Lịch sử và thực trạng là những vấn đề bức xúc cần sớm giải quyết đối với DNNN

docx
Số trang Lịch sử và thực trạng là những vấn đề bức xúc cần sớm giải quyết đối với DNNN 31 Cỡ tệp Lịch sử và thực trạng là những vấn đề bức xúc cần sớm giải quyết đối với DNNN 83 KB Lượt tải Lịch sử và thực trạng là những vấn đề bức xúc cần sớm giải quyết đối với DNNN 0 Lượt đọc Lịch sử và thực trạng là những vấn đề bức xúc cần sớm giải quyết đối với DNNN 0
Đánh giá Lịch sử và thực trạng là những vấn đề bức xúc cần sớm giải quyết đối với DNNN
4.3 ( 16 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

1 LỜI MỞ ĐẦU DNNN là tế bào kinh tế của một quốc gia, hoạt động kinh doanh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trong khuôn khổ quy định của nhà nước thông qua hệ thống pháp luật.Nhiệm vụ chính cảu doanh nghiệp nhà nước là thực hiện có hiệu quả các hoạt động về kinh tế xã hội và không ngừng phát triển theo quy luật, phát triển kinh tế có định hướng của chính trị xã hội, của nhà nước, trên cơ sở vật chất nguồn vốn nhà nước. Dưới thời bao cấp DNNN hoạt động hoạt động theo cơ chế mệnh lệnh sản xuất kinh doanh, theo kế hoạch tập trung. Việc sử dụng nguồn vốn và nguồn lực thiết bị đều được nhà nước bao cấp. Chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần kinh tế phát triển và sự ạnh tranh ngày càng gay gắt đã tạo sự tác động ngược lại đối với doanh nghiệp nhà nước làm không ít doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Sự bao cấp của nhà nưcớ không còn, việc chuyển đổi cơ cấu nhà nước sang hình thức kinh doanh và tự phát triển cạnh tranh đã làm cho không ít nhà nước tự mình nhìn lại mình. Lịch sử và thực trạng là những vấn đề bức xúc cần sớm giải quyết đối với DNNN Qua bài tập lớn này chúng tôi đề cập nhiều đến hoạt động huy động và sử dụng vốn của DNNN .Tuy đã ccó nhiều cố gắng nhưng do phương pháp luận còn hạn chế, kiến thức hiểu biết chưa sâu nên bài tập còn nhiều thiếu sót mong sự góp ý của thày cùng các bạn. 2 NỘI DUNG Phần I: Lý luận chung I. Đầu tư 1. Khái niệm về đầu tư : Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về đầu tư, trên các góc độ khác nhau: Đầu tư là việc bỏ vốn hoặc chi dùng vốn cùng các nguồn lực khác trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả có lợi trong tương lai. Trên góc độ tiêu dùng: Đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu được một mức tiêu dùng lớn hơn trong tương lai. Trên góc độ tài chính: Đầu tư là một chuỗi hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời. Đầu tư trong doanh nghiệp là hoạt động chỉ định vốn cùng các nguồn lực khác trong hiện tại nhằm duy trì sự hoạt động và làm tăng tài sản cho doanh nghiệp tạo thêm việc làm và nâng cao đời sống của các thành viên trong đơn vị. 2. Vai trò của hoạt động đầu tư đối với doanh nghiệp. Đầu tư giữ vai trò quyết định để nghiên cứu chất lượng, sản phẩm, dich vụ của doanh nghiệp. Đầu tư là cơ sở để đổi mới công nghệ và nâng cao trình độ kĩ thuật Đầu tư tạo điều kiện để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực từ cơ sở nâng cao khả năng cạnh tranh, giảm giá thành tăng lợi nhuận. II. Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp 1. Khái niệm: Nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và của xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. 2. Vai trò của nguồn vốn đầu tư Khi muốn tiến hành bất kì một hoạt động đầu tư nào, yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất là nguồn vốn để đầu tư, làm sao để có thể huy động được nguồn vốn đó? Như vậy có thể nói nguồn vốn đầu tư là một trong những yếu tố chính quyết định sự ra đời tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. Sở dĩ có thể nói vậy vì khi một doanh nghiệp muốn sản xuất, kinh doanh thì đều phải xây dựng cơ sở vật chất cho mình như xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kì của các cơ sở vật chất kĩ thuật vừa được tạo ra. Đối với các cơ sản xuất kinh doanh dịch vụ đang tồn tại sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất – kĩ thuật đã hư hỏng, hao mòn. Để duy trì được hoạt động bình thường cần định kì tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới những cơ sở vật chất – kĩ thuật đó. Doanh nghiệp không những phải duy trì sản xuất mà còn phải đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học kĩ thuật và nhu cầu tiêu 3 dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ lạc hậu, lỗi thời. Muốn làm được những việc này cần phải có nguồn vốn đầu tư. 3. Bản chất của nguồn vốn đầu tư. Xét về bản chất thì nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Điều này được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học Mác – Lênin và kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc” (1776), Adam Smith, môt điển hình của trường phái kinh tế học cổ điển cho rằng: “ Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù cho có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên.” Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ giữa các khu vực của nền kinh tế xã hội, về các vấn đề liên qua trực tiếp đến tích luỹ, K. Mark đã chứng minh rằng: Trong một nền kinh tế với hai khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất, khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm ( c + v + m ) trong đó c là phần tiêu hao vật chất, (v + m) là phần giá trị mới sáng tạo ra. Khi đó, điều kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm bảo: (v + m)I > cII Hay nói cách khác: (c + v + m)I > cII + cI Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế mà còn phải dư thừa để là tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo. Đối với khu vực II yêu cầu phải đảm bảo: (c+ v + m)II < ( v + m )I + ( v+m)II Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thỏa mãn, nền kinh tế mới có thể dành một phần thu nhập để tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô vốn đầu tư cũng sẽ gia tăng. Như vậy theo Mark, để tái sản xuất mở rộng và phát triển sản xuất cần phải phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm trong cả sản xuất và tiêu dùng. - Kinh tế học hiện đại: trong tác phẩm nổi tiếng “lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi xuất và tiền tệ”của mình, John Maynard Keynes đã chứng minh được rằng: đầu tư chính bằng phần thu nhập mà không chuyển thành tiêu dùng. đồng thời ông cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng: Tức là: Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư Tiết kiệm = Thu nhập – Tiêu dùng Như vậy: 4 Đầu tư = Tiết kiệm (I) (S) Tuy nhiên điều kiện cân bằng trên chỉ xảy ra trong điều kiện nền kinh tế đóng. Trong đó, phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân và tiết kiệm của chính phủ. Trong nền kinh tế mở, đẳng thức này không phải lúc nào cũng đúng. Chẳng hạn phần tích lũy của nền kinh tế có thể lớn hơn nhu cầu đầu tư tại một nước, khi đó vốn có thể chuyến sang nước khác để thực hiện đầu tư. Ngược lại, vốn tích luỹ của nền kinh tế có thể ít hơn nhu cầu đầu tư, khi đó nền kinh tế phải huy động tiết kiệm từ nước ngoài. Trong trường hợp này mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài khoản vãng lai. CA = S – I Trong đó CA là tài khoản vãng lai Như vậy trong điều kiện nền kinh tế mở nếu nhu cầu đầu tư lớn hơn tích luỹ của nội bộ nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn từ đầu tư nước ngoài. Khi đó đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ của nền kinh tế có thể trở thành một trong những nguồn vốn đầu tư quan trọng của nền kinh tế. Nếu tích luỹ của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu của đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư tài khoản vãng lai thì quốc gia đó có thể đầu tư vốn ra nước ngoài hoặc cho nước ngoài vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế. III. Nguồn vốn của doanh nghiệp 1. Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp a. Vốn góp ban đầu Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông – chủ sở hữu góp gọi là vốn góp ban đầu Đối với DNNN, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước. Đối với các doanh nghiệp khác, theo Luật doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp phải có số một số vốn góp ban đầu cần thiết để xin đăng kí thành lập doanh nghiệp. b. Thặng dư vốn Trong quá trình đầu tư doanh nghiệp không sử dụng hết số vốn đã huy động nên đem số vốn thừa đó để cho các tổ chức khác vay lại gọi là thặng dư vốn. Vị trí : Giảm chi phí vốn vay khi không sử dụng hết lượng vốn đi vay. c. Thu nhập giữ lại Khái niệm: Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì một phần lợi nhuận không chia sẽ trở thành nguồn vốn tích lũy được sử dụng để tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vị trí: Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp vì doanh nghiệp giảm được chi phí và sự phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều doanh nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại, họ đặt ra mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng. d. Vốn khấu hao Khái niệm: Vốn khấu hao là nguồn vốn được trích lại từ lợi nhuận của doanh nghiệp để sửa chữa lớn hoặc thay mới những cơ sở vật chất – kĩ thuật hư hỏng, hao mòn sau một thời gian hoạt động. 5 Vị trí : Để doanh nghiệp có thể tiến hành hoạt động bình thường trong một thời gian dài. 2. Nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu a. Khái niệm: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới. b. Các loại cổ phiếu Cổ phiếu thường: Là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. Nó có thể được trao đổi, mua bán trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu ưu tiên: Thường chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành . Cổ phiếu ưu tiên thường có đặc điểm là có cổ tức cố định Người chủ cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Nếu số lãi chỉ đủ trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì cổ đông thường sẽ không được nhận cổ tức của kì đó. Việc giải quyết chính sách cổ tức được nêu rõ trong điều lệ công ty. c. Những ưu nhược điểm của doanh nghiệp khi huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu Ưu điểm: Có thể huy động một lượng vốn lớn để phát triển doanh nghiệp. Nhược điểm: Có nguy cơ bị thôn tính công ty. Cần phải tính đến tỉ lệ cổ phần tối thiểu cần duy trì để giữ vững quyền kiểm soát của công ty. 3. Nguồn vốn từ phát hành trái phiếu a. Khái niệm: Trái phiếu là một tên chung của các giấy vay nợ dài hạn và trung hạn bao gồm: trái phiếu chính phủ, và trái phiếu công ty. Trái phiếu còn gọi là trái khoán b. Các loại trái phiếu Trái phiếu có lãi suất cố định: Loại này thường được sử dụng phổ biến nhất trong các loại trái phiếu doanh nghiệp. Lãi suất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kì hạn của nó. Việc thanh toán lãi trái phiếu cũng thường được qui định rõ. Mức độ hấp dẫn của trái phiếu phụ thuộc vào:  Lãi suất của trái phiếu  Kỳ hạn của trái phiếu  Uy tín của doanh nghiệp Trái phiếu có lãi suất thay đổi: Là trái phiếu có lãi suất phụ thuộc vào một nguồn lãi suất quan trọng khác. Trái phiếu có thể thu hồi: Là loại trái phiếu mà doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời gian nào đó. Doanh nghiệp phải quy định rõ thời hạn và giá cả khi doanh nghiệp chuộc lại trái phiếu. Trái phiếu có thể chuyển đổi: là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi thành một số lượng nhất định các cổ phiếu thường. Nếu thị giá của cổ phiếu tăng lên thì người giữ trái phiếu có cơ may nhận được lợi nhuận cao. 4. Tín dụng ngân hàng 6 4.1. Đặc điểm Vốn tín dụng ngân hàng là hình thức huy động vốn phổ biến của các doanh nghiệp hiện nay.Nhưng để vay được vốn từ ngân hàng doanh nghiệp cần phải có điều kiện nhất định. Điều kiện tín dụng: các ngân hàng thương mại khi cho doanh nghiệp vay vốn luôn luôn phải đảm bảo an toàn tín dụng, hạn chế rủi ro tín dụng thông qua một hệ thống bảo đảm tín dụng. Trước tiên, ngân hàng phải phân tích hồ sơ xin vay vốn, đánh gía các thông tin liên quan đến dự án đầu tư hoặc kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn. Doanh nghiệp phải cung cấp những báo cáo tài chính và những thông tin cần thiết khác theo yêu cầu của ngân hàng Các điều kiện bảo đảm tiền vay: Khi doanh nghiệp xin vay vốn, nói chung các ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp đi vay phaỉ có bảo đảm tín dụng phổ biến nhất là tài sản thế chấp.Việc yêu cầu người vay có tài sản thế chấp trong nhiều trường hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng các điều kiện vay kể cả thủ tục pháp lý về giấy tờ … Sự kiểm soát của ngân hàng cho vay: Một khi doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thì doanh nghiệp cũng phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử dụng vốn vay.Tuy sự kiểm soát của ngân hàng không gây ra vấn đề lớn nhưng doanh nghiệp vẫn có cảm giác bị kiểm soát Lãi suất vay vốn: Lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất vốn tín dụng ngân hàng phụ thuộc vào tình hình sử dụng vốn tín dụng trên thị trường trong từng thời kỳ.Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp 4.2. Các hình thức cho vay Về mặt thời gian có thể phân thành : Vay dài hạn: thường là từ 5 năm trở lên Vay trung hạn : từ 1 đến 5 năm Vay ngắn hạn: dưới 1 năm Tuỳ theo hình thức sử dụng mà ngân hàng có các hình thức cho vay khác nhau: Vay đầu tư tài sản cố định, vay vốn lưu động, vay để phục vụ dự án Cũng có những hình thức cho vay khác như: vay theo ngành kinh tế, theo lĩnh vực phục vụ hoặc vay theo hình thức bảo đảm các khoản vay 4.3. Vai trò của vốn tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp Vốn tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng của doanh nghiệp.Trên thực tế các doanh nghiệp muốn mở rộng quy mô sản xuất đều có sự trợ giúp của hoạt động ngân hàng . Có thể nói rằng : Không một công ty nào có thể hoạt động tốt mà không vay vốn ngân hàng nếu công ty đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường.Trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu. 5. Tín dụng Thương mại 7 Nguồn vốn tín dụng thương mại là một nguồn hình thành tự nhiên trong quan hệ mua bán trả chậm trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ đối với các doanh nghiệp mà đối với toàn bộ nền kinh tế. Trong một số công ty nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản phải trả có thể chiếm tới 20% trên tổng số nguồn vốn, thậm chí có thể chiếm tới 40%. Nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh; mặt khác nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Chi phí của việc sử dụng các nguồn vốn tín dụng thể hiện qua lãi suất các khoản vay, đó là chi phí lãi vay, sẽ được tính vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ. Khi mua bán hang hoá trả chậm chi phí này có thể “ẩn” dưới hình thức thay đổi mức giá, tuỳ thuộc vào quan hệ và thoả thuận cụ thể giữa các bên. Trong xu hướng hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới, các hình thức tín dụng ngày càng đa dạng hoá và linh hoạt hơn, với tính chất cạnh tranh hơn; Do đó, các doanh nghiệp có nhiều cơ hội để lựa chọn nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. IV. Các hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp DN muốn tồn tại và phát triển thì phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ.DN muốn cạnh tranh thì sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp phải bắt kịp với nhu cầu của thị trường. Muốn như vậy thì DN phải luôn tiến hành đổi mới dây chuyền sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến hiện đại, mở rộng qui mô sản xuất và nâng cao năng suất lao động….