hệ thống kỹ thuật phòng thủ chủ động. Nếu căn cứ vào các kỹ thuật, hệ thống này được chia thành các kỹ thuật gạt đỡ, tránh né, lách đòn, hoá giải. Hệ thống tấn pháp và hệ thống bộ pháp được gọi là các kỹ thuật chiến đấu gián tiếp của Pencak Silat, còn hệ thống kỹ thuật tấn công và phòng thủ thì được gọi là kỹ thuật chiến đấu trực tiếp của Pencak Silat. Thi đấu Pencak Silat chính là sự vận dụng các kỹ thuật tấn pháp, bộ pháp, tấn công và phòng thủ một cách có hiệu quả, thực tế, liên hoàn và mang tính chiến thuật, việc thực hành có thể dưới dạng tự do hay dưới dạng các tổ hợp đòn và dựa trên các quy chuẩn của thi đấu Pencak Silat [15], [39]. 22 NỀN VĂN HOÁ MANG TÍNH CỘNG ĐỒNG TIÊU CHUẨN VỀ CON NGƯỜI CÓ TÍNH CÁCH VÀ TÂM HỒN CAO THƯỢNG 4 ĐẶC TÍNH CỦA PENCAK SILAT CÁC ĐỨC TÍNH CỦA VÕ SĨ SILAT - TÍNH CÁCH CAO TÍNH TÍNH TÍNH TÍNH DÂN CHIẾN NGHỆ THỂ TỘC ĐẤU THUẬT THAO THƯỢNG - SẴN SÀNG CỐNG HIẾN CHO XÃ HỘI - YÊU HOÀ BÌNH - CÓ KỶ LUẬT 4 NỘI DUNG CỦA PENCAK SILAT - TUÂN THỦ SỰ LÃNH ĐẠO TỰ VỆ NGHỆ CHIẾN THUẬT ĐẤU THỂ THAO SỨC MẠNH TINH THẦN XÃ HỘI CÓ TRẬT TỰ, ỔN ĐỊNH, HOÀ BÌNH VÀ THỊNH VƯỢNG Sơ đồ 1.1: Tóm tắt đặc tính và tư tưởng của Pencak Silat. 23 TẤN PHÁP MỤC ĐÍCH TẤN CÔNG MỤC ĐÍCH PHÒNG THỦ THẾ TẤN CHIẾN THUẬT THẾ TẤN MỞ CÁC THẾ TẤN THẾ TẤN ĐÓNG THẾ TẤN CAO VỊ TRÍ TẤN THẾ TẤN TRUNG 8 THẾ TẤN Sơ đồ 1.2: Hệ thống tấn pháp của Pencak Silat THẾ TẤN THẤP 24 1.1.3. Xu thế phát triên môn Pencak silat 1.1.3.1. Sự phát triển của Pencak silat ở nước ngoài Tại Malaysia: Các dân tộc MaLai là những nhóm người sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp và mối quan hệ xã hội được hình thành theo hệ thống cộng đồng. Đặc tính này đã định hình nên người dân MaLai một hệ tư tưởng và lối sống cộng đồng dựa trên việc đảm bảo và giữ gìn các giá trị. Nguyên tắc cộng đồng cũng như đề cao những tiêu chuẩn đạo đức và nhân văn cao cả. Để thích ứng với các vấn đề của xã hội, việc tập luyện và sử dụng KIAT - LAGA cũng chủ yếu được thực hiện nhằm mục đích tự vệ và tên gọi của nó cũng được đổi thành KIAT BEDIRI ( kỹ thuật tự vệ). Cùng với quá trình phát triển của lịch sử, các kỹ thuật tay không, binh khí của KIAT - BEDIRI đã được sáng tạo, phát triển và hoàn thiện để sử dụng trong quân đội, phục vụ cho chiến tranh và một phần trong đó đã được phát triển thành võ môn thuật biểu diễn và thi đấu thể thao. Trong quá trình phát triển của xã hội người dân MaLai cũng đã tiếp thu và kết hợp hài hòa giữa tinh hoa của các nền văn hóa khác và các nguyên tắc vốn có của xã hội bản địa. Tư tưởng triết lý của đạo hồi, đạo phật, đạo Hinđu đã được tiếp nhận, đưa vào hệ tư tưởng lối sống của cộng đồng và tất nhiên điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới KIAT - BEDIRI. Dưới ách cai trị của thực dân Tây Âu, việc truyền bá tập luyện Pencaksilat đã bị nghiêm cấm chặt chẽ vì Pencaksilat được coi là biểu trưng của tinh thần quật cường dân tộc và là vũ khí đấu tranh chống ách xâm lược. Nhưng bất chấp mọi nguy hiểm người dân MaLai vẫn âm thầm tập luyện, truyền bá và Pencaksilat vẫn tiếp tục phát triển. Đến đại chiến thế giới lần thứ 2, dân tộc MaLai phải chịu sự thống trị của phát xít Nhật, nhưng chính quyền đô hộ lại cho phép tự do phát triển văn hóa dân tộc. Chính trong thời điểm này việc tập luyện và truyền bá Pencaksilat đã được mở ra một giai đoạn mới. Sau khi MaLai thoát khỏi ách cai trị của nước ngoài và hình thành nên các quốc gia độc lập, Pencaksilat đã được thể hiện và phát triển nhanh chóng rộng 25 rãi, đặc biệt là khi các liên đoàn Pencaksilat (Persilat) được thành lập đã tạo ra một thời kỳ phát triển mới. Thời kỳ mà Pencaksilat bắt đầu được phổ biến rộng rãi ra thế giới và trở thành môn thể thao thi đấu chính thức trong khu vực Đông Nam Á. Tại Indonesia: Vào thời kỳ sơ khai trên quần đảo Indonesia, Malaysia (một trong những cái nôi của nền văn hóa lúa nước ) cuộc sống của người dân nơi đây luôn gắn liền với các lễ hội tôn giáo và những phong tục mang đậm tính thần bí. Trong lễ hội các chiến binh đã biểu diễn các điệu múa được đúc rút từ các động tác chiến đấu trong thực tiễn và đây chính là các viên gạch đặt nền móng đầu tiên đánh dấu sự ra đời của môn võ Pencaksilat. Tuy có lịch sử hình thành và phát triển từ rất lâu nhưng Pencaksilat chỉ được biết đến và được chính thức phổ biến vào những năm đầu của thế kỷ XV. Trong thời kỳ này các giai đoạn lịch sử tiếp theo, môn võ Pencaksilat đã từng bước được phát triển mạnh mẽ và trở thành môn Quốc võ của Indonesia . Từ thế kỷ XVII trở đi Indonesia là thuộc địa của Hà Lan và Pencaksilat đã bị cấm tập luyện và truyền dậy dưới mọi hình thức, nhưng người dân ở đây vẫn tập luyện, truyền bá môn Quốc võ này và Pencaksilat đã được tính bất diệt của nó. Vào tháng 9 năm 1945, sau khi Indonesia giành được độc lập, cùng với quốc đạo Islam, Pencaksilat một lần nữa trở thành Quốc võ và được phát triển mạnh mẽ, rộng khắp ở Indonesia. Cùng với sự phát triển của lịch sử, Pencaksilat cũng đã được phát triển rất nhiều hệ phái chính như Setihati, Tapaksici, Nusantara, Setihati – Teraha, Maunghjai, Prisaidiri, Panglipur, Ace, Merpatputil. Trong 10 hệ phải kể trên, hệ phái lớn nhất là Tapaksici. Tuy mỗi hệ phái đều có hệ thống kỹ thuật chiến thuật và các loại binh khí đặc thù nhưng xuyên suốt tất cả vẫn là “tinh thần võ đạo” của môn võ thuật này. Trông giống như những điệu múa cổ, nhưng thật ra Pencaksilat lại là một nghệ thuật tự vệ đặc sắc. Ngày nay, khi được phổ biến ở miền Bắc Sumata, Pencaksilat đã trở thành một nội dung rất quan trọng trong việc giáo dục nhân 26 cách cho thanh, thiếu niên. Môn võ này đã được truyền dạy trong các lớp học buổi chiều ở vùng ngoại ô, làng mạc và được coi như là một môn nghệ thuật đặc sắc. Các võ sinh được rèn luyện và trau dồi những chiêu thế tuyệt hảo nhằm tránh né và đánh bại đối thủ có dao hoặc gươm. Pencaksilat được sử dụng với hai hình thức chủ yếu là biểu diễn ( Pencaksilat Pulat) và thi đấu (Pencaksilat Buach). Với hình thức biểu diễn (Pencaksilat Pulat) chủ yếu được sử dụng trong các lễ hội hoặc lễ cưới. Còn hình thức thi đấu (Pencaksilat Buach) thì chỉ được sử dụng trong các cuộc thi đấu, tranh tài. Chỉ cần xem qua các chiêu thế khởi đầu là người ta đã có thể phân biệt ngay được hình thức thể hiện của môn võ này. Trong bất cứ trường hợp nào thì những động tác thể hiện của môn sinh Pencaksilat cũng đều hoạt bát toát lên sức mạnh tinh thần và lời cầu nguyện của chính bản thân họ để họ mong muốn có được một sức mạnh siêu phàm. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nền văn minh nhân loại, môn võ Pencaksilat cũng ngày được truyền bá rộng khắp và hiệp hội Pencaksilat Đông Nam Á được phát triển rộng khắp và là môn thể thao thi đấu mang tính quốc tế, là một nội dung thi đấu chính thức trong Đại hội thể thao Châu Á. Giải vô địch Pencaksilat thế giới vẫn được tổ chức định kỳ hai năm một lần với sự tham gia của các Liên đoàn Pencaksilat quốc gia như: NPSB (Hà Lan), PSUO (Áo), PSE (Tây Ban Nha), BPSB (Bỉ), PSAT (Thái Lan), PHILSILAT (Philipin), ISAVI (Việt Nữ), PSMY (Myanma), PSL (Lào), PSUD (Đức), TAPF (Pháp), WAPSA (Úc), PSFUK (Anh), JAPSA (Nhật Bản), PSFUSA (Mỹ), PSHAKA TAHER (Thụy Sỹ), PST (Thổ Nhĩ Kỳ), PSP (Ma Rốc), PSB (Hy Lạp), PSM (Monaco), PSC (Canada).... Nhìn chung đời sống văn hóa xã hội của cộng đồng các dân tộc Mã Lai rất ít bị ảnh hưởng bởi các nền văn hóa bên ngoài, do đây là một cộng đồng thủ cựu và và vì vậy nó vẫn duy trì được những nét văn hóa dân tộc đặc sắc từ xa xưa. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển các giá trị văn hóa khác nếu phù hợp với tinh thần cộng đồng của người Mã Lai thì cũng vẫn được đón nhận và tiếp 27 thu. Điều này dẫn đến kết quả là tư tưởng, giáo lý của đạo Hồi, đạo Phật và đặc biệt là đạo Hindu đã dần hòa nhập vào nền văn hóa bản địa và trở thành nền tảng tư tưởng của cộng động các dân tộc, tinh thần của Pencaksilat cũng chịu ảnh hưởng tác động và là sự thể hiện rõ nét nhất của nền tảng tư tưởng này. Về mặt kỹ thuật, Pencaksilat cũng bị ảnh hưởng nhiều bởi môn võ Kuntao (Kungfu), một môn phái võ tự vệ chiến đấu đặc sắc có nguồn gốc từ Trung Hoa. Pencaksilat đã tiếp thu những kỹ thuật độc đáo của môn phái có đặc điểm và tinh thần phù hợp, tương đồng này để đưa vào trong các RURUT của mình sau khi đã cải biển, sửa đổi để chúng mang đậm màu sắc văn hóa tinh thần của người Mã Lai. Cùng với xu thế hội nhập quốc tế, ngày nay rất nhiều các kỹ thuật của các môn phái như Karatedo, Teakwondo...