Liêt Tử Và Dương Tử

pdf
Số trang Liêt Tử Và Dương Tử 54 Cỡ tệp Liêt Tử Và Dương Tử 270 KB Lượt tải Liêt Tử Và Dương Tử 0 Lượt đọc Liêt Tử Và Dương Tử 51
Đánh giá Liêt Tử Và Dương Tử
4.8 ( 20 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 54 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

Liêt Tử Và Dương Tử Nguyễn Hiến Lê Liêt Tử Và Dương Tử Tác giả: Nguyễn Hiến Lê Thể loại: Trung Hoa Website: http://motsach.info Date: 24-October-2012 Trang 1/54 http://motsach.info Liêt Tử Và Dương Tử Nguyễn Hiến Lê NHÂN VẬT LIỆT NGỰ KHẤU Trước hết về bản thân Liệt tử, có một số học giả còn nghi ngờ. Như Cao Tự Tôn (thế kỉ XII), trong cuốn Vĩ lược bảo Liệt tử chỉ là nhân vật hoang đường, không có thực[1]. Đại khái họ đưa ra những lí lẽ như sau: 1. Trong bộ Sử kí, bộ sử đáng tin cậy nhất về thời đại Tiên Tần. Tư Mã Thiên không chép truyện Liệt tử trong khi chép truyện Thận Đáo, Quan Doãn..., cả các môn đệ của Khổng Tử nữa. Mà Liệt tử nếu là nhân vật có thực, tất phải quan trọng hơn mấy nhà kể đó. Lí lẽ ấy không vững vì Dương Chu và Huệ Thi, hai triết gia có danh tiếng, chưa ai ngờ rằng không có thực, cũng không được Tư Mã Thiên chép tiểu sử. Ông không chép có thể vì thiếu tài liệu hoặc cho rằng không có gì đáng chép. 2. Trong Nam Hoa kinh (cũng gọi là Trang tử), thiên Tiêu dao, Trang tử có nhắc đến Liệt Ngự Khấu nhưng lại bảo Liệt cưỡi gió mà đi (ngự phong nhi hành); truyện đó không thể tin được, chỉ đáng là ngụ ngôn thôi, không đủ để bảo rằng là nhân vật có thực. Lẽ đó cũng không vững. Bốn chữ “ngự phong nhi hành” có thể chỉ là một hình ảnh diễn cái ý Liệt tử đã hoà đồng với vạn vật (coi tiết III – Tư tưởng Liệt tử); cũng có thể trỏ một hiện tượng xuất thần mà một số nhà tu hành khi trầm tư nhập định thường cảm thấy: xác thân họ vẫn ngồi một chỗ mà thần thức họ bay lên cao, đi xa rồi lát sau trở về nhập lại vào thể xác. Nhưng dù cho Trang tử muốn bảo thể xác Liệt tử cưỡi gió mà đi thật, thì chúng ta cũng chỉ có thể bảo rằng ông tin dị đoan[2], chứ chưa thể quyết rằng Liệt tử không thể là một nhân vật có thực. Vả lại, ngay trong đoạn nói về Liệt tử đó, ở trên mấy hàng, Trang tử cũng nói tới Tống Vinh tử, mà Tống Vinh tử tức Tống Kiên, được chép trong bộ Mạnh tử, Tuân tử, Hàn Phi tử, là một nhân vật có thật, vậy thì Liệt tử cũng có thật, không phải do Trang tử tưởng tượng[3]. Huống hồ chẳng phải chỉ có riêng Nam Hoa kinh, mà còn nhiều sách khác nữa như Lữ thị Xuân Thu (đời Tần), Hoài Nam tử (đời Hán), đều nhắc tới Liệt tử, cho ông là một triết gia “quí hư” (trọng hư tâm, hư tĩnh). 