Đấy chính là các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Các hoạt động đầu tư của DN bao gồm: 1. Đầu tư xây dựng cơ bản: bao gồm các hoạt động xây lắp, mua sắm máy móc và thiết bị. Đây là hoạt động đầu tư quan trọng trong DN,là hoạt động tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho DN. Trong DN vốn chi cho hoạt động này chiếm một tỷ trọng rất lớn. Thường chiếm trên 50% vốn bỏ ra ban đầu của DN. 2. Đầu tư bổ sung hàng dự trữ: để cho DN luôn trong thế chủ động đáp ứng được nhu cầu thị trường và hoạt động một cách hiệu quả nhiều DN tỷ trọng vốn đầu tư cho mua sắm hang dự trữ là lớn. 3. Đầu tư nghiên cứu triển khái (R&D) công nghệ khoa học - kỹ thuật nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp. Đây là hoạt động quan trọng nằm trong chiến lược hoạt động của doanh nghiệp vì KH-CN càng ngày càng phát triển với tốc độ rất nhanh chon. Nếu DN không đầu tư cho hoạt động này thì sẽ bị tụt hậu và không thể cạnh tranh được trên thị trường 4.Đầu tư phát triển nguồn nhân lực(NNL): NNL là yếu tố quan trọng trong hàm sản xuất của doanh nghiệp. Một DN có chất lượng nguồn nhân lực cao sẽ có nhiều tiềm năng để đưa DN đi lên và luôn phát triển. 5.Đầu tư cho hoạt động quảng cáo, tiếp thị sản phẩm: Quảng cáo không thể thiếu trong kinh doanh. Quảng cáo, tiếp thị giúp cho sản phẩm và dịch vụ của DN có thể đến với khách hang. Hiện nay, trong các DN thì hoạt động quảng cáo và tiếp thị diến ra liên tục và hoạt động này sử dụng một lượng vốn chiếm tới 5% trong vốn chi cho hoạt động trong DN. 6.Các hoạt động đẩu tư khác. 8 Đầu tư bất động sản; đầu tư tài chính; Đầu tư tín dụng chứng khoán….các hoạt động này không trực tiếp sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ cho DN nhưng nó mang lại một nguồn thu nhập đáng kể cho DN. Khi tiến hành cáchoạt động đầu tư thì DN sẽ tiến hành đầu tư theo chiều sâu hoặc đầu tư theo chiều rộng.  Đầu tư theo chiều rộng: là hình thức đầu tư trên cơ sở cải tạo, mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, xây dựng mới nhưng với kỹ thuật công nghệ như cũ  Đầu tư theo chiều sâu : là hình thức đầu tư trên cơ sở nâng cấp đồng bộ hoá , hiện đại hoá, cơ sở vật chất hiện có. Là việc đầu tư mới nhưng với công nghệ kỹ thuật hiện đại mức thiết bị tiên tiến của nghành, địa phương. Phần II. Thực trạng huy động và sử dụng vốn trong các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. I. Thực trạng huy động vốn trong các DNNN hiện nay. 1. Thực trạng cổ phần hoá. Các DNNN ở nước ta do yếu lịch sử đã và đang đóng góp vai trò to lớn gần như tuyệt đối trong mọi lĩnh vực nhưng lại hoạt động kém hiệu quả. Quá trình chuyển đổi đất nước sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước tất yếu phải đổi mới căn bản DNNN. Sắp xếp chuyển đổi sở hữu DNNN mà trọng tâm là cổ phần hoá DNNN được coi là xương sống của công cuộc đổi mới về kinh tế. Đổi mới, sắp xếp và phát triển DNNN là một chủ trương lớn của đảng và nhà nước ta. Chủ trương này đã được triển khai thực hiện trong gần 20 năm qua. Qua CPH, DNNN đã chuyển thành DN có nhiều chủ sở hữu, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động, huy động thêm được nguồn vốn của xã hội vào sản xuất, kinh doanh, hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng hội nhập của DN được nâng lên. Mặc dù có những thăng trầm, nhưng công cuộc sắp xếp lại DNNN ở nước ta đã đem lại những kết quả đáng ghi nhận. Việc sắp xếp DNNN được thực hiện bằng các giải pháp: sáp nhập, hợp nhất, CPH, giao, khoán, bán cho thuê DN, tổ chức lại các tổng công ty và thành lập các tập đoàn kinh tế. Trong tất cả các giải pháp đó, CPH được coi là giải pháp cơ bản và quan trọng nhất để cơ cấu lại DNNN. Sau 15 năm kể từ khi thực hiện đổi mới chúng ta đã thành lập được 2987 công ty cổ phần trên cơ sở CPH DNNN và bộ phận DNNN. Đến hết tháng 8-2006, cả nước đã sắp xếp được 4.447 doanh nghiệp, trong đó, cổ phần hoá 3.060 doanh nghiệp. Riêng từ năm 2001 đến nay đã sắp xếp được 3.389 doanh nghiệp (bằng 68% số DNNN có vào đầu năm 2001). Hình thức sắp xếp phổ biến nhất là cổ phần hoá. Hình thức CPH phổ biến nhất là bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, kết hợp phát hành thêm cổ phần (hình thức này chiếm 43,4%), tiếp đó là bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp (hình thức này chiếm 26%), còn lại là bán toàn bộ vốn (hình thức này chiếm 15,5%), giữ nguyên vốn nhà nước và phát hành thêm cổ phiếu (chiếm 15,1%). Hiệu quả CPH: Số lượng doanh nghiệp cổ phần hoá (DN CPH) tăng mạnh: Tính đến 30/6/2006, cả nước đã cổ phần hoá được 3.365 doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp, trong đó chỉ tính riêng năm 2005 thực hiện cơ chế cổ phần hoá theo Nghị định 187/2004/NĐ-CP đã có 967 đơn vị được phê duyệt phương án cổ phần hoá. 9 Thông qua cổ phần hoá đã huy động được trên 22.000 tỷ đồng vốn nhàn rỗi trong xã hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh. DN CPH có quy mô vốn lớn hơn trước đây: Trong số 967 đơn vị đã được phê duyệt phương án cổ phần hoá trong năm 2005 thì có tới 310 đơn vị có số vốn trên 10 tỷ đồng (chiếm 32%), trong đó có gần 10 doanh nghiệp có vốn nhà nước trên 300 tỷ đồng. Nếu như trước năm 2005 vốn nhà nước trong 2.307 đơn vị cổ phần hoá chỉ khoảng 20 ngàn tỷ đồng, bằng 8% tổng số vốn nhà nước tại doanh nghiệp, thì chỉ riêng năm 2005 vốn nhà nước trong 967 đơn vị cổ phần hoá đã đạt 20 ngàn tỷ đồng, bằng 8% tổng số vốn nhà nước. Theo điều tra cho thấy, sau CPH vốn bình quân một doanh nghiệp tăng từ 24 tỷ $ (2001) lên 63,6 tỷ $ (2004), có tới 92,5% số doanh nghiệp được điều tra cho rằng có lãi, LNTT tăng 149,8%, LNST tăng bình quân 182,3%, mức nộp NSNN bình quân tăng 26,53%, NSLĐ tăng trung bình 63,9%, TN bình quân của người lao động tăng 35,4% so với trước CPH, lao động tăng do mở rộng sản xuất, cổ tức cao hơn nhiều so với lãi suất ngân hàng. Năm 2004, theo kết quả điều tra của Ban chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp Trung ương đối với trên 500 doanh nghiệp nhà nước hoàn thành việc cổ phần hoá và đa dạng hoá quan hệ sở hữu trên một năm cho thấy, hiệu quả sản xuất kinh doanh đã có những chuyển biến tích cực: vốn điều lệ tăng từ 50 đến 100%; doanh thu tăng 60%; lợi nhuận trước thuế tăng 130%, nộp ngân sách tăng 45%; thu nhập người lao động tăng 63%. CPH tuy đã đạt được một số kết quả tích cực nhưng so với yêu cầu đổi mới còn chậm. vốn nhà nước trong các DNNN đã CPH còn nhỏ và việc huy động vốn trong quá trình chưa được nhiều, thời gian CPH dài. Nhìn chung các doanh nghiệp được cổ phần hoá đến nay vẫn còn nhỏ, chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư có tiềm năng lớn về vốn, công nghệ, thị trường và kinh nghiệm quản lý; chưa thật sự đổi mới trong quản lý nội bộ doanh nghiệp, chưa phân biệt và có nhận thức rõ về vai trò người đại diện sở hữu phần vốn nhà nước và người trực tiếp sở hữu doanh nghiệp cổ phần. tình trạng các cổ đông chuyển nhượng cổ phiếu không đúng thủ tục luật pháp còn nhiều và có hiện tượng mua gom cổ phiếu… DNNN chiếm tỷ trọng ít về số lượng nhưng lại nắm một phần rất lớn về vốn. lượng vốn nằm trong các DNNN lên tới 270 ngàn tỷ đồng nhưng không được sử dụng có hiệu quả, sự thất thoát vốn không phải là nhỏ. Ngoài ra DNNN còn sử dụng tới 7080% vốn tín dụng của ngân hàng quốc doanh. nhiều DNNN đã lợi dụng lợi thế vị thế “chủ đạo” của mình biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp gây ra những xáo động không nhỏ trong nền kinh tế. trong số hơn 3000 DN và bộ phận DN đã cổ phần hoá thì chỉ có 30% nhà nước không giữ một đồng vốn nào, nhà nước giữ cổ phần chi phối trên 51% tại 29% DN. Thí dụ Tổng công ty Điện