đã được kết hợp và đưa vào trong hệ thống kỹ thuật của Pencaksilat làm cho nó ngày càng trở nên phong phú và đa dạng hơn nhưng vẫn đảm bảo giữ nguyên các quy chuẩn kỹ thuật truyền thống. 1.1.3.2. Sự phát triển môn Pencaksilat tại Việt nam Pencak Silat chỉ mới được du nhập vào Việt Nam từ năm 1989 tức là chỉ mới 18 năm trở lại đây. Mặc dù vậy, với những đường quyền gần gũi với võ cổ truyền Việt Nam và phù hợp với thể lực người Việt, môn võ mới lạ đã thu hút sự hâm mộ của nhiều người. Năm 1993, tuy chưa có giải toàn quốc để đánh giá chung phong trào nhưng đội tuyển Pencak Silat vẫn được tuyển chọn dựa trên kết quả thi đấu của giải Pencak Silat mở rộng lần thứ 1 tổ chức tại Hà Nội để chính thức tham gia Seagames tại Singapore và giành được 4 huy chương đồng. Năm 1994, giải vô địch Pencak Silat đã có bước tiến quan trọng và được đưa vào nội dung thi đấu chính thức của Đại hội Thê thao toàn quốc lần thứ 3. Cũng trong năm này, đội tuyển Pencak Silat Việt Nam đã tham dự SeaGames 18 và đã giành được 3HCB, 4HCD. 28 Năm 1997, đội tuyển Pencak Silat Việt Nam tham dự giải vô địch Pencak Silat thế giới tổ chức tại Malaysia và giành được 3 HCV, 2 HCB, 1 HCD; tham dự SeaGames 19 giành được 3 HCV, 5 HCB, 2 HCD. Năm 1999 là năm thành công nhất của Silat Việt nam. Đội tuyển tham dự SeaGames 20 tại Indonesia và giành được 7 HCV, 3 HCB và 5HCD vượt lên trên cả nước chủ nhà. Năm 2001, đội tuyển tham dự SeaGames 21 và giành được 6 HCV, 3 HCB và 6 HCD. Pencak Silat đã được Việt hóa để trở thành một trong những môn thể thao thế mạnh của Việt Nam, qua số huy chương vàng đoạt được mỗi kỳ Seagames nhiều đến nỗi Pencak Silat luôn được coi là 'mỏ vàng' của đội tuyển Việt Nam. Điển hình như tại SeaGames 23 ở Philippines năm 2005, dù phải thi đấu trên đất khách, Pencak Silat đã có đến 8 hạng cân được dự trận chung kết và 7 lần quốc kỳ Việt Nam được kéo lên. Giải vô địch quốc gia và giải trẻ quốc gia đã được tổ chức định kỳ hàng năm với sự tham dự của nhiều địa phương. Sau một thời gian phát triển Silat đã có mặt tại nhiều tỉnh, thành, ngành trên toàn quốc và đã đóng góp một số gương moặt xuất sắc vào các giải thi đấu quốc tế, khu vực cũng như góp phần nâng cao thành tích của thể thao nước nhà như: Nguyễn Thị Hồng Hải, Trần Thu Hương, Đặng Thị Thúy…[9] Hiện nay, Pencak Silat ở Việt Nam đã được phát triển rộng khắp trên phạm vi toàn quốc. Thường xuyên có khoảng trên dưới 10.000 võ sinh tham gia tập luyện thi đấu và biểu diễn môn võ thuật hấp dẫn, hào hứng và phù hợp với mọi lứa tuổi này. Trong những năm gần đây, trên các võ đài quốc tế, các VĐV Pencak Silat Việt Nam đã giành được những chiến thắng vẻ vang đem lại vinh quang cho nền thể thao nước nhà. Cho đến nay Pencak Silat Việt Nam đã có nhiều nhà vô địch thế giới, vô địch Seagames. [9] 29 1.1.3.3. Xu hướng huấn luyện môn Pencak Silat ở Việt Nam. Việc có được những thành tích thể thao cao đòi hỏi công tác huấn luyện phải được diễn ra một cách có khoa học, chặt chẽ và nghiêm túc bởi thành tích thể thao môn Pencak Silat là tổng hợp kết quả của nhiều yếu tố hợp thành nên không thể coi nhẹ bất kỳ yếu tố nào mà phải phát triển động bộ, toàn diện… Muốn phát triển tố chất thể lực cho vận động viên Pencak Silat thì nhất thiết phải thực hiện huấn luyện thể lực một cách toàn diện, có kế hoạch, có mục đích và khoa học. Như vậy mới đảm bảo cho việc nắm vững, ổn định toàn diện trình độ kỹ thuật, tâm sinh lý cho vận động viên Pencak Silat có khả năng phối hợp vận động tốt là điều kiện cơ bản để đánh giá trình độ thể lực những VĐV Pencak Silat có các tố chất đặc thù cho môn võ này. Môn Pencak Silat do đặc điểm nổi trội của nó có khả năng đảm bảo cho VĐV có thể nắm bắt nhanh chóng và có chất lượng các kỹ thuật cơ bản ở môn học này. Do xu hướng phát triển của Pencak Silat hiện đại là ngày càng tiến gần tới lối đánh biến hoá, thực dụng và hiệu quả cho nên môn thể thao này ngày càng đòi hỏi VĐV phải có một khả năng thích ứng và năng lực phối hợp vận động cao hơn. Vì vậy, việc huấn luyện các tố chất thể lực cho vận động viên ngày càng trở nên quan trọng và bức thiết hơn bao giờ hết. Hiện nay, ở Việt Nam công tác huấn luyện đã được chú trọng nhiều hơn. Đội tuyển Pencak Silat quốc gia đã có chuyên gia nước ngoài huấn luyện, một số trung tâm lớn cũng có quy trình đạo tạo vận động viên từ thấp đến cao như Hà Nội, Công an nhân dân, Đà Nẵng… Tuy nhiên, hệ thống huấn luyện còn tản mạn thiếu thống nhất và chưa có chuẩn mực rõ ràng. Pencak Silat là môn thể thao có tính khoa học do đó đòi hỏi phải có hệ thống huấn luyện mang tính chuyên nghiệp, chuẩn mực cao đặc biệt trong tập luyện quyền. Việc sử dụng các bài tập huấn luyện, đặc biệt các bài tập huấn luyện các tố chất thể lực cho vận động viên còn nghèo nàn, phần lớn được sử dụng theo kinh nghiệm của các huấn luyện viên chứ chưa có được một hệ thống bài tập 30 huấn luyện hoàn chỉnh có tính khoa học cao. Điều này cũng gây ảnh hưởng không nhỏ cho quá trình huấn luyện môn Pencak Silat ở Việt Nam. Vì vậy, tìm ra được một hệ thống bài tập huấn luyện các tố chất thể lực cho các vận động viên là vô cùng quan trọng. 1.2. Đặc điểm tâm, sinh lý của VĐV Pencak Silat. Đặc điểm các môn thể thao khác nhau có ảnh hưởng nhất định đến việc phát triển các mặt tâm lý của VĐV như: tri giác, sự quan sát, trí nhớ, sự tư duy, trí tưởng tượng, sự cảm xúc và các phẩm chất đạo đức ý chí. Hoạt động thể thao đòi hỏi phải có sự phát triển đặc thù từng chức năng tâm lý và phẩm chất ý trí của VĐV. Bởi vậy, để xác định được phạm vi nhiệm vụ và nội dung huấn luyện tâm lý cho VĐV Pencak Silat cần phải nắm được những đặc điểm hoạt động tâm lý của VĐV. Pencak Silat là môn thể thao đối kháng trực tiếp, có sự biến hóa sáng tạo. Đặc điểm tâm lý trong hoạt động vận động của VĐV võ Pencak Silat được xác định bởi luật thi đấu, tính chất của hoạt động thi đấu và những đặc điểm khách quan của cuộc đấu. Các dạng hành động chủ yếu của VĐV võ Pencak Silat như sự di chuyển, những kỹ thuật tay, chân, những quét và đánh ngã, đều có sự liên quan trực tiếp tới sự mạo hiểm nhất định. Vì vậy đòi hỏi phải có sự dũng cảm và bình tĩnh tự tin. Trong quá trình tập luyện, VĐV Pencak Silat phải nắm vững toàn bộ kỹ năng vận động trên cơ sở lớn số lượng các động tác kỹ thuật tấn công và phòng thủ. Tính phức tạp của hoạt động thi đấu ở chỗ tất cả các động tác kỹ thuật phải được áp dụng trong sự phối hợp và trong những điều kiện khác nhau đòi hỏi VĐV phải có độ chính xác và năng lực phân biệt động tác tốt, biết chuyển đổi nhanh chóng và thực hiện động tác khác nhau về nhịp độ, tốc độ và tính chất. Ở các VĐV có trình độ cao, kỹ năng thi đấu được tự động hóa đến mức các động tác ở dạng phản xạ phức tạp dường như được thực hiện như các động tác ở dạng phản xạ đơn giản. 31 Do tác động của tập luyện với VĐV, những bộ phận cấu thành của thời kỳ tiềm tàng phản ứng như: Thời điểm phân biệt, sự nhận biết, đặc biệt là thời điểm lựa chọn động tác đã được rút ngắng tới mức độ tối thiểu, nhờ có sự hình thành định hình động lực phù hợp. Hầu hết những hoạt động trong môn võ Pencak Silat đều diễn ra trên cơ sở của cảm nhận phản xạ thị giác tức thì. Kỹ năng quan sát tình thế và sự thay đổi động tác của đối phương trong trận đấu, cũng như khả năng phán đoán nhanh trong điều kiện phức tạp là một trong những tố chất quan trọng nhất của VĐV võ Pencak Silat. Điều đó đòi hỏi VĐV phải có khả năng quan sát rộng và phán đoán chính xác. Tốc độ ra đòn của đối phương lớn, sự thay đổi nhanh bất ngờ của tình huống thi đấu, sự cảm thụ số lượng lớn mục tiêu hoặc các yếu tố của chúng dẫn đến sự yêu cầu lớn đối với khối lượng, cường độ, tính ổn định, sự phân phối và chuyển hướng chú ý và định hướng nhanh chóng. Thi đấu võ Pencak Silat đầy sự gay cấn, nhịp độ trận đấu cao, thời gian theo hiệp, sự căng thẳng của thi đấu đối kháng, sự chuẩn bị các hoạt động ứng phó trong điều kiện thời gian rất