3. Sau cùng như Benedykt Grynpas nói, người ta còn ngờ nếu Liệt tử có thực thì tại sao trong Xung hư chân kinh gồm 144 bài mà chỉ có hai chục bài nói tới Liệt tử[4], mà đa số những bài này không coi Liệt tử là nhân vật chính. Thắc mắc đó thuộc về nội dung và nguồn gốc tác phẩm Liệt tử hơn là về bản thân Liệt tử, cho nên chúng tôi sẽ xét trong tiết II. Vậy chúng ta chưa có một chứng cứ gì để tin rằng Liệt tử là một nhân vật hoang đường. Thực ra các học giả Hồ, Phùng kể trên không chép về Liệt tử vì những lí do khác, chứ không vì không tin rằng Liệt tử là nhân vật có thực. oOo Nhưng về đời sống đời sống Liệt tử chúng ta biết rất ít, chỉ có thể căn cứ vào hai bộ: Nam Hoa kinh và Xung hư chân kinh, mà những bài trong Nam Hoa kinh nói về Liệt tử cũng gần giống Trang 2/54 http://motsach.info Liêt Tử Và Dương Tử Nguyễn Hiến Lê hệt Xung hư chân kinh, rốt cuộc tuy hai nguồn gốc mà cũng như một. Chúng tôi lựa Xung hư chân kinh vì tài liệu dồi dào hơn. Như trên chúng tôi đã nói, trong Xung hư chân kinh có khoảng hai chục bài chép về Liệt tử. Bài đáng tin nhất là bài chúng tôi đánh số VIII.6 trong thiên Thuyết phù, và I.1 trong thiên Thiên thuỵ. Theo hai bài đó, Liệt tử là người nước Trịnh, một nước chư hầu nhỏ đời Chiến Quốc, nay thuộc tỉnh Hà Nam (sau bị nước Hàn diệt). Không sách nào chép năm sinh, năm tử của ông. Theo bài VIII.6, có lần ông nghèo quá, tướng quốc Trịnh là Tử Dương nghe lời người khác khuyên, cho sứ giả mang lúa lại tặng ông, ông từ chối, vợ ông cằn nhằn, ông đáp: “Tướng quốc đâu phải tự biết ta. Vì nghe lời người khác mà cho ta lúa, thì rồi cũng có thể nghe lời người khác mà bắt tội ta được. Vì vậy mà ta không nhận”. Ít lâu sau dân nổi loạn giết Tử Dương. Nhờ lần đó, không nhận lúa nên ông vô can. Bài I.1, cũng nói ông ở nước Trịnh “bốn chục năm mà không ai nghe danh, từ vua cho tới các quan khanh, đại phu đều coi ông như dân thường; năm đó đói kém quá, ông tính di cư qua nước Vệ”. Vậy Tử Dương tặng ông lúa trễ lắm là vào khoảng ông bốn chục tuổi. Theo Sử kí của Tư Mã Thiên (trong phần Lục Quốc niên biểu, và Trịnh thế gia) thì người nước Trịnh giết tướng quốc Tử Dương vào năm Trịnh Nhu Công thứ 25, tức năm Chu An Vương thứ tư; tính theo Tây lịch vào năm 398 trước công nguyên. Năm đó Liệt tử khoảng từ ba chục đến bốn chục tuổi, và ta có thể đoán ông sinh vào khoảng -430 đến -440; đúng với Vũ Đồng và gần đúng với Grynpas: Vũ Đồng cho Liệt tử sinh vào khoảng -430, mất vào khoảng -349; Grynpas cho Liệt tử sinh vào khoảng -435[5], không cho biết chết khoảng nào. Chúng ta nên nhớ những con số về thời đó xê xích nhau mười, mười lăm năm thì cũng là đúng lắm rồi. Dưới đây chúng tôi kê những năm sinh, tử của một số triết gia quan trọng từ Khổng tử tới Trang tử, theo bảng của Vũ Đồng trong Triết học Trung Quốc đại cương: Khổng tử------551---479 Mặc tử-------.--480---379 (phỏng chừng) Dương Chu----440---380 (-nt-) Lão tử[6]--------430---340 (-nt-) Liệt tử----------430---349 (-nt-) Mạnh tử--------372---289 (-nt-) Trang tử--.