lực Việt Nam còn nắm tới 65% vốn của nhà máy thuỷ điện Vĩnh Sơn-Sông Hinh, 75% vốn của nhà máy thuỷ điện Thác Bà và nhiệt điện Phả Lại. Với tỷ lệ cao như vậy các cổ đông bên ngoài hầu như không có quyền hạn gì. Điều này cho thấy, mặc dù đã cổ phần hoá nhưng nhà nước vẫn là cổ đông lớn nhất. Điều đáng nói là tỷ lệ vốn điều lệ mà nhà nước còn nắm tại các cty cổ phần không giảm mà ngày càng tăng. Nếu thời kỳ đầu (1992-1998) tỷ lệ cổ phần mà nhà nước nắm trong các cty cổ phần là 28% thì đến thời kỳ 2001-2004, tỷ lệ này lên tới 49,8% và hiện nay bình quân là 46,5%. Đây 10 chính là điều hạn chế sự tham gia tiến trình cổ phần hoá của các nhà đầu tư chiến lược. Hầu hết các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá họ vẫn sử dụng gần như toàn bộ bộ máy quản lý cũ. Theo điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, thì sau khi cổ phần hoá, 81,5% giám đốc doanh nghiệp được giữ nguyên chức vụ; khoảng 78% chức vụ phó giám đốc; kế toán trưởng không có sự thay đổi và không có doanh nghiệp nào sau cổ phần hoá sử dụng cơ chế thuê giám đốc điều hành. Điều này làm giảm sức sáng tạo, tư duy kinh tế, trình độ và cung cách điều hành DN ít có sự thay đổi sẽ gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Theo quy định hiện nay, toàn bộ tiền thu về cổ phần hoá sau khi trừ các khoản chi phí cổ phần hoá; chi cho người lao động thôi việc, mất việc, đào tạo lại theo phương án cổ phần hoá được duyệt được chuyển về tổng công ty (cổ phần hoá đơn vị thành viên tổng công ty), công ty mẹ (cổ phần hoá bộ phận doanh nghiệp) hoặc về Quỹ sắp xếp cổ phần hoá Bộ Tài chính (cổ phần hoá các đơn vị độc lập thuộc bộ, ngành, địa phương). Quy định này có hạn chế là trong trường hợp doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá dưới hình thức phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn, toàn bộ khoản chênh lệch do bán đấu giá cổ phần đều phải nộp cho Nhà nước hoặc cho tổng công ty, công ty mẹ mà không được để lại cho doanh nghiệp thực hiện đầu tư, mở rộng sản xuất nên thực tế nhiều DNCPH chỉ chú trọng hình thức bán bớt vốn nhà nước tại doanh nghiệp. 2. Thực trạng huy động vốn từ tín dụng ngân hàng Đối với hoạt động tín dụng ngân hàng, việc đổi mới cơ chế tín dụng phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước được tiến hành đồng thời với quá trình sắp xếp đổi mới DNNN đã và đang có những tác động tích cực, nhưng cũng phát sinh những khó khăn vướng mắc và rủi ro tín dụng ở nhiều DN thuộc các bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các tỉnh quản lý. Mặt tích cực: DNNN được phân cấp mạnh hơn trong quyết định đầu tư, quản lý tài chính, đấu thầu, thực hiện tiết kiệm chi phí, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh. Điều này tạo điều kiện cho các NHTM rút ngắn khả năng tiếp cận, thẩm định nhu cầu vay vốn, đánh giá khả năng trả nợ để xử lý và phân loại và phản ánh chính xác hơn chất lượng tín dụng. Hạn chế: Tỷ trọng dư nợ vau có đảm bảo đã được nâng lên nhưng tỷ lệ lớn các tài sản thế chấp của DNNN không đảm bảo điều kiện đăng ký giao dịch do giấy tờ không đủ, chưa chuẩn mực, giá trị tài sản thế chấp còn đánh giá chưa sát thị trường. Việc giám sát mục đích sử dụng và hiệu quả vốn vay đối với các khoản vay của DN còn khó khăn, nhiều lúc bị động theo khách hàng. Các Ngân hàng thương mại mặc dù vẫn rất tích cực trong hỗ trợ vốn cho hệ thống các DNNN nhưng nghi ngại tính khả thi, hiệu quả sử dụng vốn và khả năng hoàn vốn của DNNN và bởi một số các lý do khác sau: Việc tài trợ cho các DNNN gặp rất nhiều khó khăn trong công tác thu hồi vốn để tái đầu tư. Nợ xấu, nợ quá hạn lớn phần nhiều cũng nảy sinh từ hoạt động tài trợ cho các DN này, dẫn đến khả năng sinh lời của các NHTM thấp do phải thực hiện trích lập dự phòng rủi ro lớn theo quy định hiện hành 11 Nợ tồn đọng trong các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là doanh nghiệp ngành xây lắp chưa được giải quyết thoả đáng. Các doanh nghiệp không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ Ngân hàng trong khi các NHTM lại chưa nhận được sự hỗ trợ để thu hồi nợ vay từ các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Phát mại tài sản bảo đảm hiện nay là trở ngại lớn cho các NHTM (đặc biệt là tài sản của các doanh nghiệp Nhà nước) vì đa phần các tài sản chưa đủ cơ sở pháp lý để thế chấp, cầm cố. Vì vậy, khi xử lý tài sản đảm bảo Ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn và làm giảm sút giá trị của tài sản. Xử lý tranh chấp liên quan đến nợ vay giữa Ngân hàng và doanh nghiệp nhiều khi còn chưa công bằng, quyền lợi của Ngân hàng chưa được bảo đảm khi doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng thanh toán Trong nền kinh tế thị trường đang hội nhập, doanh nghiệp nhà nước ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Hoạt động của doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả, khả năng tạo ra lợi nhuận kém, hàng tồn kho tiêu thụ chậm, công nợ chưa thanh toán được... cộng thêm các cơ chế, quy chế quản lý của doanh nghiệp nhà nước cũng ngày càng trở nên bất cập với thực tiễn , bộ máy quản lý cồng kềnh, trình độ quản lý tài chính và hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao... khiến các ngân hàng e ngại khi xem xét cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước thường có nguồn vốn tự có thấp nên khả năng tự chủ về tài chính không cao. Để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động các đơn vị này thường phải vay vốn ngân hàng có những phương án tỷ lệ vay vốn có thể lên đến 100% nhu cầu thanh toán. Phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước không có tài sản bảo đảm nên việc cho vay thường thực hiện theo hình thức tín chấp. Việc cho vay tín chấp mang nhiều rủi ro tiềm ẩn cho ngân hàng. Một số trường hợp khách hàng có tài sản là bất động sản có giá trị khá lớn nhưng giấy tờ chứng minh sở hữu thường không đầy đủ. Ngân hàng muốn lấy tài sản này làm đảm bảo cho khoản vay nhưng lại không thực hiện được việc ký hợp đồng thế chấp và không đăng ký được giao dịch bảo đảm. Theo hội nghị phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp của Trung tâm Thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước: "Doanh nghiệp Nhà nước là loại hình doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả nhất. Qua phân tích cho thấy doanh nghiệp nhà nước vay nợ nhiều, khả năng tự chủ tài chính thấp, khả năng sinh lời thấp, độ rủi ro cao". Tất cả những điều đó đã dẫn đến rủi ro đối với nguồn vốn tín dụng cao và kết quả là nhiều doanh nghiệp nhà nước đã bị mất niềm tin đối với ngân hàng và các ngân hàng tuy không "ngoảnh mặt" lại với doanh nghiệp nhà nước nhưng họ rất thận trọng khi tài trợ mới hoặc tiếp tục tài trợ Các doanh nghiệp trong ngành xây dựng hiện đang trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng. Để bảo đảm kế hoạch đầu tư, các tổng công ty hầu như phải đi vay là chính, vốn tự cho các doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước nói chung khi chuyển sang công ty cổ phần hoạt động theo Luật doanh nghiệp đều gặp khó khăn trong vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, mặc dù thắt chặt tín dụng không có nghĩa là phân biệt đối xử.có chỉ đạt 2- 3% tổng mức đầu tư, áp lực trả nợ rất căng thẳng. Song, chính các công ty cổ phần (CTCP) lại là những doanh nghiệp đang hoạt động theo Luật doanh nghiệp gặp khó khăn nhất về vốn, bởi vì những quy định thắt chặt 12 trong vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Đây cũng là một trong những lý do khiến nhiều lãnh đạo các cấp còn băn khoăn, chưa chỉ đạo quyết liệt, người lao động lo lắng, bất an… gây ảnh hưởng đến chỉ tiêu kế hoạch CPH từ đầu năm đến nay. Công ty cơ khí và xây lắp Thái Bình (COMA 16) là doanh