ngắn, tính hiệu quả của từng động tác và trách nhiệm trong mỗi hành động là những nhân tố gây ảnh hưởng tích cực tới VĐV. Trạng thái cảm xúc của VĐV võ Pencak Silat ở mọi thời điểm luôn có sự thay đổi tùy thuộc vào tiến trình của từng hiệp thi đấu, nhiều lúc dẫn tới trạng thái bi kích động hoặc thờ ơ hoàn toàn. Pencak Silat là môn thể thao cá nhân, thành tích thi đấu được tạo nên bằng những cố gắng của từng VĐV. Nhiệm vụ và hoạt động của mỗi VĐV mà trong chừng mực nào đó còn cho phép đánh giá phẩm chất đạo đức của VĐV như sự giúp đỡ lẫn nhau. 32 1.3. Cơ sở lý luận về sức bền trong Thể dục thể thao. 1.3.1. Khái niệm và phân loại. 1.3.1.1. Khái niệm. Sức bền một trong những tố chất thể lực quan trong trong huấn luyện thể thao. Sức bền trong vận động là khái niệm rất rộng. Các quan điểm về sức bền trong nhiều tài liệu có những cách thể hiện và tiếp cận khác nhau. Qua phân tích và tổng hợp cho thấy các quan điểm sau: Tác giả Nôvicốp A.D - Mátveép L.P, cho rằng: Sức bền là năng lực chống lại mệt mỏi. Hiện tượng mệt mỏi trong những hoạt động với LVĐ khác nhau không giống nhau. Khi giáo dục sức bền không chỉ chú ý đến chiều sâu của sự mệt mỏi mà cả tính chất của nó nữa [51]. Tác giả Daxưorơxki: Sức bền là khả năng hoàn thành một công việc nào đó trong một thời gian dài mà hiệu suất làm việc không bị giảm sút. Nói một cách khác có thể coi sức bền như một khả năng chống lại sự mệt mỏi. Sự giảm sút khả năng lao động tạm thời do LVĐ gây nên là mệt mỏi, tức sức bền liên quan trực tiếp tới mệt mỏi. Khả năng chống lại mệt mỏi của từng VĐV là khác nhau do trình độ sức bền khác nhau [14]. Tác giả Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn cho rằng: Sức bền là năng lực thực hiện một hoạt động với cường độ cho trước, hay là năng lực duy trì khả năng vận động trong thời gian dài nhất mà cơ thể có thể chịu đựng được. [70] Do thời gian hoạt động đó cuối cùng bị giới hạn bởi xuất hiện của mệt mỏi, nên cũng có thể định nghĩa sức bền là năng lực của cơ thể chống lại mệt mỏi trong một hoạt động nào đó. Các tác giả cho rằng sức bền luôn luôn liên quan đến khái niệm mệt mỏi. Khi thực hiện một hoạt động liên tục và tương đối căng thẳng nào đó thì sau một thời gian con người sẽ thấy việc tiếp tục ngày càng khó khăn hơn. Trong một thời gian nhất định, mặc dù khó khăn tăng lên, nhưng cường độ hoạt động vẫn được duy trì ở mức ban đầu nhờ sự nỗ lực của ý chí. 33 Tác giả D. Harre cho rằng: Sức bền là khả năng chống lại sự mệt mỏi của VĐV. Sức bền đảm bảo cho VĐV đạt được một cương độ tốt nhất (tốc độ, dùng lực, nhịp độ chơi hoặc thi đấu, sử dụng sức lực) trong thời gian vận động kéo dài của thi đấu tương ứng khả năng huấn luyện của mình. Sức bền còn đảm bảo chất lượng động tác cao và giải quyết hoàn hảo các hành vi kỹ – chiến thuật tới cuối cuộc thi đấu và khi vượt qua một khối lượng vận động lớn trong tập luyện. Ông cho rằng sức bền là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến thành tích thi đấu và khả năng chịu đựng lượng vận động (LVĐ) của VĐV. Sức bền phát triển tốt cũng là một điều kiện quan trọng để hồi phục nhanh. [17] Dưới góc độ sinh hoá V.V. Mensicop và N.I. Volcop cho rằng: Sức bền thể hiện dưới dạng kéo dài thời gian hoạt động ở một cường độ nhất định đến khi xuất hiện những dấu hiệu đầu tiên của mệt mỏi, cũng như giảm khả năng hoạt động khi bắt đầu mệt mỏi, và cuối cùng dẫn đến sự ngừng vận động. Sức bền được đo bằng thời gian thực hiện vận động đến khi phải dừng lại (thời gian ngưỡng - tng) [51] Trên quan điểm sinh hoá, sức bền được xác định bởi tỷ số dự trữ các chất năng lượng được sử dụng với tố độ tiêu hao năng lượng khi thực hiện bài tập đã định: Sức bền (tng, phút) = Dư trữ lăng lượng (J ) Tốc độ tiêu hao năng lượng (J/phút) Có nghĩa là sức bền được xác định bằng thời gian hoạt động ở cường độ đã định đến khi hết hoàn toàn năng lượng dự trữ có thể có. Dưới góc độ sinh lý, Lưu Quang Hiệp và Phạm Thị Uyên cho rằng: Sức bền là khả năng thực hiện lâu dài một hoạt động nào đó. Các tác giả cho rằng sức bền như một tố chất thể lực, vì vậy, có tính tương đối rất cao, nó được thể hiện trong một loại hoạt động nhất định. Hay nói cách khác, sức bền là một khái niệm chuyên biệt thể hiện khả năng thực hiện lâu dài một hoạt động chuyên môn nhất định. Sức bền thường đặc trưng cho khả năng thực hiện các hoạt động thể lực kéo dài liên tục từ 1 – 3 phút trở lên, với sự tham gia của một khối lượng 34 cơ bắp lớn (từ 1/2 toàn bộ lượng cơ bắp của cơ thể), nhờ sự hấp thụ oxy để cung cấp năng lượng cho cơ chủ yếu hoặc hoàn toàn bằng con đường ưa khí. Như vậy sức bền trong thể thao là khả năng thực hiện lâu dài hoạt động cơ bắp toàn thân hoàn toàn hoặc chủ yếu mang tính ưa khí. Đó là tất cả các hoạt động ưa khí. [25], [26] Tiếp cận từ góc độ tâm lý học, tác giả Phạm Ngọc Viễn cho rằng: "sức bền là một mặt ý thức của VĐV phản ánh tổng hợp độ lớn và thời gian của mọi nỗ lực cơ bắp và ý chí của VĐV được phát triển trong điều kiện thực hiện các hành động vận động kéo dài". Cấu trúc tâm lý của tố chất sức bền không biểu hiện rõ, được xác định bởi sự biểu hiện tổng hợp nỗ lực cơ bắp sản sinh ra. Như vậy, dưới góc độ tâm lý cho thấy sức bền là khả năng của hệ thống tâm thể của VĐV chịu đượng được LVĐ cao trong tập luyện và thi đấu, duy trì được sự cân bằng cần thiết trong hệ thống đó [81], [[82] Từ phân tích các quan điểm về sức bền của các tác giả trong nước và trên thế giới, cho thấy: Hầu hết đều thống nhất cho sức bền là khả năng thực hiện lâu dài một hoạt động nào đó với cường độ nhất định. Sức bền là tố chất thể lực, được thể hiện trong một loại hoạt động. Nói cách khác, sức bền là một khái niệm chuyên biệt thể hiện khả năng thực hiện lâu dài một hoạt động chuyên môn nhất định. Sức bền có vai trò to lớn đối với thành tích thi đấu, khả năng chịu đựng LVĐ, đồng thời luôn gắn liền với hiện tượng mệt mỏi và khả năng hồi phục của VĐV. Vì vậy, để phát triển được sức bền trong tập luyện thì VĐV phải khắc phục mệt mỏi [5], [42]. 1.3.1.2. Phân loại. Hoạt động vận động của con người rất đa dạng và trong mỗi dạng vận động khác nhau cũng như các môn thể thao khác nhau thì tính chất và cơ chế của sự mệt mỏi sẽ khác nhau. Mệt mỏi về trí óc, mệt mỏi cảm giác, mệt mỏi cảm xúc, mệt mỏi thể lực. Trong hoạt động TDTT, sự biểu hiện của mệt mỏi 35 cũng đa dạng. Song mệt mỏi thể lực do hoạt động của cơ bắp gây lên là chính, do vậy các loại sức bền tương ứng cũng khác nhau [42], [45], [47]. Qua phân tích và nghiên cứu tài liệu có các hình thức phân loại sức bền như sau: Căn cứ vào thời gian hoạt động các nhà khoa học như: D. Harre [17], Trịnh Trung Hiếu và Nguyễn Sĩ Hà [30], Trương Anh Tuấn [75], [[76], [[77] chia sức bền ra thành 3 loại: Sức bền trong thời gian dài: Là sức bền cần thiết để vượt qua cự ly hoặc hoàn thành khối LVĐ trong thời gian 11 phút cho tới nhiều giờ, thành tích xuất hiện chủ yếu xuất hiện trong điều kiện ưa khí. Trên cơ sở yêu cầu khác nhau về trao đổi chất nên sức bền trong thời gian dài lại chia thành 3 loại là sức bền trong thời gian dài I, II và III tương ứng với thời gian thi đấu từ 11 đến 30 phút, từ 30 đến 90 phút và trên 90 phút. Sức bền trong thời gian trung bình: Là sức bền cần thiết để hoàn thành khối LVĐ trong thời gian từ 2 đến 11 phút. Thành tích sức bền này đòi hỏi sự hoạt động đầy đủ của khả năng ưa khí lẫn khả năng yếm khí, nó phụ thuộc vào mức độ phát triển của sức mạnh - bền và sức nhanh - bền. Sức bền trong thời gian ngắn: Là sức bền cần thiết để vượt qua cự ly hoặc hoàn thành khối LVĐ trong thời gian từ 45 giây đến 2 phút. Trình độ sức bền trong thời gian ngắn phụ thuộc vào khả năng hoạt động yếm khí và mức độ phát triển sức mạnh - bền và sức nhanh – bền. Trong Sinh lý học TDTT người ta phân loại sức bền dựa trên cơ sở nhu cầu khác nhau về trao đổi chất cung cấp ATP và CP. Theo các tác giả Lưu Quang Hiệp, Phạm Thị Uyên [25], [26], [[27], Diên Phong [54] chia sức bền ra thành các loại: Sức bền ưa khí: là khả năng hoạt động lâu dài của cơ thể trong điều kiện sử dụng nguồn năng lượng thông qua quá trình ôxy hoá hợp chất hữu cơ giàu năng lượng trong cơ thể. 36 Sức bền yếm khí: là khả năng hoạt động lâu dài của cơ thể trong