-----360---280 (-nt-) Vậy Dương tử, (lớn tuổi hơn cả) Lão tử, Liệt tử sống cùng một thời, thời của các vua nhà Chu: Uy Liệt vương, An vương, Liệt vương và Hiển vương. Trong hai thế kỉ, các nước Tề, Tống, Tấn, Ngô, Việt[7] thay phiên nhau cường thịnh, uy quyền các thiên tử nhà Chu càng ngày càng giảm; Trung Quốc càng lâm vào cảnh loạn lạc, và khoảng giữa thế kỉ thứ IV trước công nguyên, cuối đời Lão tử và Liệt tử, Tần dùng chính sách độc tài, Trang 3/54 http://motsach.info Liêt Tử Và Dương Tử Nguyễn Hiến Lê hiếu chiến của Vệ Ưởng (cũng gọi là Thương Ưởng) mà mạnh lên, lấn át tất cả các chư hầu khác. Thời đó, học thuyết của Khổng, Mặc tỏ ra thất bại, nhân nghĩa đã thành những tiếng sáo, đúng như Dương tử nói, trung không thể cứu được vua mà nghĩa không cứu được đời, chỉ gây hại cho bản thân thôi. Nhà cầm quyền nào cũng chỉ muốn dùng võ lực, và một vua Tần trong bài VIII.7 đã nói: “Thời nay các chư hầu dùng võ lực mà tranh nhau, chỉ cần binh khí và lương thực; nếu chúng ta dùng nhân nghĩa mà trị nước thì là theo con đường diệt vong mất”. Và Dương, Lão, Liệt chết không bao lâu thì Mạnh tử cất tiếng than: “Người ta đánh nhau để tranh đất, giết người đầy đồng, đánh nhau để tranh thành, giết người đầy thành”. Liệt tử tuy đồng thời với Dương và Lão, nhưng chắc ít tiếp xúc với hai nhà đó vì cả ba đều ít đi đâu, thích ở ẩn, không bôn ba như Khổng, nhất là Mặc. Khi thôi học Hồ Khâu Tử Lâm, ông mở trường, môn sinh chắc không đông lắm vì thời nào hạng người ưa đạo hư tĩnh, không màng danh lợi cũng ít hơn hạng muốn ra làm quan, mà ông cũng không nổi tiếng. Bài IV. 5 bảo: “...số người xin học có hằng trăm, tới hoài không hết, Liệt tử không biết là bao nhiêu nữa, ...xa gần không ai không biết tiếng”. Lời đó mâu thuẫn với bài I.1, mà xét phần sau của bài (thầy trò Liệt tử qua thăm Nam Quách tử) thì có tính ngụ ngôn, cho nên không đáng tin. Hình như Liệt tử không lãnh một chức vụ gì cả, có lần qua nước Vệ vì ở Trịnh đói kém, một lần khác qua Tề nửa đường trở về (bài II.14), vì ngại vua Tề sẽ giao phó trọng trách cho, ông ta phải gắng sức mà không được an nhàn. Vậy ta có thể tin rằng ông sống đạm bạc, nhờ môn sinh cung cấp, không bôn ba để hăng hái cứu đời, cũng như hết thảy các nhà trong phái Lão tử hoặc Dương tử. Còn những chi tiết khác như Liệt tử học bắn với Bá Hôn Vô Nhân (bài II.5), rồi học bắn nữa với Quan Doãn tử[8] (bài VIII.3), Liệt tử học Lão Thương (bài IV.6)... theo chúng tôi, đều có tính cách ngụ ngôn cả. Không rõ Vũ Đồng căn cứ vào đâu mà bảo Liệt tử mất hồi trên dưới tám chục tuổi. Chú thích: [1] Theo Benedykt Grynpas, một số học giả Âu như Balfour Eitel, A. Giles cũng chủ trương như vậy. [2] Chúng tôi nghĩ rằng Trang tử chưa chắc đã tin dị đoan vì trong thiên Thu Thuỷ có nói rằng người biết đạo thì hiểu lí, lửa nước, cầm thú