nghiệp không nằm trong danh sách các đơn vị của COMA trong Đề án tổng thể sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp của Bộ Xây dựng. Song vì mục tiêu đẩy nhanh hơn nữa việc CPH doanh nghiệp, COMA 16 trở thành 1 trong 3 công ty được tổng công ty trình Bộ phê duyệt CPH trong năm 2004. COMA 16 đã quán triệt nghiêm túc chủ trương của Đảng, Nhà nước, tích cực tổ chức thực hiện các quy định của Bộ, quyết tâm đến tháng 10/2004 sẽ hoàn thành xong các bước chuyển sang công ty cổ phần. Sẽ không có gì khó khăn bởi đây là doanh nghiệp cơ khí làm ăn đang có hiệu quả, là một điển hình của các doanh nghiệp trên địa bàn Thái Bình trong hoạt động vay và trả nợ ngân hàng đúng hạn. Nhưng ngay từ khi vừa nhận được quyết định CPH, cán bộ của ngân hàng đã đến tận công ty thông báo: ngân hàng cấp trên đã có "chỉ đạo" sẽ thực hiện hạn chế tối đa các hợp đồng vay vốn, tích cực thu hồi nợ cho đến khi công ty thực hiện CPH xong để chuyển sang hoạt động theo Luật doanh nghiệp thay vì theo Luật doanh nghiệp nhà nước trước đây. Điều này ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất của công ty. Hiện nay, công ty đang thực hiện khối lượng lớn chế tạo cột điện cho đường dây tải điện 500 KV đoạn Đà Nẵng - Thường Tín và Việt Trì - Sơn La, chế tạo thiết bị cho dự án Nhà máy xi măng Sông Gianh... nhưng chỉ ứng được 7 - 8% giá trị hợp đồng, nên nhu cầu vốn vay lưu động để duy trì sản xuất thường xuyên cần từ 5 - 6 tỷ đồng. Theo sổ sách kế toán, công ty đang quản lý tài sản trị giá 7 tỷ đồng, có khả năng vay tới 10 tỷ đồng. Ông Vũ Đức Dũng, Giám đốc công ty lo ngại: "Sau khi xác định lại để CPH, giá trị doanh nghiệp chỉ còn khoảng 3- 4 tỷ đồng, trong đó bao gồm cả giá trị thiết bị, nhưng đa số các ngân hàng chỉ quan tâm đến tài sản có giá trị thế chấp lớn nhất là quyền sử dụng đất. Như vậy, khả năng được vay 3 tỷ đồng cũng là khó". Cũng trong tình trạng tương tự, ông Nguyễn Văn Tài, Giám đốc công ty cổ phần xây dựng Bình Dương cho biết: "Khi còn là doanh nghiệp nhà nước, công ty có thể vay vốn gấp 20 lần giá trị tài sản của đơn vị nhưng nay chỉ còn được vay bằng 70% giá trị tài sản đơn vị có. Thậm chí, có dự án đầu tư cũng khó mà vay được tiền". Không chỉ các doanh nghiệp ngành xây dựng mà doanh nghiệp nhà nước nói chung khi chuyển sang công ty cổ phần hoạt động theo Luật doanh nghiệp đều gặp khó khăn trong vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Bởi lẽ trước đây chỉ cần bảo lãnh của tổng công ty là doanh nghiệp có thể vay theo hình thức tín chấp nhưng khi chuyển sang công ty cổ phần sẽ phải tuân thủ quy định chặt chẽ hơn: phải có bảo lãnh của tổng công ty (bằng văn bản bảo lãnh hoặc hợp đồng cam kết bảo lãnh) đối với toàn bộ nghĩa vụ trả nợ gốc và các khoản lãi công ty đã vay và sẽ vay; doanh nghiệp phải có tài sản thế chấp, bảo đảm tiền vay. Đây là một trong những thực trạng mà DN sau CPH gặp phải trong việc huy động vốn. 3. Huy động vốn qua cổ phiếu 13 Công tác CPH DNNN đã đạt được kết quả trên nhiều mặt, các kết quả này có tác tích cực đến thị trường chứng khoán Việt Nam. CPH đã được triển khai rộng rãi đã trực tiếp làm tăng hàng hoá cho TTCK: theo số liệu của cục Tài chính DN, tính đến hết tháng 6 năm 2006, cả nước đã CPH được trên 3000 DN và bộ phận DNNN. Đặc biệt đã từng bước tiến hành CPH một số DN có giá trị hàng ngàn tỷ đồng như công ty sữa Việt Nam (giá trị DN 2.500 tỷ đồng), nhà máy thuỷ điện Sông Hinh- Vĩnh Sơn 2.144 tỷ đồng, Công ty Bảo hiểm TPHCM 1.311 tỷ đồng… CPH rộng khắp là nguồn hàng hoá quan trọng làm phong phú nguồn hàng hoá trên thị trường chứng khoán. CPH đã huy động được một lượng vốn nhàn rỗi cho đầu tư qua thị trường chứng khoán. với 2.242 DNNN được CPH năm 2004, 12.411 tỷ đồng cổ phiếu đã được bán, nhà nước nhờ đó đã có 10.169 tỷ đồng (chiếm 58% tổng số vốn nhà nước đã CPH) để tái đầu tư phát triển kinh tế. Mặt khác quy mô vốn điều lệ của DN sau CPH tăng bình quân 44% đã cho thấy CPH đã thực sự mở ra một cánh cửa để các DNNN tiếp cận với một kênh dẫn vốn mới đáp ứng cho nhu cầu đầu tư phát triển. Tính đến hết tháng 1/2006 trung tâm GDCK Hà Nội đã đấu giá 28 phiên lớn cho các DNNN CPH hoặc các DNNN đã CPH bán bớt phần vốn nhà nước (chưa kể có 17 phiên phối hợp với TTDGCK TP HCM). Tổng giá trị cổ phần trúng giá đạt 2.039,2 tỷ đồng, với 2.880 nhà đầu tư trúng giá trên 4.085 tổng số lượt nhà đầu tư đăng ký đấu giá. Bán đấu giá cổ phần đã trở thành một kênh huy động vốn quan trọng đối với các DNNN thông qua TTCK. Từ tháng 7/2003 đến nay, đã có khoảng 40 doanh nghiệp nhà nước (DNNN) bán đấu giá cổ phần tại Việt Nam để các chuyển sang hình thức công ty cổ phần. Nhiều chuyên gia đánh giá thị trường này đang càng ngày càng sôi động. Công ty chứng khoán Ngân hàng đầu tư phát triển Việt Nam, Công ty chứng khoán Ngân hàng ngoại thương, Công ty chứng khoán Ngân hàng công thương, Công ty chứng khoán Bảo Việt... hiện là những đơn vị hàng đầu trong việc nhận làm đại lý bán cổ phần cho các công ty chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần. Ngoài ra, nhiều công ty cổ phần cũng tự thành lập hội đồng bán đấu giá và tự tổ chức bán đấu giá. Theo Công ty chứng khoán của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, từ tháng 7/2003 đến nay, Công ty này đã nhận bán đấu giá cho 5 khách hàng là Gamex, Vifon, Vinamilk, Badaco, TIE. Kết quả bán đấu giá cổ phần lần đầu của các doanh nghiệp này rất khả quan. Ngày 24/2/2004, Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu TIE-Tp.HCM đã thông báo bán đấu giá cổ phần lần đầu để chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần. Công ty này đã đưa mức giá khởi điểm để đấu giá lên 115.000 đồng, được coi là mức khởi điểm cao nhất từ trước tới nay trong số các công ty bán đấu giá cổ phần. Công ty Vinamilk, khi bán đấu giá chỉ chào giá khởi điểm là 105.000 đồng một cổ phần, nhưng cho đến khi vào phiên đấu giá, người mua cao nhất đã trả giá 181.000 đồng. Sau khi bán đấu giá, trị giá tiền thu về của Vinamilk từ 72 tỷ đã tăng thêm 42 tỷ đồng nữa. Những tồn tại của quá trình CPH làm cản trở đến việc niêm yết/đăng ký trên thị trường chứng khoán. Tiến độ CPH chậm. kết quả thực hiện CPH mới đạt khoảng 80%, trong đó nhiều bộ ngành, địa phương đạt dưới 50%. Thời gian để CPH một DN 14 trung bình mất 437 ngày, nhiều nơi là vài năm trong khi theo quy định chỉ là 9 tháng. Theo kế hoạch, cho tới cuối năm 2007, còn 1700 DN cần CPH, bằng gần 70% số đã thực hiện của cả giai đoạn 2000- 2005, đay thực sự là một bài toán cho các Bộ, ngành, và lời giải của bài toán này cũng chính là chìa khoá cho việc gia tăng hàng hoá trên thị trường chứng khoán. Nhiều DN CPH khó có thể trở thành công ty đại chúng. Phần lớn DN được CPH là DN nhỏ (có đến 40% DN được CPH có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng). không những thế, tuy được CPH song phần vốn nắm giữ của nhà nước tại các DN này vẫn rất lớn. Kể cả với DN đang niêm yết trên TTGDCK TP HCM, tỷ lệ phần vốn nhà nước vẫn chiếm trung bình khoảng 30%. Mặt khác, có tới 38,4% số DN CPH không bán cổ phần ra bên ngoài. Cổ phần ít được chào bán ra bên ngoài là một cản trở để DN đến với TTCK 4. Thực trạng huy động từ trái phiếu Nhiều người vẫn cho rằng, một doanh nghiệp tốt là một doanh nghiệp có tỷ lệ nợ thấp. Điều này hiện không còn phù hợp nữa mà còn có thể nói là lạc hậu. Theo một số chuyên viên tài chính thì tỷ lệ nợ cao chưa hẳn là xấu mà còn thể hiện khả năng chiếm dụng vốn và nhất là uy tín của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có vị thế càng cao càng dễ huy động. Việc phát hành trái phiếu ra công chúng cũng góp phần quan trọng quảng bá hình ảnh doanh nghiệp và nâng cao vị thế của chính doanh nghiệp PHTP. Những thuận lợi Tổng khối luợng vốn huy động góp phần đáp