điều kiện dựa vào các nguồn cung cấp năng lượng yếm khí (các phản ứng giải phóng năng lượng không có sự tham gia của ôxy). Sức bền hỗn hợp ưa khí và yếm khí: là sức bền đòi hỏi đầy đủ các khả năng ưa khí lẫn yếm khí để thực hiện một LVĐ trong khoảng từ 2 đến 11 min, hay còn gọi là sức bền trong thời gian trung bình. Dựa trên đặc điểm vận động riêng biệt của từng môn thể thao đa số các nhà khoa học như: Harre.D [17], Trịnh Trung Hiếu và Nguyễn Sĩ Hà [30], Diên Phong [54], Phạm Danh Tốn - Nguyễn Toán [70], Trương Anh Tuấn [75], [[76], [77] chia sức bền thành sức bền chung (sức bền cơ sở) và sức bền chuyên môn. Sức bền chung: là năng lực vận động diễn ra trong thời gian dài. Năng lực vận động này phụ thuộc chủ yếu vào khả năng hấp thụ ôxy tối đa và khả năng cung cấp ôxy của hệ tuần hoàn, hô hấp. Vì vậy sức bền chung được hiểu theo một nghĩa hẹp đó là sức bền ưa khí. Sức bền chung được hiểu là năng lực hoàn thành hoạt động với cường độ trung bình trong thời gian dài của VĐV (là hoạt động có đặc điểm ưa khí). Khi thực hiện bài tập với cường độ trung bình, phần lớn cơ bắp của cơ thể đều tham gia hoạt động [35], [74]. Sức bền chuyên môn: là sức bền đặc trưng riêng cho từng môn thể thao [35], [74] Căn cứ vào số lượng các nhóm cơ tham gia hoạt động và chế độ hoạt động của cơ: Daxưorơxki B.M [15], Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn [70], Novicốp A.D, Matveép L.P [51], chia sức bền thành 3 loại: Sức bền cục bộ (mệt mỏi cục bộ) là sức bền dưới 1/3 các nhóm cơ tham gia hoạt động. Hoạt động cục bộ không làm cho hoạt động hệ thống tim mạch và hô hấp tăng đáng kể. Nguyên nhân mệt mỏi của hoạt động này nằm trong các khâu của bộ máy thần kinh cơ trực tiếp đảm bảo động tác. Sức bền khu vực (mệt mỏi khu vực) là loại sức bền trong các hoạt động có từ 1/3 đến 2/3 khối lượng cơ tham gia. 37 Sức bền chung (mệt mỏi chung) là sức bền trong các hoạt động kéo dài với cường độ thấp có sự tham gia của 2/3 nhóm cơ trở lên. Trong hoạt động này đòi hỏi cơ quan tuần hoàn và hô hấp hoạt động khẩn trương để đảm bảo cung cấp năng lượng cho hoạt động. Dưới góc độ tâm lý, Phạm Ngọc Viễn cho rằng: Tri giác chuyên môn của tố chất sức bền thể hiện dưới dạng cảm giác sức bền tốc độ, sức bền mạnh và sức bền - mạnh - tốc độ. Vì cấu trúc tâm lý của tố chất sức bền không biểu hiện rõ nét, vì thế sự phân chia sức bền chỉ mang tính chất tương đối. Tuy nhiên trong mỗi môn thể thao tri giác chuyên môn tố chất sức bền lại có cấu trúc tâm lý riêng và khác nhau. Với các môn thể thao cá nhân thì cảm giác độ lớn và thời gian của sự nỗ lực trong điều kiện giới hạn thời gian để chống lại đối phương có ý nghĩa quan trọng [81], [82]. Tổng hợp các quan điểm về phân loại sức bền trên cho thấy: Dưới góc độ khác nhau có các cách phân loại khác nhau. Tuy nhiên, dù ở góc độ nào thì sức bền đều có liên quan tới LVĐ và cơ chế mệt mỏi. Vì thế sự phân chia sức bền chỉ mang tính chất tương đối. 1.3.2. Các phương pháp phát triển sức bền chuyên môn. Phương pháp phát triển sức bền chuyên môn có hai đặc điểm chung: Một là, nếu sức bền chung được phát triển chủ yếu thông qua các bài tập có chu kỳ, thì trong phát triển sức bền chuyên môn người ta sử dụng bài tập chuyên môn hóa VĐV là chính. Hai là, các bài tập để phát triển sức bền chuyên môn được thực hiện với cường độ gần giống với cường độ lúc thi đấu, nếu thấp hơn sẽ không có hiệu quả. Nếu trong huấn luyện nâng cao sức bền chung mà thời gian kéo dài và khối lượng bài tập có ý nghĩa quyết định, thì điều quan trọng đối với sức bền chuyên môn là xác định tương quan tối ưu giữa cường độ và khối lượng bài tập, căn cứ vào nội dung chuyên môn hóa, trình độ tập luyện của VĐV, thời kỳ tập luyện… Tuy nhiên, mặc dù nội dung chuyên môn hóa của VĐV như thế nào thì trước khi huấn luyện sức bền chuyên môn cần phải xây dựng nền vững chắc của nó là sức bền chung [10], [11], [93], [101]. 38 Huấn luyện sức bền chuyên môn: Huấn luyện sức bền chuyên môn phục vụ trực tiếp cho việc hình thành và thể hiện thành tích thể thao. Điều này, cần phải nói tới các yêu cầu trong tập luyện và thi đấu. Những yêu cầu này trong mối tác động tổng hợp của chúng hướng vào việc hình thành các phẩm chất chuyên môn của cá nhân và các kỹ thuật thể thao tương xứng với thi đấu, các kỹ năng kỹ xảo, chiến thuật cũng như các tố chất thể lực và các cách điều khiển, thích nghi với tính chất sinh vật học tương ứng. Do đó, đặc trưng cho huấn luyện sức bền chuyên môn là tất cả các chỉ số của LVĐ gần giống các điều kiện thi đấu riêng biệt của từng môn và ít nhất cũng phù hợp với các điều kiện thi đấu này ở một vài nhân tố bên ngoài. Các chỉ số của LVĐ trước hết là tốc độ và thông số động tác, thời gian vận động và cả các nhân tố bên ngoài [17], [21], [30], [35]. 1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến sức bền và đặc điểm của sức bền chuyên môn trong nội dung thi đấu đối kháng Pencak Silat. Những nhân tố ảnh hưởng đến trình độ năng lực sức bền sinh lý chính là ảnh hưởng đến trình độ năng lực ưa khí và yếm khí trong quá trình huấn luyện thể thao, do vậy khi nghiên cứu về những yếu tố này, đề tài tiến hành nghiên cứu về các nhân tố về sinh lý ảnh hưởng trực tiếp tới năng lực ưa khí và yếm khí. 1.4.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến sức bền chuyên môn của VĐV Pencak Silat 1.4.1.1. Nhân tố ảnh hưởng đến trình độ năng lực yếm khí Khả năng hấp thụ ô xy tối đa(VO2 max) quyết định bởi ATP (Adinozin Triphôtphat) và CP (Creatin Phôtphat) và tốc độ sử dụng của các muối này. Với sự ảnh hưởng của huấn luyện thể thao, các bài tập có đặc trưng thời ngắn cường độ cao (như chạy ngắn, bơi ngắn) chỉ tiêu cường độ yếm khí sẽ có thể được nâng cao, một số môn thể thao đặc biệt thường sẽ lưu lại dấu ấn rõ rệt về cường độ hệ thống năng lượng yếm khí tạo ra... Rõ rệt nhất là sự phản ánh trên các chỉ tiêu của VĐV chạy ngắn, ném đẩy, các môn nhảy, môn bơi... 39 Trong hoạt động của các môn sức mạnh tốc độ thì phụ thuộc rất nhiều bởi năng lực động viên huy động nhanh chóng nguồn năng lượng dựa vào trao đổi yếm khí láctát. J.Hirvoren và các cộng sự đã nghiên cứu và đưa ra kết luận chứng minh rằng: khi VĐV hoàn thành bài tập với cường độ nhất định, so sánh giữa VĐV có trình độ và VĐV nói chung thì VĐV có trình độ cao có sự phân giải các chất giầu năng lượng với tốc độ tương đối cao. Trong hoạt động với cường độ cao khi lượng oxy đòi hỏi không quá 60% VO2 max thì hàm lượng ATP và CP trong cơ bắp giảm xuống không rõ rệt, chỉ khi vượt quá 75 - 80% VO2 max thì hàm lượng ATP và CP trong cơ bắp mới giảm xuống rõ rệt. Dưới tác động và ảnh hưởng của huấn luyện thể thao, chỉ tiêu đảm bảo năng lượng của hệ thống yếm khí sẽ có sự tăng trưởng về thực chất. Năng lượng lớn nhất được giải phóng từ ATP và CP của người chưa từng trải qua huấn luyện ước khoảng 420 cal/kg hoặc mỗi phút tiêu hao khoảng 1.5 - 2 lit ôxy. Do huấn luyện có đặc điểm sức mạnh tốc độ, năng lực của quá trình phi lactát có thể tăng trưởng 1.5 - 2 lần. Năng lượng gluco phân yếm khí của người chưa qua huấn luyện thông thường không vượt quá 840 cal/kg. Nồng độ axit lactic trong máu thường có thể vượt qua 25 - 30 mol/lit, chỉ tiêu năng lực lactát yếm khi ước khoảng 1760 - 2090 cal/kg. Cũng nên chú ý rằng: do kết quả huấn luyện sự biến đổi mang tính thích ứng về mặt yếm khí chủ yếu có quan hệ với sự co cơ nhanh, bao gồm sự xuất hiện việc tăng năng lực glucô phân của VĐV dựa trên đánh giá hoạt tính của ATP và CP. Hoạt động với lượng vận động có đặc trưng yếm khí sự thích ứng thời gian của cơ bắp sẽ dẫn tới hàm lượng glucogen trong cơ nâng lên rất lớn. Điều này cũng dẫn đến sự tăng lên của năng lực hệ thống gluco phân. Huấn luyện ưa khí căng thẳng có ảnh hưởng không lớn tới hoạt tính men phân giải đường. VĐV tham gia hoạt động các môn sức bền ( như chạy cự ly 40 dài, trượt tuyết, đua xe đạp, bơi…) có tiềm lực gluco phân tương đối thấp. Khi có 70% cơ bắp tham gia vào các hoạt động với lượng vận động lớn nhất liên tục trong thời gian vài phút sẽ dẫn tới chỉ số nồng độ axit lactíc quyết định bởi trình độ tập luyện cao hay thấp. Phạm vi dao động của nó cũng rất rộng. Trị số axit lactích của VĐV cấp cao ở những môn đòi