không làm hại được, không phải vì khinh thường vạn vật mà vì biết xét suy sự an nguy, bình tâm trước hoạ phúc, thận trọng trong việc lui tới (sát hồ an nguy, ninh ư hoạ phúc, cần ư khứ tựu). Vậy Trang không bảo rằng nhảy vào lửa mà không cháy, nhảy xuống nước mà không không chìm. [3] Ngoài ra, Nam Hoa kinh còn bốn chỗ nữa nhắc đến Liệt tử, như trong các thiên Chí Lạc, Liệt Ngự Khấu, Nhượng vương, Đạt sinh, nhưng những thiên đó có thể do người đời sau nguỵ tạo, nên chúng tôi không xét tới. [Trong bộ Trang tử và Nam Hoa kinh, viết sau bộ LT&DT này, cụ NHL cho rằng thiên Thu thuỷ mà cụ nói đến trong chú thích trên, cũng không phải do Trang tử viết, nên cụ không dùng thiên này để xét tư tưởng của Trang tử. (Goldfish)]. Trang 4/54 http://motsach.info Liêt Tử Và Dương Tử Nguyễn Hiến Lê [4] So với 23 bài nói về Dương Chu. [Chú thích này, bản của nhà VT-TT không in. (Goldfish)]. [5] Bản Lá Bối in là: khoảng -450. (Goldfish). [6] Thời trước người ta cho rằng Lão tử sinh trước Khổng Tử, các học giả Trung Hoa gần đây cho thuyết cũ sai, sửa lại như vậy. [7] Người ta thường nói đến ngũ bá: Tề Hoàn công, Tống Tương công, Tấn Văn công, Tầm Mục công, Sở Trang công. Chúng tôi nghĩ nên kể thêm Ngô vương Phù Sai và Việt vương Câu Tiển cũng rất oanh liệt một thời, về võ bị không thua một nước nào. [8] Tên là Hỉ (-440 -430 theo Vũ Đồng), một triết gia cũng trạc tuổi Liệt tử, coi cửa Hàm Cốc, vì vậy mà gọi là Quan Doãn, theo truyền thuyết, được Lão tử giao cho bản Đạo Đức kinh trước khi rời Trung Quốc qua phương Tây. [Chú thích của cụ NHL trong Trang tử và Nam Hoa Kinh: Họ Doãn, tên Hi, môn đệ của Lão tử, làm quan coi cửa ải Hàm Cốc, nên gọi là Quan (coi cửa ải) Doãn. (Goldfish)] Trang 5/54 http://motsach.info Liêt Tử Và Dương Tử Nguyễn Hiến Lê NGUỒN GỐC TÁC PHẨM XUNG HƯ CHÂN KINH Trong số các tác phẩm triết học đời Xuân Thu và Chiến Quốc, có lẽ chỉ có ba bộ Luận ngữ, Đạo Đức kinh và Mạnh tử là tin được gần hết (nên kể thêm bộ Đại học và Trung Dung chăng?), còn thì chỉ đáng tin một phần nào thôi. Già nửa những bộ Trang tử, Mặc tử là do phần người sau viết, ngay đến Tuân tử và Hàn Phi tử xuất hiện ở cuối thời Chiến Quốc mà cũng có nhiều thiên người đời sau thêm vô, còn bộ Quản tử, Quan Doãn tử, Án tử xuân thu... thì hoàn toàn là nguỵ tác. Nạn nguỵ tác đó, Hồ Thích đã đưa ra hai nguyên nhân: - Người đời sau có một tư tưởng nào đó, muốn đem ra dạy đời, cải tạo xã hội, nhưng sợ mình không đủ uy tin, nói không ai nghe, nên gán cho cổ nhân. Trường hợp điển hình là sách của ông Hoàng Đế. Không biết ông có sống thật hay không, cứ theo truyền thuyết thì ông họ Cơ, tên Hiên Viên, là ông vua đầu tiên của Trung Quốc, giữ ngôi đúng trăm năm từ -2698 tới -2597. Người ta gán cho ông bộ Nội kinh, bộ sách thuốc cổ nhất Trung Hoa, và cả bộ Hoàng Đế