ứng một phần nhu cầu vốn; các đơn vị đã chủ động trong việc quyết định số lưọng, thời hạn phát hành và thời điểm phát hành; thủ tục nhanh gọn hơn so với vay ngân hàng đòi hỏi nhiều thủ tục, điều kiện và hạn chế khả năng cho vay; chi phí phát hành từ trái phiếu, cổ phiếu thấp hơn chi phí đi vay ngân hàng hay vay ECA. Các Dn có thể đưa ra những kế hoạch giải ngân, hay chủ động hơn trong phòng ngừa rủi ro vỡ nợ. Đó là những lợi cích mà khi PHTP mang lại cho DN . Ta có thể lấy EVN là ví dụ: chi phí đợt phát hành EVNBOND0406 là 9,9%/năm lãi suất traí phiếu 9,6%/năm và chi phí phát hành là 0,3%/năm trong khi mức cho vay của các NHTMQD đối với dự án trung và dài hạn của EVN là 11,52% tiết kiệm hàng năm là 1,62%. Trong tính toán lãi suất trái phiếu, việc sử dụng lãi suất của các ngân hàng quốc doanh làm tham chiếu vẫn đảm bảo cạnh tranh về giá và hấp dẫn nhà đầu tư, lãi suất trái phiếu EVNBOND 0406 là 9,6%/ năm bằng với mức lãi huy động cao nhất của khối ngân hàng là 9,6%/ năm do Sacombank công bố và cao hơn mức bình quân của khối ngân hàng thương mại cổ phần là 9,13%/năm. EVN chủ động phòng ngừa rủi ro vỡ nợ cho phát hành bằng các kế hoạch sử dụng và trả nợ cụ thể. Dự án phát hành trái phiếu đưa ra kế hoạch giải ngân chi tiết phù hợp với tiến độ xây dựng công trình, tránh tình trạng thưa thiếu vốn do thiếu cân đối chi tiết. Kế hoạch trả nợ được cân đối giữa nguyên tác tận dụng tối đa các gnuồn vốn tự do của EVN, hạn chế sử dụng các nguồn vay khác để trả nợ. Hạn chế vẫn còn gặp phải của DN khi phát hành trái phiếu: a/ Khả năng đáp ứng nhu cầu nguồn vốn còn chưa cao 15 Khối lượng vốn huy động từ phát hành trái phiếu còn nhỏ chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Riêng 2006 nguồn vốn đầu tư mà EVN chưa cân đối được là 7584 tỷ trong đó 2004 đợt phát hành trái phiếu tính đến 30/9/2006 huy động được 2006 tỷ đồng, mới đáp ứng được 34,28% giá trị vốn chưa cân đối được nguồn. b/ Về tính chất sử dụng vốn: Việc sử dụng vốn từ phát hành trái phiếu mới chỉ bó hẹp trong phạm vi phục vụ đầu tư xây dựng cơ bản mà chưa được sử dụng cho các mục đích khác như: cơ cấu khoản vay trung dài hạn, tăng quy mô vốn kinh doanh.Với EVN mới chỉ chú trọng phát hành trái phiếu có số năm huy động vốn cho các công trình xây dựng có thời gian 3-5 năm, còn đối với các công trình mà thờ gian xây lắp kéo dài > 10 năm Thuỷ điện Sơn La, Thuỷ điện Lai Châu đòi hỏi phải có sự phù hợp về thời gian vay nợ thì EVN chưa phát hành đợt trái phiếu dài hạn nào. Ngoài ra, trái phiếu của EVN trái phiếu của EVN phát hành không có khả năng chuyển đổi để đảm bảo cân đối tỷ lệ trên vốn c/ Tính chủ động kịp thời đáp ứng nhu cầu vốn chưa cao Do nhiều DNNN vẫn tự phát hành trái phiếu nên thời gian huy động vốn tương đối lâu, tiến hành giải ngân vốn chậm. Hiện nay DN vẫn chưa có thói quen thuê tư vấn phát hành, chính vì thế việc thực hiện các thủ tục vẫn còn phức tạp, rườm rà d/ Chi phí huy động được xây dựng chưa thật sự chính xác, chủ yếu dựa trên kinh nghiệm trực quan CPHĐ = CPPH+LSTP Các DN tiết kiệm chi phí bằng cách giảm lãi suất trái phiếu .Nhưng hiện nay hiếm có những DN nào có một phương pháp khoa học để xác định lãi suất , ví dụ bằng các công cụ toán, bản thân lãi suất trái phiếu chưa đủ độ tin cậy để hình thành đường cong lãi suất chuẩn. Mà các DN buộc phải xác định lãi suất trái phiếu trên cơ sở lãi suất ngân hàng làm tham chiếu. Dựa trên khung lãi của ngân hàng( là đối thủ của DN trong huy động vốn từ xã hội ) để xây dựng lãi suất trái phiếu gây ra sự sai lệch và giảm tính cạnh tranh của trái phiếu, các ngân hàng có thể chấp nhận lãi ít và đột ngột thay đổi mức biên vào thời điểm phát hành thì khả năng hấp dẫn của trái phiếu chưa chắc đã còn. Phát hành trái phiếu thông qua hình thức đấu thầu giúp hình thành lãi trái phiếu một cách khách quan . Nếu trái phiếu phát hành theo hình thức đấu giá, các DN chỉ cần xác định khung lãi suất tối đa có thể chấp nhận được, việc xác định lãi suất sẽ do nhà thầu quyết định trên cơ sở cung- cầu. Tuy nhiên phương thức lập giá này vẫn chưa được thực hiện rộng rãi. e/ Khả năng chủ động hạn chế khả năng vỡ nợ chưa cao: Việc lập kế hoạch sử dụng và trả nợ vẫn mang tính chủ quan, chưa hoàn toàn triệt để cần thiết phải có thong tin đánh giá khách quan của đơn vị độc lập về tình hình tài chính của các DN. Cho đến nay thì các DNNN vẫn chưa chủ động thuê tư vấn xếp hạng tín nhiệm trái phiếu. Chỉ có qua thông tin xếp hạng các DN mới thực sự có thể chủ động tiến hành các biện pháp ngăn ngừa rủi ro vỡ nợ Nguyên nhân dẫn tới những hạn chế 1/ Nguyên nhân khách quan Thứ nhất: Uy tín và quy mô của doanh nghiệp Nhiều DN còn phát hành theo hình thức riêng lẻ cho nhà đầu tư chiến lược 16 Ví dụ như EVN bán trái phiếu cho các ngân hàng quen biết, với uy tín lâu năm các tổ chức sẵn sàng mua hết số trái phiếu đã phát hành, tuy nhiên chỉ áp dụng với những đợt phát hành quy mô nhỏ, vì thế những dự án có thời gian thực hiện dài thì không đủ đáp ứng, chưa phát huy hết tên tuổi uy tín để phát hành trái phiếu rộng rãi ra công chúng Thứ hai: Công ty tài chính chưa được hình thành Các tập đoàn lớn thường phải hình thành những công ty tài chính làm nhiệm vụ chuyên trách huy động vốn, đó là đầu mối tập chuyên lo tạo nguồn, cân đối vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư. Nhưng hiện nay thì các doanh nghiệp vẫn chưa hình thành các công ty tài chính như thế. Nguyên nhân là do thái độ nhận thức phát hành trái phiếu, hầu hết đều chỉ chú trọng cạnh tranh về lãi suất không chú trọng tới tính thanh khoản của trái phiếu bằng nghiệp vụ mua bán nợ có kỳ hạn trên thị trường chứng khoán (REPO), hoặc phát hành trái phiếu có khả năng chuyển đổi, phát hành trái phiếu có khả năng thu hồi trước hạn, Chưa nhận thức được vai trò của tổ chức trung gian tài chính làm nhiệm vụ tư vấn là các công ty chứng khoán: tổ chức này không chỉ cung cấp dịch vụ về bảo lãnh, đại lý, là nhà đầu tư mà còn là các tổ chức tư vấn hỗ trợ phát hành. Nhiều DN còn tổ chức phát hành khép kín từ nghiên cứu thăm dò thị trường, tạo lập phương án phát hành, chuẩn bị và tổ chức phát hành nên hiệu quả còn chưa cao, thời gian phát hành còn dài, chi phí lớn, không chuyên nghiệp. Thứ ba: Về năng lực sản xuất kinh doanh DN Sản xuất kinh doanh có lãi là nơi hấp dẫn NĐT bỏ vốn cho vay . Trong báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh của EVN giai đoạn 03-05: là DN có tình hình tài chính lành mạnh, luôn bảo toàn và phát triển được vốn, tổng tài sản tăng bình quân 15%/ năm, doanh thu tăng bình quân 18,64%/năm, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) 4,1%, tỉ lệ nợ phải trả là 55% tổng tài sản được đánh giá là khá hợp lý, khả năng thanh toán nợ ngân hàng cao hơn hai lần. Những chỉ tiêu này cho thấy EVN có thể thực hện tốt nghĩa vụ thanh toán đến khi đến hạn. Do đặc thù là sản xuất kinh doanh, tỷ suất lợi nhuận của EVN trong thời gian vừa qua là chưa cao, nhưng kết quả sản xuất kinh doanh ổn định cho thấy là đầu tư vào ngành điện là đảm bảo có lãi và rủi ro thấp. Đây chính là lý do mà EVN chú trọng phát hành trái phiếu riêng lẻ cho các NĐT là các ngân hàng có mối quan hệ làm ăn lâu dài, có kiến thức về hoạt động sản xuất kinh doanh ngành điện. Thứ tư: Kinh nghiệm phát hành trái phiếu Phát hành trái phiếu trải qua nhiều giai đoạn như chuẩn bị, đăng kí, tổ chức phát hành và cuối cùng là giai đoạn tổng kết đúc rút kinh nghiệm, kinh nghiệm được tích luỹ qua nhiều lần phát hành,về cường độ phát hành, sự phức tạp trong phát hành. Các đợt phat hành của EVN vừa qua đem lại cho EVN kinh nghiệm về phát hành riêng lẻ cho các nhà đầu tư có tổ chức, lãi suất trái phiếu thả nổi theo lãi suất thị trường. Đến nay EVN chưa có kinh nghiệm phát hành ra công chúng, chưa