hỏi năng lực glucophân cực hạn có thể đạt tới 16 - 22 mmol/l, cá biệt VĐV đạt tới 25 mmol/l trở lên. Những số liệu này ghi lại được sau 5 - 7 phút ngừng vận động. Người chưa tham gia huấn luyện thể thao và những VĐV trình độ cao ở các môn thể thao đòi hỏi năng lực ưa khí mức độ cao, chỉ số axit lactic tương đối thấp hơn ước khoảng 6 - 12 mmol/l. Cần phải chỉ ra rằng trị số cực hạn của axit lactíc trong máu động mạch có quan hệ với đặc điểm của huấn luyện thể thao và ở mức độ lớn được quyết định bởi số lượng sợi cơ màu sáng trong tổ chức cơ bắp tham gia co duỗi cơ. Có số lượng lớn người chưa qua huấn luyện nhưng có loại hình cơ màu sáng tham gia co duỗi cơ nhiều, khi chịu lượng vận động cực đại có thể đạt được chỉ tiêu axit lactíc tương đối cao. 1.4.1.2. Nhân tố ảnh hưởng đến trình độ năng lực ưa khí Trình độ năng lực ưa khí được quyết định bởi năng lực của hệ thống vận chuyển đến cơ làm việc và các thể hoạt tính khác trong cơ thể, bao gồm các tổ chức của cơ thể, tổ chức hệ thống sử dụng oxy tức là hệ thống cơ bắp cung cấp và lợi dụng oxy do máu vận chuyển đến. Mỗi một hệ thống nhỏ trong hệ thống nói trên đều có các khâu có mối quan hệ không chặt chẽ với trình độ năng lực ưa khí, các khâu trên thực tế không làm hạn chế đến sức bền khi hoạt động trong thời gian kéo dài và các khâu vẫn là nhân tố quan trọng nhất để đạt được năng lực ưa khí tương đối cao. Ví dụ: rất nhiều tham số hô hấp ngoài đều không hạn chế đến trình độ năng lực ưa khí. Đồng thời giống như các chỉ tiêu làm việc của tim như tần số co bóp tim, 41 lưu luợng phút… đều có tác dụng quan trọng để đạt được khả năng hấp thụ oxy cao. Nâng kỳ co bóp của tim và lưu lượng phút sẽ là 50% nguyên nhân dẫn tới việc nâng cao lượng hấp thu oxy. Các nguyên nhân còn lại sẽ là kết qủa của việc hấp thu oxy của một số tế bào cơ bắp nào đó được nâng cao. Điều này được phản ánh ở việc nâng cao sự chênh lệch oxy ở động mạch và tĩnh mạch. Những vấn đề trình bày ở trên có thể của VĐV xuất sắc ở các môn có yêu cầu về sức bền, có thể quan sát thấy chỉ tiêu ở VO2 max phản ánh cường độ hệ thống đảm bảo năng lượng ưa khí có trị số lớn nhất. Thông thường trị số tuyệt đối của VO2max ở nam đạt tới 6.000 - 7.000ml/ phút, trị số tương đối đạt 85 - 95 ml/phút/kg còn ở nữ đạt tới 4.500 - 4.800ml/phút trị số tương đối đạt từ 65 - 72 ml/phút/kg. Trong trị số VO2 max tương đối xuất hiện trên cơ thể VĐV cấp cao ở các môn đua xe đạp, chèo thuyền, chạy dài, bơi dài trị số bình quân xuất hiện từ 70 80 ml/phút/kg. Trong khi đó ở VĐV các môn thể dục dụng cụ, nhảy cầu, trị số VO2 max tương đối chỉ khoảng 35 - 40ml/phút/kg. Tức không vượt quá chỉ tiêu của người bình thường chưa qua huấn luyện. Những người chưa từng trải qua huấn luyện nói chung chỉ làm việc được 30 phút ở mức độ 70% lượng đòi hỏi oxy tối đa (tức 32000 ml/phút) lúc này tiêu hao khoảng 1320 kcal năng lượng. Trong khi đó ở VĐV có trình độ ở các môn thể thao sức bền có thể làm việc 2 giờ ở mức độ 70% lượng đòi hỏi oxy tối đa (tức khoảng 6000ml/phút). Còn đối với VĐV cao cấp của môn có tính chu kỳ (như VĐV chạy dài) lại có thể làm việc từ 3 - 4 giờ ở mức độ 70% lượng oxy đòi hỏi tối đa. Trong các môn thể thao đòi hỏi trình độ năng lực ưa khí cao thì ngay cả VĐV có trình độ cấp thế giới cũng chỉ làm việc được 10 phút ở mức độ 100% lượng đòi hỏi ô xy tối đa và 30 phút ở mức độ 95% lượng đòi hỏi ôxy tối đa; 60 42 phút ở mức độ 95% lượng đòi hỏi ôxy tối đa; trên 2 h ở mức độ 80% lượng oxy tối đa. Vì vậy có thể chỉ ra rằng: hoạt động liên tục ở mức độ 90 - 95% lượng đòi hỏi ôxy tối đa sẽ không xuất hiện hiện tượng tích tụ lượng lớn axít lactíc luôn giữ ở mức 20 - 40mg. Kết quả nghiên cứu trên VĐV bơi qua eo biển Măng sơ (giữa Anh và Pháp) có thể thấy rất rõ là: trong kế hoạch nâng cao năng lượng của hệ thống bảo đảm năng lượng ưa khí hệ thống này đã hiện rõ năng lực thích ứng rất cao. Bơi qua eo biển Măng Sơ thông thường phải dùng thời gian khoảng 15h, đồng thời phải tiêu tốn 50244 kcalo năng lượng (chính xác là khoản 37680 - 61805 kcalo) chỉ tiêu này vượt hơn 12.5 -13.5 lần của hoạt động trao đổi chất cơ bản. Lượng hấp thụ oxy mỗi phút đạt tới 50ml/kg điều này cũng có nghĩa là so với lượng oxy đòi hỏi lớn nhất của VĐV chạy dài cấp cao còn cao hơn khoảng 50%. Sự tích luỹ glucophân là để dùng trong lượng vận động ưa khí thời gian tương đối dài. Nên chú ý đến việc VĐV hoạt động số lượng gluco trong cơ bắp làm việc không nhiều. Nhìn chung chỉ chiếm khoảng 10% tổng lượng glucogen được động viên. Glucogen trong cơ bắp tăng lên 50 - 60% là một thời điểm quan trọng quyết định năng lượng của hệ thống ưa khí. Khi hoạt động căng thẳng thời gian dài với đặc điểm ưa khí và cơ bắp làm việc thời kỳ bắt đầu lượng gluco được cung cấp giữa chúng có mối quan hệ tương đối chặt chẽ. Sự tích luỹ glucogen trong cơ thể sau khi cạn kiệt đòi hỏi phải tiêu hao mỡ và glucogen trong máu để thực hiện việc bù đắp. Khi hoạt động với lượng vận động có cường độ chiếm khoảng 60 - 70% mức độ oxy tối đa đòi hỏi, 50 - 85 % năng lượng thu được là thông qua sử dụng glucogen tích luỹ trong cơ bị cạn kiệt. Cơ bắp sẽ liên tục hấp thu glucogen trong máu chảy qua, lượng hấp thu glucogen này khoảng 10 - 15% ở thời gian bắt đầu hoạt động và đạt tới mức 50% trong tình trạng cơ thể ở vào trạng thái mệt mỏi trầm trọng. Điều này cũng có nghĩa là glucogen tích luỹ trong gan bắt đầu có tác dụng quan trọng ở điều kiện mệt mỏi. 43 Trong nhiều yếu tố khi xác định trình độ trao đổi chất ưa khí nên phân biệt năng lực của hệ thống hô hấp ngoài, khi trong máu động mạch tập trung duy trì oxy, với vai trò là một khâu đầu tiên quan trọng của hệ thống vận chuyển oxy, hô hấp ngoài bảo đảm quyết định cho lượng oxy thâm nhập cơ thể từ lượng thông khí phổi và sự khuyếch tán oxy thông qua màng tế bào trong máu. Thông qua tác dụng ảnh hưởng của huấn luyện dung tích sống sẽ được tăng lên, việc tiết kiệm hoá và cường độ của hô hấp ngoài được nâng cao năng lực mở căng của phổi cũng được tăng cường. Mặc dầu chỉ tiêu dung tích sống của VĐV có trình độ hoạt động sức bền ưa khí tương đối cao, có thể đạt tới 6 - 9 lần nếu so với người chưa tham gia tập luyện thể thao, dung tích sống lớn gấp 2 - 2.5 lần. Song người ta lại chưa phát hiện thấy giữa dung tích sống với VO 2 max có mối quan hệ chặt chẽ và mặc dù khi huấn luyện căng thẳng chỉ số dung tích sống trong một phạm vi nhất định có thể xác định trình độ năng lực hô hấp và trình độ thông khí phổi. Nhưng những chỉ tiêu này lại không thể hạn chế năng lực ưa khí của VĐV và không phải là trình độ chuẩn bị song song để hoàn thành các nhiệm vụ huấn luyện khác. Trị số tối đa của dung tích sống làm thành năng lực duy trì mức thông khí phổi trình độ cao trong thời gian dài ở chừng mực lớn có thể quyết định mức độ đòi hỏi oxy lớn. VĐV có trình độ huấn luyện cao có thể duy trì hoạt động được từ 10 15 phút với mức độ 80% lượng thông khí phổ lớn nhất, duy trì hoạt động 20 - 30 phút với mức độ 70% lượng thông khí phổi lớn nhất. Còn với người tham gia hoạt động chỉ có thể duy trì hoạt động TDTT trong vòng khoảng 3 - 5 phút ở mức độ 70 - 80% lượng thông khí phổi lớn nhất. Hiệu quả hô hấp tăng cực đại sẽ kéo theo sự tăng trưởng của các sức bền, điều này thể hiện ở việc giảm thiểu lượng thông khí phổi của mỗi lít oxy đòi hỏi. Vì vậy, khi hoàn thành một hoạt động có cường độ nhất định sẽ xuất hiện sự khác biệt rất lớn. Khi hoạt động cường độ trong trạng thái yên tĩnh, đương lượng oxy của thông khí phổ giữa người chưa tham gia luyện tâp thể thao với VĐV có trình độ cao trên thực tế là như nhau. 44 Trình độ năng lực trao đổi chất ưa khí ở chừng mực lớn được xác định từ chỉ tiêu động lực học của máu, tần số nhịp tim của VĐV có trình độ cao của các môn thể thao liên quan tới sức bền khi lượng vận động cực hạn có thể tăng 3 - 6 lần, còn người chưa tham gia tập luyện cũng trong tình huống như vậy chỉ có thể tăng lên được 2,5 đến 3 lần. Lượng vận động trong thời gian ngắn, đặc biệt căng thẳng cũng sẽ xuất hiện tần số mạch rất nhanh, đạt được 200 lần/phút trở lên. Song ở đây cũng cần chỉ ra rằng trị số cung lượng tim chỉ quan sát được ở trong một phạm vi tần số nhất định. Trị số cung lượng tim