thư nữa, và coi ông là thuỷ tổ của đạo Lão (trong cuốn Liệt tử này độc giả sẽ đọc được vài đoạn chép lời ông), do đó mà đạo Lão thành ra đạo Hoàng Lão (danh từ này xuất hiện từ thời Chiến Quốc, thế kỉ thứ 4 trước công nguyên). Rồi thêm Nghiêu và Thuấn nữa, sống sau Hoàng Đế ba, bốn trăm năm, cũng được mọi triết gia thời Xuân Thu và Chiến Quốc (nghĩa là hai ngàn năm sau), bất kì trường phái nào: Nho, Mặc, Lão, cả Pháp gia nữa, gán cho những hành vi, tư tưởng hợp với chủ trương của mỗi nhà, mà chủ trương của họ có khi trái ngược hẳn nhau. Hết đời Chiến Quốc, các tư tưởng gia cỡ nhỏ hơn, không “khai thác” các ông thánh Hoàng Đế và Nghiêu, Thuấn mà khai thác những ông hiền gần hơn tức Lão, Trang, Mặc, Dương, Liệt, Quản, Án v.v... - Một nguyên nhân nữa, sau nạn “đốt sách chôn nho” đời Tần Thuỷ Hoàng, một số vua đời Hán sưu tầm sách cổ, và người ta nguỵ tác rồi gán cho các triết gia Tiên Tần để dâng triều đình mà lãnh thưởng. - Chúng tôi nghĩ tất còn một nguyên nhân thứ ba nữa: vô tình nhầm lẫn: của tác giả này mà cho là của tác giả khác. Trường hợp này thời nào cũng xảy ra, chẳng hạn như ở người ta, có những bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm gán cho Nguyễn Trải và ngược lại. Bộ Liệt tử, còn hơn bản thân của Liệt tử nữa, bị rất nhiều học giả nghi ngờ. Một số người cực đoan như Cao Tự Tôn (đã dẫn ở trên) và Diêu Tế Hằng đời Thanh cho là hoàn toàn do người đời Nguỵ (220-264), Tấn (265-290) nguỵ tác; một số khác, đông hơn, nhận rằng bộ đó tuy không phải của Liệt tử viết, nhưng có một phần đáng tin là chép tư tư tưởng của Liệt tử, và người chép phải là người thời Chiến Quốc; trải qua đời Hán, tới đời Nguỵ, Tấn người sau phụ thêm vào mà thành bản chúng ta có ngày nay. Người đầu tiên sưu tập và phê bình qua loa bộ đó là Lưu Hướng, một học giả đời Hán (sanh năm -79, mất năm -8), thờ các vua Tuyên Đế, Nguyên Đế, Thành Đế, làm tới chức Quan lộc đại phu, Trang 6/54 http://motsach.info Liêt Tử Và Dương Tử Nguyễn Hiến Lê tác giả những bộ Hồng phạm ngũ hành truyện, Liệt nữ truyện, Liệt tiên truyện, Thuyết Uyển... Trong bài Tựa, ông bảo thời Hiếu Cảnh Đế (-156 -140), vì nhà vua mộ đạo Lão, Trang, nên bộ Liệt tử khá được lưu hành, rồi sau tán thất, ông bỏ công ra sưu tầm được tám thiên, trong số đó có những thiên Mục vương, Thang vấn, Lực mệnh và Dương tử, còn bốn thiên kia chúng ta không biết nhan đề. Bản đó cách thời Liệt tử non ba trăm năm, có thể coi là bản cổ nhất, chứ không thể coi là nguyên bản. Lại loạn lạc, tán thất một lần nữa, và lại trên ba trăm năm sau, đời Hoài Đế nhà Tấn (307-312), một học giả, Trương Trầm, mất công sưu tầm lại, cũng được tám thiên, rồi hiệu đính, chú giải. Bản hiện nay lưu hành chính là bản của Trương Trầm, ngoài bốn thiên nhan đề kể trên, còn bốn thiên: Thiên thuỵ, Hoàng