am hiểu về thủ tục đăng ký niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán 2/ Nguyên nhân khách quan Thứ nhất: Do hệ thống chính sách của Nhà nước 17 Luật pháp là môi trường kiến tạo cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Hệ thống luật pháp về chứng khoán và thị trường chứng khoán đang dần được hoàn thiện. Luật chứng khoán có hiệu lực vào 1/1/07 thay cho nghị định 144, nghị định 52 thay cho nghị định 120 là một trong những bước kiện toàn như vậy.Hạn chế của nghị định 120 đã cản trở các DN nói chung và EVN nói riêng trong việc huy động vốn qua phat hành trái phiếu. Nghị định 52 ra đời khuyến khích tất cả các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia phat hành trái phiếu trên cơ sở tự vay tự trả, nới lỏng sự can thiệp quá sâu của nhà nước vào việc phát hành trái phiếu. Nhưng một trong những nguyên nhân khiến EVN không chủ động trong việc hạn chế rủi ro là do trong nghị định 52 chưa coi việc đánh giá xếp hạng trái phiếu là bắt buộc, chỉ mới thừa nhận việc tồn tại các tổ chức định mức tín nhiệm. Thứ hai : Vấn dề về thị trường chứng khoán Cho đến nay thì thị trường chứng khoán Việt nam mới chỉ được coi là đang trong giai đoạn hình thành và phát triển, chưa phải là kênh huy động vốn quan trọng của DN. Nó thể hiện ở những vấn đề còn tồn tại hiện nay như quy mô nhỏ, hàng hoá còn nghèo nàn, chưa có các nhà tạo lập thị trường, cơ chế xây dựng lãi suất chưa hợp lý, chưa có hệ thống thông tin tiêu chuẩn. Quy mô thị trường chứng khoán nhỏ chỉ chiếm khoảng 4-5%GDP trong khi đó Mỹ, Nhật Bản , EU chiếm tới 80%GDP hoặc ngay như các nước trong khu vực như Singaiore, Malaysia, Thai Lan thì thị trưòng này cũng phát triển mạnh hơn Việt Nam rất nhiều chiếm khoảng 30-40%. Hiện nay tổng mức hoạt động trên thị trường trái phiếu Việt Nam là khoảng70.000-80.000 tỷ mà trong đó chủ yếu là trái phiếu chính phủ ( 80% tổng giá trị). Hàng hoá cung cho thị trường còn nghèo nàn. Đến nay mới chỉ có một số ít doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp: Vietcombank, BIDV, TCty Dầu khí ,TCty Công nghiệp tàu thuỷ, EVN TCty Sông đà… Sự thiếu vắng những nhà tạo lập thị trường có tính chuyên nghiệp đã làm cho thị trường trở nên kém sôi động hơn. Hiện nay các nhà đầu tư mua trái phiếu với mục đích đầu tư dài hạn nên ít có nhu cầu bán lại trái phiếu, nhưng khi bán lại trái phiếu thì họ lại gặp phải khó khăn do thị trường không có nhà tạo lập thị trường sẵn sang mua lại trái phiếu với giá hợp lý. Các nhà đầu tư lúng túng dè dặt khi quyết định đầu tư do thiếu thông tin minh bạch, chính xác về doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Một hệ thống thông tin theo kiểu chứng chỉ ISO hay chính là tổ chức định mức tín nhiệm sẽ giúp nhà đầu tư có được những quyết định đầu tư hợp lý và là một trong những tiền đề để nhà đầu tư phát hành trái phiếu trên thị trương quốc tế Lãi suất trái phiếu tính toán dựa trên kinh nghiệm chưa có một phương pháp khoa học tính toán lãi suất bằng các công cụ toán. Ngoài nguyên tắc lãi suất thực dương thì DN còn dựa vào nhu cầu vốn và khả năng huy động vốn trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường Một điều đáng nói nữa là thị trường trái phiếu chưa hình thành đường cong lãi suất chuẩn vì lãi suất chính phủ chưa hoàn toàn được hình thành trên nguyên tắc thị trường theo quan hệ cung- cầu, vì thế các thành viên trên thị trường gặp khó khăn trong nghiên cứu định giá trái phiếu Thứ ba: thuộc về các nhà đầu tư 18 Phát hành theo hình thức riêng lẻ cho một số nhà đầu tư có tổ chức thì sẽ không mất nhiều thời gian, thủ tục nhu cầu vốn nhanh chóng được đáp ứng nhưng hạn chế là nguồn vốn huy động không đủ lớn. Phát hành trái phiếu rộng rãi ra công chúng để khai thác hàng triệu nhà đầu tư nhỏ lẻ là một nguồn vốn rất tiềm năng của các DN nói chung và EVN nói riêng. Nhưng hiện nay do vấn đề thị trường còn chưa phát triển nên chưa thực sự khuyến khích các nhà đầu tư bỏ tiền mua trái phiếu. Thứ tư: Tổ chức trung gian tài chính Hiện nay hệ thống công ty chứng khoán của ta còn yếu về năng lực, kinh nghiệm, quen phát hành trong nước mà không có kiến thức phát hành trên thị trường quốc tế, khả năng tài chính còn hạn chế nên năng lực bảo lãnh chỉ giới hạn, các đợt phát hành có khối lượng không lớn. Theo nghị định 144 để phát hành ra công chúng phải có bảo lãnh phát hành, nhưng với năng lực hạn chế của các công ty chứng khoán chưa cho phép EVN tiếp cận nguồn vốn từ công chúng. Hạn chế nữa là hiện nay VN chưa có tổ chức độc lập cung cấp dịch vụ về định mức tín nhiệm. Đây là nguồn thông tin chính xác minh bạch về trái phiếu và doanh nghiệp phát hành thiếu vắng của tổ chức này khiến EVN thiếu đi một người cung cấp thông tin trung thực ra công chúng khi phát hành rộng rãi Tình hình PHTP trong thời gian gần đây: Năm 2006 EVN đã phát hành 6000 tỷ đ ồng tại thị trường trong nước và được giới quan sát trong và ngoài nước đánh giá rất cao về mức độ thành công. Năm 2008, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) dự kiến phát hành từ 300 - 500 triệu USD trái phiếu ra thị trường quốc tế.Riêng đợt phát hành 1000 tỷ đồng gần đây nhất EVN đã chọn ABB làm đơn vị phát hành chính thức,ABB có trách nhiệm cao trong việc khai thác, tiếp cận thu hút vốn cho EVN, EVN đánh giá rất cao khả năng tư vấn khai thác nguồn vốn của ABB đặc biệt là nguồn vốn nước ngoài.Trái phiếu phát hành lần này được uư tiên chon nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, mặc dù TP được phát hành bằng đồng nội tệ.Ngay sau khi thong báo phát hành, nhà đầu tư đã đăng ký hết, số lượng đăng ký thậm chí còn cao gấp đôi so EVN đề ra. Thực tế cho thấy rằng so với những lần phát hành đầu thì giờ đây EVN đã có nhiều kinh nghiệm hơn trong nghiệp vụ phát hành trái phiếu, làm cho trái phiếu đã trở thành một kênh huy động hữu hiệu của DNNN. II. Thực trạng sử dụng vốn đẩu tư của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. 1. Thực trạng sử dụng vốn đầu tư trong các DNNN Việt Nam hiện nay Thực trạng sử dụng vốn đầu tư ở các DNNN hiện nay còn nhiều điều đáng nói. Có nhiều DNNN làm ăn có lãi nhưng đa phần các DNNN đang ở trong tình trạng làm ăn thua lỗ do việc tiến hành các hoạt động đầu tư không chú trọng. 1.1.Đầu tư cho xây dựng cơ bản Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản có vai trò quan trọng trong DN, hoạt động này tạo ra cơ sở vật chất hạ tầng cho DN, tạo tiền đề cho hoạt động của DN. Trong số hơn 4000 DNNN năm 2005, số DN có qui mô nhỏ và vừa chiếm một tỷ trọng lón ( vốn dưới 5 tỷ, và dưới 300 lao động). DN có vốn từ 1-5 tỷ đồng chiêm 37,01%, DN có vốn từ 5- 10 tỷ chiếm 8, 18 %. Chính vì có qui mô nhỏ nên hoạt động 19 xây dựng cơ bản không được chú trọng. Mức độ trang bị cho tài sản cố định thấp, số DN có mức trang bị cho TSCĐ dưới 5tỷ chiếm 86%. Máy móc thiết bị rất lạc hậu, có DNNN máy móc thiết bị lạc hậu đến hàng chục năm. Thực tế này có thể thấy được ở rất nhiều DN. Mặc dù lạc hậu và nghèo nàn như vậy nhưng việc đầu tư cho xây dựng cơ bản trong các DN không được quan tâm. VD: Năm 2005 trong ngành dệt mức trang bị cho tài sản cố định là 153 triệu đồng/LĐ , ngành thuỷ sản là 80 triệu đồng/LĐ… con số này là quá thấp. Cũng do qui mô các DN quá nhỏ nên hoạt động đầu tư cho xây dựng cơ bản không được tiến hành vì không đủ vốn. Đây là một thực trạng cần giải quyết cấp bách. Tuy nhiên, không phải tất cả các DNNN đêu có họat động đầu tư xây dựng cơ bản ì ạch như vậy. Lấy ví dụ là Tổng công ty sữa Việt Nam ( VINAMILK) từ khi thành lập năm 1976 đến nay, Vinamilk đã tiến hành xây dựng nhiều nhà máy ở khắp 3 miền của đất nước. Các chi nhánh hoạt động cũng được Vinamilk đầu tư xây dựng tích cực. VINAMILK không chỉ đầu tư xây dựng theo qui mô mở rộng ( theo chiều rộng) mà máy móc thiết bị cũng được đầu tư đổi mới hiện đại. Như vậy Vinamilk đã tiến hành đầu tư theo cả chiều rộng và chiều sâu. 1.2.