giới hạn thống nhất ở tần số mạnh ở 100 - 110 lần/phút, giới hạn cao ở tần số 170 - 180 lần/phút đối với người chưa qua tập luyện, còn VĐV cấp cao giới hạn thấp nhất là 110 - 130 lần/phút, giới hạn cao ở 190 - 220 lần/phút. Nếu vượt quá trị số này sẽ suất hiện giảm thiểu cung lượng tim. Do kết quả của huấn luyện cũng phát sinh sự biến đổi rất lớn, trước hết là sự tăng trưởng rất lớn của tuần hoàn máu và chỉ số này ở VĐV cấp cao các môn sức bền có thể được nâng cao 12 - 25%. Lượng tuần hoàn máu được nâng cao dẫn đến tự nâng cao số lượng Prôtít hồng cầu vận chuyển oxy. Sự tăng thêm Prôtít hồng cầu có quan hệ chặt với việc tăng thêm tổng lượng máu, bởi vì khi yêu cầu phần lớn cơ bắp phát huy tác dụng trong làm việc thời gian dài, năng lực của trung tâm tuần hoàn máu là nhân tố quan trọng hạn chế năng lực làm việc. Sự biến đổi của hệ thống máu không bị hạn chế việc tăng thêm số lượng máu tuần hoàn. Lượng huyết tương tuần hoàn về thực chất tăng lên 15 - 20%, số lượng hồng cầu máu tuần hoàn chỉ tăng trưởng 12 - 15%. Đồng thời hàm lượng prôtít nói chung trong tuần hoàn máu cũng sẽ tăng lên. Việc nâng cao này đã phản ánh huấn luyện sức bền đã thúc đẩy sự hợp thành Prôtít trong gan tăng nhanh (chủ yếu chỉ Prôtít bạch cầu). Nồng độ Prôtít trong huyết tương tăng lên có thể nâng cao áp suất thẩm thấu của chất keo. Điều này sẽ thúc đẩy chuyển đổi mang tính bổ sung các dịch thể vào máu qua khe hở giữa các tế bào và giữa các 45 tổ chức. Vì vậy, lượng huyết tương tuần hoàn tăng lên, còn nồng độ Prôtít trong huyết tương vẫn giữ ở mức độ bình thường. Khi hoạt động TDTT, giữa nhiều nhân tố xác định trình độ sức bền, hệ thống sử dụng ô xy chiếm vị trí to lớn, sự tăng trưởng của năng lực hệ thống này có quan hệ chặt với sự biến đổi của động lực học máu và sự trao đổi chất của máu. Biến đổi động lực học của máu thể hiện ở sự hoàn thiện của mao mạch, sự phát triển của bộ phận bên ngoài, sự cải thiện về phân bố máu trong cơ thể bao gồm cả sự cải thiện máu trong cơ bắp. Việc hoàn thiện của mao mạch có quan hệ với việc mở rộng và kéo dài của mao mạch chưa có tác dụng và mao mạch… Như vậy, sẽ hình thành mao mạch mới. Khi hoạt động căng thẳng, nội bộ cơ bắp của VĐV có sự phân bố lại lượng máu chảy về cơ làm việc, lưu lượng máu chảy về cơ bắp khi chịu lượng vận động có thể vượt quá 80% tổng lưu lượng. Trong khi đó ở điều kiện yên tĩnh lưu lượng chỉ đạt 20%, lưu lượng máu cục bộ trong khi cơ bắp làm việc thường có thể nâng cao từ 15 - 20 lần trở lên, số luợng mao mạch tham gia vận chuyển máu được tăng thêm nhanh chóng. Nếu như trong trạng thái yên tĩnh chỉ có 5 - 7% số lượng mao mạch phát huy tác dụng thì khi hoạt động với lượng vận động căng thẳng thời gian dài thì hầu như tất cả các mao mạch đều phát huy tác dụng. Đồng thời còn mở rộng và bổ xung thêm mao mạch mới. Sự tăng thêm lưới mao mạch có tác dụng và sự mở rộng bề mặt của lưới này có thể dẫn đến tăng thêm nhiều lần các đường thông nhau của mao mạch. Đây là sự kích thích mạnh mẽ, việc kéo dài và mở rộng mao mạch mới được hình thành tới mức cực đại. Sự cải tạo của trao đổi chất bao gồm: sự tăng thêm trị số và số lượng mitochonpdria. Sự nâng cao hoạt tính men oxy hoá, sự tăng trưởng Prôtít hồng cầu máu và Prôtít hồng cầu cơ, hàm lượng glucôgen trong cơ tăng nhiều lên. Dung lượng và mật độ trong cơ của những VĐV đã trải qua huấn luyện có thể 46 tăng lên mạnh mẽ. Điều này quyết định bởi sự phát hiện thấy, so với người bình thường chưa trải qua tập luyện thì người đã trải qua tập luyện thường xuyên với các lượng vận động sức bền trên cơ thể của họ nhanh chóng tăng lên 15 - 22% diện tích bề mặt của Mitochondria trong tổ chức cơ tăng lên đến 65 - 75%. Sự tăng trưởng về lượng của Mitochondria và sự tăng thêm nồng độ thể kết tinh dẫn đến sự nâng cao năng lực oxy hoá của tế bào cơ bắp ,điều kiện mở rộng của vật bị tác dụng cũng được cải thiện. Vì vậy năng lực dung lượng oxy của tế bào và năng lực tăng tốc độ sử dụng năng lượng cũng được tăng trưởng. Sự tăng trưởng mật độ Mitochondria có ý nghĩa tương đối quan trọng bởi vì khi cường độ của hệ thống tuần hoàn máu và hệ thống hô hấp ngoài cùng lúc tăng lên, sự tăng lên của thể hạt dây có thể bảo đảm cho sự tăng trưởng của cường độ ưa khí của cơ thể. Là sự tăng trưởng của năng lực sử dụng ô xy bảo đảm cho việc tái hợp thành ATP, nguồn năng lượng yêu cầu để các cơ quan vận động hoàn thành công năng cường độ cùng lúc với sự tăng trưởng của cường độ ưa khí, năng lực lợi dụng một lượng lớn mincalaminketo, axít được hình thành trong khi chịu đựng lượng vận động do tác dụng hoá glucô phân của cơ bắp cũng được tăng lên, đây cũng là sự báo trước nồng độ axít lactíc trong máu sẽ nâng cao. Mọi người đều biết, sự nâng cao nồng độ axít lactíc là một nhân tố hạn chế sức bền. Trong số rất nhiều nhân tố quyết định sức bền hoạt động ưa khí của VĐV. Cần đặc biệt chỉ ra là sự cải tạo cấu trúc và chức năng của các loại hình sợi cơ. Huấn luyện căng thẳng sẽ dẫn đến việc nâng cao gấp đôi năng lực trao đổi chất ưa khí của sợi cơ chậm và sợi cơ nhanh II A cũng như sợi cơ nhanh II B. Song tỷ lệ về năng lực giữa chúng trên thực tế vẫn không có sự biến đổi, tức là năng lực ôxy hoá ưa khí của cơ chậm sẽ cao gấp vài lần cơ nhanh. Sự cải tạo của cơ chậm thể hiện trong việc tăng thể tích bó cơ trong việc tăng thêm mật độ và số lượng của Mitochondria trong việc tăng trưởng phân tử nhỏ của mỡ trung tính. 47 Đồng thời bất kể sử dụng phương pháp huấn luyện chuyên môn nào để phát triển sức bền đều không thể biến đổi đặc trưng của cơ chậm, khi nào cho cơ nhanh đạt được sự huấn luyện tốt. Trong tình huống các điều kiện khác như nhau, những VĐV có số lượng sợi cơ nhanh nhiều trong thi đấu cự ly dài luôn có ưu thế hơn những VĐV có số lượng sợi cơ nhanh ít. 1.4.2. Đặc điểm của sức bền chuyên môn trong nội dung thi đấu đối kháng Pencak Silat. Các môn đối kháng cá nhân nói chung và Pencak Silat nói riêng có cấu trúc hỗn hợp: vừa có hoạt động có chu kỳ vừa có hoạt động không có chu kỳ. Đặc trưng của môn Pencak Silat là cường độ hoạt động và hình thức di chuyển luôn thay đổi. Vì vậy, nâng cao sức bền ưa khí hoặc yếm khí thông qua các bài tập chuyên môn là rất cần thiết vì nhờ đó có thể đảm bảo được khả năng hồi phục nhanh chóng những lúc nghỉ giữa các hiệp trong thi đấu hay thậm chí trong khi di chuyển ngoài tầm ra đòn của đối phương. Ngoài ra để thích ứng với tính chất thi đấu chuyên môn luôn thay đổi, cần áp dụng những loại bài tập chuyên môn bên cạnh những bài tập đòn tay hay đòn chân đơn thuần. Các hình thức biến dạng của phương pháp tập đồng đều và giãn cách cũng được áp dụng rộng rãi. Cụ thể là kéo dài thêm thời gian của các hiệp đấu trong tập luyện, mặt khác có thể tăng số hiệp đấu với điều kiện rút ngắn thời gian và cường độ (giữa các hiệp đó có thời gian nghỉ ngắn dần). Việc phát triển sức bền chuyên môn trong Pencak Silat bên cạnh việc phát triển sức bền ưa khí và yếm khí, cần phải chú trọng tới việc phát triển sức mạnh bền và sức bền tốc độ. Theo luật thi đấu đối kháng (Tanding) của Pencak Silat được thi đấu trong 3 hiệp (mỗi hiệp 2 phút với giải vô địch và 1.5 phút với giải trẻ), nghỉ giữa hiệp là 1 phút. Là môn thi đấu đối kháng trực tiếp có sự tiếp xúc thể chất mạnh, ngoài những tố chất thể lực cơ bản như sức nhanh, sức mạnh, khả năng phối hợp vận động, mềm dẻo…, và vốn kỹ thuật chiến thuật phong phú, đa dạng thì VĐV Pencak Silat còn phải có năng lực sức bền chuyên môn tốt mới có thể giành được 48 những chiến thắng trong sự nghiệp thi đấu. Trong thực tế thì đấu nhiều VĐV có kỹ, chiến thuật tốt và đa dạng, liên tiếp ghi điểm và thắng điểm trong hai hiệp thi đấu đầu nhưng chung cuộc lại phải chịu thất bại bởi một lý do duy nhất là trình độ sức bền chuyên môn không tốt. Do vậy có thể khẳng định sức bền chung và đặc biệt là sức bền chuyên môn trong thi đấu đối kháng Pencak Silat có một vai trò rất quan trọng trong thực tiễn tập luyện và thi đấu. Sự thành công của Pencak Silat Việt Nam trên đấu trường khu vực và thế giới là trước tiên là chúng ta có một dàn VĐV có nền tảng thể lực tốt nổi bật là sức mạnh bền và sức bền tốc độ cùng với một trình độ kỹ, chiến thuật phong phú và đa dạng. 1.5. Phân loại các hệ thống bài tập trong Pencak Silat. 