Đế, Trọng Ni và Thuyết phù. Từ đó, trải qua cùng đời Đường, Tống, Thanh, thời nào cũng có những bản hiệu đính, bình chú thêm. Xét nội dung bản hiện lưu hành – tức bản Trương Trầm – thì quả thực khó mà tin được là của Liệt tử viết, mà cũng không phải là của một người viết. Cảm tưởng đầu tiên của chúng ta là tác phẩm không có tính cách nhất trí, không có một bộ “kinh” nào mà nội dung tạp như vậy. Trong số 144 bài, chỉ có khoảng hai chục bài viết về Liệt tử, mà 9 bài là do đệ tử viết vì gọi Liệt tử là “Tử Liệt tử” (thầy Liệt tử), còn trên mười bài kia – có bài mâu thuẫn nhau như chúng tôi đã dẫn ở trên – không biết được là của ai viết. Số bài nói về Khổng tử (19) cũng ngang ngang số bài nói về Liệt tử, còn số bài nói về Dương Chu thì vượt hẳn (23); về Lão tử chỉ có 5 bài. Ngoài ra còn có những bài dẫn lời Quan Doãn, Dục tử, cả Quản Trọng và Án Anh nữa. Lại thêm: - cùng một nhân vật mà chép hai tên hơi khác nhau: như Bá Hôn Mâu Nhân, các bài I.1, II.14... chép là Mâu Nhân, bài II.5 chép là Vô Nhân; - cùng một truyện, truyện Khổng Tử ngắm thác nước ở Lữ Lương, được chép làm hai lần, lần đầu: bài II.9, lần sau: bài VIII.10, chỉ khác nhau về lời của người lội nước giảng về thuật lội nước, trong bài trên thuật đó là tập cho thành cái bản tính lội nước, cứ tự nhiên theo cái “đạo” của nước, trong bài dưới, thuật đó là cứ thành tâm tin ở mình, ở nước. Ấy là chưa kể những bài chủ trương mâu thuẫn nhau: Chỗ thì đề cao đạo vô tri, vô vi, chỗ thì lại khuyên phải trọng nhân nghĩa, nên là việc thiện; bài thì bảo danh là luỵ, bài thì bảo danh có hại mà cũng có lợi; cùng một nhân vật, Dương Chu, mà ở đây tả là người nhũn nhặn, ở chỗ khác lại chê là quá tự đắc, vân vân. Nhưng lí do chính làm cho các học giả nghi có sự nguỵ tác của đời sau (Hán, Nguỵ, Tấn), là trong Liệt tử có nhiều bài trùng với các tác phẩm khác. Theo Cao Tự Tôn (do Đường Kính Cảo dẫn trong cuốn Liệt tử - Thương vụ ấn thư quán) thì Trang 7/54 http://motsach.info Liêt Tử Và Dương Tử Nguyễn Hiến Lê thiên Chu Mục vương già nửa lấy trong Mục thiên tử truyện[1], còn thì lấy trong Linh khu[2]; một đoạn nói về hình, khí, chất trong bài I.1, rút trong cuốn Dịch vĩ càn tạc độ; bài V.7 có chép trong Mặc tử. Bài VI. 3 chép truyện Quản Trọng và Bão Thúc Nha gần giống hệt bài Quản Án trong Sử kí của Tư Mã Thiên. Bài IV. 4 (Khổng Tử xét các môn sinh) rõ ràng là chép trong Khổng tử gia ngữ. Bài V.1 (truyền thuyết về trời đất), V.2 (Những cái lạ trong vũ trụ) chép trong Sơn hải kinh[3]. Ngay những bài nói về Liệt tử, chúng ta cũng thấy chép trong Nam Hoa kinh, như: bài II.14 có trong thiên Liệt Ngự Khấu. bài VIII.6 có trong thiên Nhượng vương. bài II.10 và II. 4 có trong thiên Đạt sinh. bài II.20 cũng y hệt truyện Nuôi gà đá trong thiên Đạt sinh, vân vân... Như vậy người ta