1.5.1. Khái niệm bài tập thể dục thể thao Bài tập thể dục thể thao (TDTT) là những hoạt động vận động chuyên biệt do con người sáng tạo ra một cách có ý thức, có chủ đích, phù hợp với qui luật giáo dục thể chất. Người ta dùng chúng để giải quyết những nhiệm vụ giáo dục thể chất, đáp ứng những yêu cầu phát triển thể chất và tinh thần của con người [8, tr.109]. Bài tập TDTT là phương tiện huấn luyện chủ yếu trong các môn thể thao. Trong chừng mực nhất định, các bài tập đó được chuyên môn hóa phù hợp với những đặc điểm của môn thể thao đã lựa chọn để tập luyện chuyên sâu [9, tr. 11,12]. Theo Lưu Quang Hiệp, Phạm Thị Uyên, bài tập là một tổ hợp các tác động có liên quan chặt chẽ với nhau nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định [7, tr.109]. Nội dung bài tập TDTT bao gồm các thành phần tạo nên bài tập đó và các quá trình cơ bản xảy ra trong cơ thể do việc thực hiện các bài tập đó tạo nên. Các quá trình này quyết định tác dụng của bài tập đối với bài tập. Các quá trình xảy ra trong cơ thể rất phức tạp, đa dạng và có thể xem xét từ các góc độ khác nhau: tâm lý, sinh lý, sinh hóa, v.v… Về mặt sinh hóa học, nội dung bài tập TDTT là những biến đổi trong hoạt động chức năng của cơ thể khi thực hiện bài 49 tập, làm cho cơ thể chuyển sang một mức độ hoạt động cao hơn so với mức yên tĩnh, nhờ vậy mà có thể hoàn thiện được những khả năng chức phận của cơ thể. Ngoài ra người ta còn tính tới cả những biến đổi trước và sau khi thực hiện bài tập. Tùy theo đặc điểm bài tập, những biến đổi sinh lý có thể đạt mức khá lớn. Ví dụ: thông khí phổi có thể tăng lên 30 lần, lượng hấp thụ oxy tăng đến 20 lần, lưu lượng phút của máu tăng đến 10 lần, kềm theo các quá trình mệt mỏi, tích lũy các sản phẩm oxy hóa. Những biến đổi sinh lý đó kích thích quá trình hồi phục và thích nghi của cơ thể trong và sau lúc thực hiện bài tập, vì vậy được coi là nhân tố có tác dụng mạnh mẽ, làm tăng khả năng chức phận và hoàn thiện những đặc điểm cấu trúc của cơ thể. Khi xem xét nội dung bài tập TDTT từ góc độ sư phạm, đều quan trọng là xem xét tác dụng tổng hợp của các bài tập đó đối với việc phát triển các năng lực vận động của cơ thể và sự hình thành các kỹ năng, kỹ xảo vận động, cũng như sự tác động đến hành vi, nhân cách người tập. Để nắm được nội dung của bài tập TDTT nào đó, nhà sư phạm không những cần hiểu những biến đổi sinh lý, sinh hóa và những biến đổi khác xảy ra trong cơ thể do ảnh hưởng của bài tập mà điều chủ yếu là hiểu được phương hướng tác dụng của bài tập đối với việc thực hiện những nhiệm vụ giáo dục và giáo dưỡng đặt ra. Một đặc trưng quan trọng của bài tập TDTT là nó được xây dựng trên cơ sở những hoạt động, vận động có ý thức, tức là được điều khiển từ các trung khu thần kinh ở vỏ não. Đó là những hành vi vận động có chủ đích, liên quan đến nhiều quá trình tâm lý: sự biểu hiện về động tác, hoạt động tư duy, cảm xúc, v.v… có ảnh hưởng mạnh đối với sự biểu hiện ý chí, tình cảm, tính cách. Bài tập TDTT có thể dược coi là những hành vi vận động có ý thức, trong đó thể hiện sự thống nhất giữa hoạt động thân thể và tâm lý. Nó không chỉ tác động đến cơ thể, mà cả đối với nhân cách và tâm lý người tập. Hình thức của bài tập là cấu trúc (hay tổ chức) bên trong và bên ngoài của nó. Hình thức của bài tập phụ thuộc vào các đặc điểm nội dung của nó. 50 Cấu trúc bên trong của bài tập TDTT thể hiện ở mối quan hệ và sự phối hợp, tác động lẫn nhau giữa các quá trình khác nhau của hoạt động chức năng của cơ thể trong lúc thực hiện bài tập. Các quá trình phối hợp thần kinh cơ, sự phối hợp động tác lẫn nhau giữa hoạt động của hệ vận động và hệ thực vật, cấu trúc của quá trình chuyển hóa năng lượng (tương quan giữa các quá trình có oxy và không có oxy). Cấu trúc bên ngoài của bài tập TDTT là hình dáng có thể nhìn thấy của nó, thể hiện đặc trưng ở quan hệ giữa các thông số không gian, thời gian và lực của các động tác tạo thành bài tập. Hình thức và nội dung của bài tập TDTT liên quan hữu cơ với nhau, trong đó nội dung là mặt quyết định và động hơn. Điều đó có nghĩa là, để thực hiện được một hoạt động vận động quy định nào đó cao hơn khả năng hiện có, trước hết phải thay đổi một cách tương ứng mặt nội dung của nó. Tức là phải nâng cao khả năng chức phận của cơ thể các năng lực vận động đó đòi hỏi. Nội dung thay đổi thì hình thức bài tập cũng thay đổi. Ví dụ, sức mạnh hoặc sức bền thay đổi thì biên độ, tần số động tác cũng có thể thay đổi. Hình thức cũng có ảnh hưởng đến nội dung. Hình thức chưa hoàn thiện của bài tập sẽ cản trở sự biểu hiện tối đa các khả năng của cơ thể. Ngược lại hình thức hoàn thiện sẽ tạo điều kiện sử dụng có hiệu quả các năng lực thể chất. Ví dụ, cùng một động tác chuyền bóng bằng mu trong bàn chân, người nào thực hiện đúng động tác kỹ thuật sẽ tiêu hao năng lượng ít hơn người thực hiện sai kỹ thuật [8, tr.111-116]. 1.5.2. Phân loại bài tập huấn luyện thể thao Để đạt được thành tích thể thao cao phải sử dụng các phương tiện khác nhau như: vệ sinh, điều kiện tự nhiên... nhất là các bài tập huấn luyện quan trọng nhất để nâng cao thành tích thể thao phù hợp với mục đích, nhiệm vụ của quá trình huấn luyện. Tính mục đích của bài tập huấn luyện thể thao thành tích cao thể hiện ở chỗ được sử dụng để phát triển thành tích trong môn thi đấu lựa chọn. [4], [39] 51 Theo Lưu Quang Hiệp, một tổ hợp các động tác có liên quan chặt chẽ với nhau nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định được gọi là bài tập. [28], [29] Như vậy cơ chế chính để phân loại Bài tập thể dục thể thao là những biến đổi xảy ra trong cơ thể do hoạt động cơ bắp gây nên, đồng thời tính đến cả công suất, thời gian, tính chất gắng sức, đặc điểm co cơ, đặc thù điều khiển và các yếu tố khác. Về sinh lý học, nội dung bài tập TDTT là những biến đổi trong hoạt động chức năng của cơ thể khi thực hiện bài tập để cơ thể vận động cao hơn lúc tĩnh, khả năng chức phận của cơ thể được hoàn thiện, ngoài ra còn cả những biến đổi trước và sau khi thực hiện bài tập. Tuỳ theo đặc điểm bài tập mà biến đổi sinh lý có thể lớn. Những biến đổi sinh lý đó kích thích quá trình thích nghi của cơ thể và hồi phục trong và sau khi thực hiện bài tập, được coi là nhân tố tác dụng mạnh, làm tăng các năng lực chức phận và hoàn thiện những đặc điểm cấu trúc cơ thể. [30], [49] Theo Harre.D, việc phân loại không những phải chú ý đến sự khác nhau về hình thức quá trình vận động mà còn phải chú ý đến sự khác nhau các đặc điểm về LVĐ. Bài tập thể dục thể thao có 3 loại chính: [27] Bài tập thi đấu: Là loại hình động tác có quá trình vận động và đặc điểm riêng về lượng vận động phù hợp yêu cầu thi đấu chuyên môn của môn thể thao mà VĐV đã chuyên môn hoá. Bài tập chuyên môn được chia ra thành 2 nhóm: Bài tập chuyên môn 1: Gồm các bài tập có quá trình vận động gần giống các bài thi đấu nhưng đặc điểm lượng vận động khác bài tập thi đấu hoặc chỉ chứa các yếu tố riêng lẻ hay các nhóm thuộc tổ hợp các bài tập thi đấu. Các hình thức về lượng vận động của bài tập chuyên môn I gồm các cuộc thi đấu thể thao và kiểm tra thành tích thể thao trong điều kiện thay đổi nhiệm vụ thi đấu so với yêu cầu của môn thể thao chuyên sâu. Bài tập chuyên môn 2: Gồm các bài tập có các vận động bộ phận của quá trình vận động riêng biệt của kỹ thuật thể thao trong đó yêu cầu một hoặc nhiều 52 nhóm cơ mà cách thức vận động khi dùng sức, thời gian giống hoặc gần giống như khi thực hiện động tác thi đấu. Bài tập phát triển chung là các bài tập có cấu trúc đa dạng từ các môn thể thao khác nhau và các bài tập thuộc loại hình vận động cơ bản có hoặc không có dụng cụ, không chứa các yếu tố của động tác thi đấu. Với các bài tập phát triển chung phát triển toàn diện, năng lực thể chất, sự phối hợp vận động và chiến thuật của VĐV Pencak silat và có hệ thống khả năng chịu đựng lượng vận động. Các bài tập phát triển chung tạo cơ sở cho phát triển thành tích thể thao chắc chắn và lâu dài, làm VĐV có năng lực thực hiện tốt các yêu cầu cao, phức tạp của bài tập chuyên môn trong quá độ chuyển lên giai đoạn huấn luyện VĐV cấp cao. Do đó, bài tập phát triển chung có ý nghĩa rất lớn trong