nghi ngờ Liệt tử là nguỵ thư cũng phải. Chú thích: [1] Chép truyện tây du của Mục vương đời Chu (-1001 -946), gồm nhiều “cố sự” hoang đường như trong Sơn Hải kinh. Tương truyền, cuốn đó được phát giác đời Tấn. [2] Một bộ sách thuốc thời cổ. [3] Một bộ chép những bộ thần quái, có lẽ viết vào đời Chu. Những truyện đó, trong Liệt tử (bài V.2) bảo là “do vua Đại Vũ đi xa mà thấy, ông Bá Ích biết mà đặt tên, ông Di Kiên nghe mà ghi lại”. Trang 8/54 http://motsach.info Liêt Tử Và Dương Tử Nguyễn Hiến Lê TƯ TƯỞNG CỦA LIỆT TỬ Tuy nhiên, nếu chúng ta đọc kỹ tác phẩm, bỏ qua một bên những bài mâu thuẫn với tư tưởng chính trong bộ, và những bài trùng với các bộ khác, thì ta thấy bộ Liệt tử có hai phần chính: - một phần gồm những bài tản mác trong các thiên Thiên thuỵ, Hoàng Đế, Thang vấn, Lực mệnh... diễn những tư tưởng có ít nhiều hệ thống mà ta có thể tạm tin là tư tưởng của Liệt tử do người Chiến Quốc truyền miệng nhau rồi chép lại; - một phần gồm những bài trong thiên Dương Chu, có tính các nhất trí, chép tư tưởng cùng cố sự về Dương Chu. Hai phần đó, chúng tôi sẽ lần lượt xét trong tiết này và tiết sau. oOo Từ Lưu Hướng, Trương Trầm tới nay, người ta đều cho rằng Liệt tử thuộc phái Lão, Trang, sau Lão mà trước Trang. Trong bài Tựa cuốn Liệt tử, Lưu Hướng viết: “Liệt tử là người nước Trịnh, học thuyết của ông gốc ở Hoàng Đế, Lão tử, gọi là Đạo gia... mà (trong cuốn Liệt tử) có nhiều ngụ ngôn, giống với Trang Chu”. Trương Trầm cũng viết: “(học thuyết của Liệt tử) địa khái giống với Lão, Trang, nhất là giống với Trang tử”. Điều đó hiển nhiên, ai cũng thấy, nhưng vì cuốn Liệt tử đã bị người sau tăng bổ, mỗi đời một chút, nên không sao biết được Liệt tử có chịu ảnh hưởng của Lão tử không, nếu có thì tới mức nào; cũng không biết được ông đã ảnh hưởng tới Trang tử ra sao. Đại khái về vũ trụ luận và căn bản luận, ông chủ trương như Lão tử rằng vạn vật tự “vô” mà sinh ra. Trong bài I.1, ông dẫn câu này trong Hoàng Đế thư: “Thần hang bất tử, gọi là Huyền tẫn. Cửa của Huyền tẫn là gốc của trời đất... tạo thành mọi vật mà không mệt”[1]. Câu đó cũng chép trong chương VI bộ Đạo Đức kinh. Hang thì trống rỗng, nên thần hang tượng trưng cái Hư không, cái Vô, nó tạo thành mọi vật. Như vậy là cái “hữu” là từ cái “vô” mà sinh ra. Rồi ông nói tiếp: “Vì vậy mà vật nào sinh ra các vật khác thì không được sinh ra, vật nào biến hoá các vật khác thì không biến hoá”. (Cố sinh vật giả bất sinh, hoá vật giả bất hoá). Trong bài I.2, ông lại nói: “Cái hữu hình từ cái vô hình mà ra”. (Hữu hình giả sinh ư vô hình). Trang 9/54 http://motsach.info Liêt Tử Và Dương Tử Nguyễn Hiến Lê Từ cái “vô” sinh ra Thái dịch trước hết, nghĩa là mới chỉ có sự “biến đổi lớn” thôi, chứ chưa thành “khí”, rồi sau mới biến thành “khí”, “khí” biến thành “hình”, sau cùng “hình” biến thành “chất”[2]. Có khí, hình, chất rồi mà ba cái đó còn chưa tách nhau ra, cho nên gọi là “hỗn luân”; cái hỗn luân đó lại biến đổi nữa mà thành ra Một; Một biến ra thành Bảy; Bảy biến ra thành Chín; tới Chín là cùng; rồi lại trở về Một. Lão tử nói hơi khác: “Đạo sinh ra Một, Một sinh ra Hai, Hai sinh ra Ba, Ba sinh ra vạn vật” (chương 42), nhưng đại ý cũng vậy, và ông cũng cho rằng biến tới cùng rồi thì trở về nguyên thuỷ: “Quay trở lại là cái hoạt động của Đạo”. (Phản giả, Đạo chi động – chương XL). Quan niệm “phản phục” đó là quan niệm chung của nhiều triết gia thời đó, xuất phát từ nhận xét thiên nhiên: hết bốn mùa thì trở lại mùa xuân, trăng tròn thì lại khuyết, hết đêm lại tới ngày, vân vân... Vạn vật cứ sinh sinh hoá hoá, vận chuyển hoài không ngừng, giảm ở phía này thì tăng ở phía khác, đầy ở kia thì vơi ở đây, cứ chầm chậm mỗi ngày một chút, không đột nhiên tăng lên, không đột nhiên giảm đi, vì vậy ta không thấy ngay được, mãi tới sau mới thấy. (bài I.10). Mọi vật đã do “vô” mà sinh ra thì đều ngang nhau, không có cái nào “quí” hơn cái nào. Trời có chức vụ của trời là sinh ra và che chở vạn vật, nhưng trời cũng có sở đoản”, nghĩa là chức vụ cũng bị hạn chế: không thể gây hình mà chở được vạn vật như đất. Đất có chức vụ của đất là gây hình và chở vạn vật nhưng lại không che chở được vạn vật như trời mà cũng không giáo hoá được vạn vật như thánh nhân. Thánh nhân giáo hoá vạn vật nhưng không thể làm trái bản tính của vạn vật. Mà mỗi vật cũng có một chức vụ riêng tuỳ theo khả năng của nó: chẳng hạn con gà đẻ trứng nhưng không thể nhả tơ, con tầm nhả tơ nhưng không sinh mật như con ong... (bài I.3). Ý đó hợp với ý “tề vật” (mọi vật đều ngang nhau) của Trang tử, và được diễn thành một ngụ ngôn thú vị trong bài VII.28. Trong một bữa tiệc, họ Điền nước Tề, nhìn các món cá và chim nhạn người ta dâng lên, bảo: - Trời hậu đãi loài người quá, sinh ra ngũ cốc, cá chim cho chúng ta ăn. Một em bé họ Bão mới mười hai tuổi, đứng dậy phản đối: - Không đúng như lời ngài nói. Vạn vật trong trời đất với chúng ta đều là sinh vật cả, không loài nào quí, không loài nào hèn. Chỉ dùng trí khôn và sức mạnh mà khuất phục lẫn nhau, ăn thịt lẫn nhau thôi, chứ không có loài nào sinh ra để cho loài khác ăn thịt. Loài người thấy cái gì ăn được thì ăn, trời đâu có vì người mà sinh ra các loài đó. Muỗi mòng kia đốt da ta, hổ lang kia ăn thịt ta, có thể nói rằng trời vì chúng mà sinh ra chúng ta không? oOo Về tri thức luận, Liệt tử theo chủ trương hoài nghi. Trong bài I.4, ông tự hỏi: Trời đất có tận cùng không? Rồi ông tự đáp: (Có vẻ như) Trời đất tận cùng với ta. Nhưng như vậy trời đất có thật là tận cùng không thì ta không biết được. Trang 10/54 http://motsach.info
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.