các giai đoạn huấn luyện VĐV Pencak Silat. Trong giai đoạn huấn luyện cơ sở và huấn luyện cơ bản, lựa chọn và sử dụng các bài tập phát triển chung phải theo hình thức vận động và đặc điểm LVĐ để phát triển được các tiền đề của năng lực thể thao. [3] Theo Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn, bài tập thể lực là một phương tiện chuyên môn cơ bản trong quá trình giáo dục thể chất và huấn luyện thể thao. Sự khác biệt giữa các môn thể thao được lựa chọn để chuyên môn hoá là căn cứ quan trọng nhất để phân loại bài tập trong huấn luyện thể thao. [75] Bài tập huấn luyện thể thao có thể chia làm 2 loại cơ bản: loại bài tập mục đích có tính lựa chọn và loại bài tập mang tính tổng hợp. Bài tập lựa chọn: Nội dung loại bài tập này là thông qua bài tập mang tính chất giống nhau để đảm bảo giải quyết 1 nhiệm vụ nào đó; thông qua loại bài tập này để cải thiện tính kinh tế trong hoạt động của cơ thể, nâng cao năng lực chức năng của hệ thống chủ yếu có tác dụng trong thi đấu và khắc phục mệt mỏi, ví dụ bài tập chạy tốc độ 5 x 30m. Việc hoàn thành những nhiệm vụ này đều được thực hiện thông qua quá trình tiến hành đồng thời các loại bài tập lựa chọn và nâng cao các tố chất. Ngay cả huấn luyện kỹ thuật cũng cần tiến hành 53 trong quá trình kết hợp phát triển các năng lực và các tố chất, vì kỹ thuật và thể lực không tồn tại một cách đơn độc, ví dụ bài tập tâng bóng với số lần tối đa. Bài tập tổng hợp: loại bài tập này là sử dụng các biện pháp huấn luyện để giải quyết nhiều nhiệm vụ trong một bài tập phát triển các loại tố chất và năng lực, ví dụ bài tập dẫn bóng luồn cọc sút cầu môn. Loại bài tập này chia làm 2 loại: Theo tuần tự lần lượt giải quyết từng nhiệm vụ khác nhau và đồng thời cùng giải quyết các nhiệm vụ khác nhau. Loại: Lần lượt tuần tự giải quyết từng nhiệm vụ khác nhau có thể chia làm 3 loại: Nâng cao năng lực tốc độ và sức bền ưa khí và sức bền yếm khí; Nâng cao năng lực tốc độ và sức bền ưa khí; Nâng cao sức bền ưa khí và sức bền yếm khí. Để giải quyết nhiệm vụ này, trước tiên cần xác định việc sử dụng tuần tự hợp lý của biện pháp giải quyết những nhiệm vụ khác nhau, sau đó là chọn một tỷ lệ hợp lý về lượng của một số biện pháp này. Tỷ lệ lượng của các biện pháp được sử dụng trong bài tập, nên nghĩ đến các nhân tố: tính chất của các biện pháp, tuần tự của tập luyện, trạng thái chức năng hiện tại của VĐV, trình độ huấn luyện và đặc điểm cá nhân của họ cũng như thời kỳ, giai đoạn của quá trình huấn luyện. Trong giai đoạn đầu của thời kỳ chuẩn bị, thường sử dụng là biện pháp tập luyện sức bền ưa khí chiếm tỷ lệ tương đối lớn, từ 60 – 70% tổng lượng. Theo đà nâng cao của trình độ huấn luyện, từng bước tăng dần biện pháp tập luyện tốc độ và sức bền chuyên môn. Sau phần khởi động của bài tập thì tập luyện riêng tốc độ chiếm từ 20 – 30% tổng lượng. Nếu đặt bài tập tốc độ vào phần cuối của giáo án thì không vượt quá 5 – 10% tổng lượng. Ví dụ, nội dung huấn luyện thể lực trong giai đoạn đầu của thời kỳ huấn luyện chuẩn bị là những bài tập phát triển sức bền ưa khí, tùy theo trình độ trung bình các cự ly chạy việt dã tăng dần từ tuần đầu tiên đến tuần thứ 4 đạt được 10 -12 km, sau đó những tuần tiếp theo phát triển sức bền tốc độ, tốc độ và các tố chất khác. 54 Loại: Đồng thời cùng giải quyết các nhiệm vụ bài tập khác nhau: Nâng cao song song năng lực tốc độ và sức bền yếm khí. Phát triển đồng thời sức bền ưa khí và sức bền yếm khí. Loại bài tập này chủ yếu được sử dụng trong chu kỳ huấn luyện trung bình cơ sở của thời kỳ chuẩn bị, cái gọi là phát triển song song tức là dùng một loại bài tập cùng lúc có thể nâng cao các nang lực khác. Ví dụ: chạy 10 x 400m, cường độ 85 – 90% tốc độ tối đa, nghỉ giữa 45 giây. Nội dung của loại huấn luyện này một mặt có 10 lần nghỉ với thời gian nghỉ giữa giống nhau phù hợp với nâng cao trình độ trao đổi chất ưa khí, và mặt khác đồng thời tương đối cao đối với quá trình trao đổi chất yếm khí (cơ chế cung cấp năng lượng gluco phân) từ đó kích thích sự tăng trưởng của sức bền yếm khí. Tính hợp nhất của loại giáo án này là có thể bố trí một lượng vận động tương đối lớn, làm ảnh hưởng rất lớn đến cơ thể khiến cho chức năng cơ thể nâng cao càng nhanh hơn. Rất nhiều phương pháp trong giáo án tổng hợp có thể vận dụng vào trong giáo án lựa chọn. Trong cả quá trình huấn luyện, người ta thường kết hợp vận dụng hai loại giáo án lựa chọn và giáo án tổng hợp. Nhưng trong quá trình huấn luyện thanh thiếu niên nên sớm hơn, nên bố trí trọng điểm là giáo án tổng hợp. Chỉ có khi thanh thiếu niên đạt được trình độ huấn luyện tương đối cao mới tăng giáo án lựa chọn. Bởi vì giáo án lựa chọn lượng vận động cực hạn sẽ làm hao phí tiềm lực mang tính thích ứng của cơ thể VĐV thanh thiếu niên ở một mức độ khá lớn, dễ sản sinh ra một loạt hậu quả tiêu cực như mệt mỏi qua mức, căng thẳng quá mức, lợi dụng quá mạnh mẽ năng lực thích ứng của cơ thể. Cuối cùng dẫn đến bệnh tật, thành tích chững lại hoặc tụt xuống. Loại giáo án này tuy có thể làm cho lớp trẻ đẩy nhanh sự tăng trưởng thành tích thể thao, nhưng sử dụng không đúng sẽ là vật cản chính trong việc đạt thành tích cao của thanh tiếu niên. Giáo án tổng hợp có thể loại trừ được căn bệnh trên, đối với thanh thiếu niên sự ảnh hưởng về tâm lý và chức năng của cơ thể tương đối ít, có thể làm cho họ 55 hứng thú cao hơn đồng thời còn có thể đạt được hiệu quả đầy đủ đối với việc kích thích sự tăng trưởng trình độ huấn luyện của VĐV. Như vậy, từ phân tích trên cho thấy, bài tập thể dục thể thao được chia ra làm 3 loại: Bài tập chuẩn bị chung; bài tập chuẩn bị chuyên môn và bài tập thi đấu. Trong huấn luyện Pencak Silat phải kết hợp chặt chẽ giữa huấn luyện chung và huấn luyện chuyên môn, thể hiện ở nội dung huấn luyện chung phải xuất phát từ huấn luyện chuyên môn và ngược lại nội dung huấn luyện chuyên môn phải dựa trên cơ sở các tiền đề là huấn luyện chung. Tỷ lệ huấn luyện chung và huấn luyện chuyên môn cho VĐV Pencak Silat trong một chu kỳ huấn luyện phải có một tỷ lệ chuẩn mới đạt được thành tích thể thao cao. Ngày nay, xu thế huấn luyện Pencak Silat hiện đại có tỷ lệ huấn luyện chung giảm dần theo thời gian tới mức tỷ lệ huấn luyện chung trở thành phương tiện nghỉ ngơi tích cực, còn tỷ lệ huấn luyện chuyên môn tăng lên theo chu kỳ huấn luyện năm. Ví dụ: Trong chu kỳ huấn luyện năm vào từng thời kỳ: Thời kỳ chuẩn bị huấn luyện chung có thể chiếm 30 - 60% còn thời kỳ thi đấu không quá 10 - 15%. [76] 1.5.3. Phân loại bài tập trong huấn luyện Pencak Silat Phân loại bài tập có nghĩa là sắp xếp chúng thành những nhóm sao cho những loại hình bài tập trong mỗi nhóm có sự giống nhau về những tính chất cơ bản nhất. Hiện nay có nhiều cách phân loại bài tập khác nhau trong quá trình HLTT. Theo mục đích huấn luyện người ta chia bài tập trong HLTT thành 3 nhóm: Bài tập thi đấu, bài tập chuẩn bị chung, bài tập chuẩn bị chuyên môn. Nếu căn cứ vào tố chất vận động người ta có thể chia bài tập thể chất ra thành các loại sau: Các bài tập sức nhanh - tốc độ mà đặc điểm tiêu biểu là có cường độ hay công suất hoạt động tối đa. Các bài tập sức bền trong các môn hoạt động có chu kỳ. Các bài tập phối hợp vận động theo chương trình định mức chặt chẽ. 56 Các bài tập đòi hỏi tố chất vận động tổng hợp trong điều kiện các tình huống và hình thức vận động luôn thay đổi như: tất cả các môn đối kháng cá nhân, các môn bóng .…. Các môn khoa học phụ cận cũng có cách phân loại bài tập theo quan điểm riêng như: Trong sinh cơ người ta phân thành 3 loại: Bài tập có chu kỳ, bài tập không có chu kỳ và bài tập hỗn hợp; người ta còn có thể phân các bài tập theo bộ phận cơ thể như: Bài tập tay, bài tập chân và bài tập phối hợp. Tuy nhiên các cách phân loại bài tập trên chỉ mang tính tương đối bởi thực tế trong quá trình huấn luyện, người ta sử dụng nhiều các bài tập theo từng bộ phận cơ thể để giáo dục các tố chất thể lực chuyên môn… trong các môn đối kháng các nhân như Pencak Silat. Cụ thể trong quá trình huấn luyện môn Pencak Silat để phát triển sức bền chuyên môn các bài tập được phân loại thành: Bài tập tay, bài tập chân và bài tập phối hợp. ...
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.