Đầu tư bổ sung hang dự trữ Đây là hoạt động đầu tư nhằm đảm bảo cho hoạt động của DN diễn ra liên tục. Tuy nhiên trong các DNNN sản xuất hiện nay hoạt động này cũng chưa được tiến hành một cách có hiệu quả. Tình trạng thiếu nguyên vật liệu vẫn thường xuyên xảy ra. Nghành dệt may của VN cần phải nhập tới 80% nguyên vật liệu từ nước ngoài. Nghành điện tử nội địa chỉ đáp ứng được trên dưới 20% linh kiện, ngành lắp ráp ô tô là 96,5%...... điều này cho thâý DNVN phụ thuộc rất nhiều vào nguyên liệu nước ngoài. Khi có những biến động xảy ra trên thế giới thì các DN dễ rơi vào tình trạng đình trệ sản xuất vì thiều nguyên nhiên vật liệu. Các DNNN vẫn chưa thể chủ động và nắm đằng chuôi trong hoạt động sản xuất của mình. 1.3.Đầu tư cho hoạt động nghiên cứu triển khai ( R& D) công nghệ kỹ thuật. Khi nói đến hoạt động này thì DNNN Việt Nam đang có rất nhiều yếu kém. Hoạt động đầu tư này sẽ giúp cho DN nâng cao năng suất lao động, tìm ra công nghệ sản xuất mới, hạ giá thành tăng tính cạnh tranh. Tuy nhiên , thực trạng đáng buồn trong các DNNN hiện nay là hoạt động này vẫn chưa được chú trọng và được tiến hành một cách mạnh mẽ. Bởi lẽ, các DNNN Việt Nam đa phần đều có tình trạng sản xuất manh mún, không có những hoạt động để cải tiến sản xuất. Với một thực trạng đầu tư xây dựng cơ bản như trên thì tất yếu hoạt động nghiên cứu triển khai không được xúc tiến. Hơn nữa, đội ngũ nhân lực trong các DNNN cũng không đủ trình độ để nghiên cứu. Trong khi các DN nước ngoài liên tiếp đưa ra thị trường những sản phẩm mới có chất lượng cao thì DNNNVN vẫn dậm chân tại chỗ với những sản phẩm lâu năm không được cải tiến. Lấy ví dụ về hang may mặc Việt Nam khi so sánh với hang may mặc của Trung Quốc: sản phẩm may mặc của TQ rẻ và mẫu mã thay đổi thường xuyên chính vì vậy VN có hang dệt may XK nhưng người dân trong nước vẫn dung nhiều hang TQ. Trong khi nước bạn liên tục tung ra thị trường những sản phẩm mời thu hút khách hàng thì các DNNN Việt Nam không tự sản xuẩt ra nhiều sản phẩm mới. 20 1.4.Đầu tư cho hoạt động Marketing, quảng cáo Hoạt động này sẽ giúp cho sản phẩm của DN đến được với khách hàng. Trong DN phấn trăm chi cho hoạt động này chiếm đến 5% doanh thu. Tuy vậy, các hoạt động quảng cáo tiếp thị sản phẩm của các DNNN dường như khôg có gì. Có thể quan sát trên các phương tiện thông tín để thây được hoạt động quảng cáo tiếp thị của DNNN dường như quá trầm. Trong những năm gần đây các DNNN cũng đã quan tâm nhiều hơn đến quảng cáo tiếp thị tuy nhiên chất lượng chưa cao chưa thu hút được khách hàng. Các quảng cáo của các DN nước ngoài vẫn được chú ý nhiều hơn. 1.5.Đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực(NNL) Có thể thấy được rằng cả đội ngũ cán bộ quản lí và công nhân ở các DNNN chất lượng không cao. Theo điều tra của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, công nhân lao động trong cả nước có trình độ tiểu học chiếm 3,7%, THCS là 14,7%, THPT là 76,6%, THCN và cao đẳng là 13,8%, đại học là 13,24%. Đứng trước thực tế như vậy cho thấy việc đầu tư cho hoạt động đào tạo nguồn nhân lực ở các DN chưa được chú trọng và quan tâm nhiều. Điều này tất yếu sẽ dẫn đến năng suất lao động thấp ở các DN. Mặt khác khi nói đến hệ thống quản lí của các DNNN này thì còn mang nặng tư tưởng cổ hủ, không những năng lực điều hành kém, thiếu tính sáng tạo mà còn chủ quan, duy ý chí. Chính vì năng lực lãnh đạo yếu kém đã làm cho sản xuất kinh doanh ở các DNNN không có hiệu quả. Điều này dẫn đến việc Nhà nước đã có chủ trương cho DNNN thuê Tổng Giám đốc. 5 DNNN áp dụng thí điểm mô hình thuê Tổng Giám đốc trong đợt đầu tiên gồm các Tổng Công ty: Công nghiệp Ôtô Việt Nam, Thủy tinh và Gốm xây dựng, Thiết bi kỹ thuật Điện, Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam và Tổng Công ty Xây dựng Sông Hồng. Trong cuộc chạy đua thu hút nguồn nhân lực thì DNNN luôn bị thua các DN nước ngoài do có những qui định về lương thưởng chặt chẽ. Có DN đã phải trả 1000$/ ngày cho chuyên gia nước ngoài để hướng dẫn kỹ thuật. Nhưng khi công nhân đã đạt được trình độ mới thì lương không thay đổi. Chính vì vậy tồn tại việc di chuyển lao động từ DNNN sang các DN khác. 1.6.Các hoạt động đầu tư khác Đầu ra ngoài DN, đầu tư tài chính thì hiện nay cũng được các DNNN quan tâm nhiều hơn, tuy nhiêu cũng chưa mang lại hiệu quả. Đặc biệt là hình thức đầu tư tài chính là hoạt động mang lại một lượng thu nhập lớn nhưng vẫn chưa được các DNNN khai thác. 2. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của các DNNN hiện nay. Trước thực trạng hoạt động đầu tư trong các DNNN như trên thì hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của các DN này như thế nào. Các kết quả điểu tra cho thấy bên cạnh những DN làm ăn có lãi thì phần lớn các DNNN đều thua lỗ. Nếu tính riêng 8 tháng đầu năm 2006 thì Tổng công ty dệt may Việt Nam đạt mức tăng trưởng khá: giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16.4%, doanh thu tăng 18.9%. Tuy nhiên, theo báo cáo của kiểm toán nhà nước về kết quả hoạt động kinh doanh thì Tổng công ty dệt may Vịêt Nam lại là công ty có số lỗ luỹ kế tính đến năm 2004 là lớn nhất 328 tỷ đồng (đây là 21 lỗ luỹ kế). có nghĩa là xét hiệu quả trong một thời gian dài khi vẫn còn xét đến phấn lỗ của Dệt Nam Định, Dệt 8-3, Dệt kim Hoàng Thị Loan. Trong nghành thuỷ hải sản thì có thể nói đến sự thua lỗ của Seaprodex. Trên đây là một số DN cụ thể còn xét toàn bộ hệ thống DNNN nói chung thì sao: Báo cáo kiểm toán cũng khẳng định hiệu quả kinh doanh thấp, thậm chí thua lỗ kéo dài, 4/19 (21%) đơn vị được kiểm toán, năm 2004 kinh doanh thua lỗ tới 124 tỷ đồng, 11/19 (58%) đơn vị có lỗ luỹ kế đến 31/12/2004 lên tới 1.058 tỷ đồng. Xếp ngôi vô địch lỗ là Tổng công ty Dệt may Việt Nam 328 tỷ đồng, kế đến là Tổng công ty Giấy gần 200 tỷ đồng, Tổng công ty lương thực miền Nam 183 tỷ đồng. Nhiều doanh nghiệp có số nợ phải thu khó đòi rất lớn mà cho đến nay vẫn chưa có giải pháp khắc phục hiệu quả như Tổng công ty Lương thực miền Nam hơn 156 tỷ đồng, Tổng công ty Chăn nuôi 101 tỷ đồng, Tổng công ty Xây dựng công nghiệp 46,7 tỷ đồng... Để thấy rõ hơn v ề hiệu quả sử dụng vốn của DN đánh giá qua các chỉ tiêu: - Tỷ suất lợi nhuận trên vốn - Doanh thu thuần trên vốn Phản ánh qua bảng số liệu sau: Bảng tình hình hoạt động kinh doanh của hệ thống DNNN Năm Năm Đơn vị 2002 2003 Doanh nghiệp Nhà nước a Số lượng doanh nghiệp: DN 5,175 4,800 - Doanh nghiệp có lãi % 78.5 77.2 + DNTW % 80.7 80.4 + DN ĐP % 75.8 75.2 - Doanh nghiệp lỗ % 15.8 13.5 + DNTW % 11.8 10.9 + DN ĐP % 18.8 15.2 b Vốn Nhà nước tại doanh nghiệp tỷ đồng 173,000 189,293 + DNTW tỷ đồng 129,750 144,179 + DN ĐP tỷ đồng 43,250 45,114 c Doanh thu tỷ đồng 422,004 464,204 d Lợi nhuận tỷ đồng 18,860 20,428 e Lỗ luỹ kế tỷ đồng 997 1,077 f Tỷ suất lợi nhuận trên vốn % 10.9% 10.8% g Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu % 4.5% 4.4% h Tổng số nợ phải thu tỷ đồng 97,977 96,775 i Tổng số nợ phải trả tỷ đồng 188,898 207,788 k Tổng nộp ngân sách tỷ đồng 78,868 86,754 Qua bảng trên có thể thấy được DNNN hoạt động chưa tương xứng với khả năng vốn. Bên cạnh đó việc sử dụng vốn của các DNNN còn nhiều bất cập khác: Những vụ tiêu cực, thất thoát tài sản, tiền của lớn được dư luận xã hội và báo chí tốn nhiều giấy mực nhất thì thường xảy ra ở các Tổng Công ty nhà nước. 22 Tuy chưa có số liệu phân tích cụ thể, nhưng theo một bài báo dẫn lời một cán bộ Thanh tra Chính phủ thì sai phạm về kinh tế tại các Tổng Công ty 90, 91 chiếm phần lớn trong các sai phạm mà toàn ngành Thanh tra đã phát hiện. Xét về doanh số, giá trị sản xuất và đóng góp cho nền kinh tế thì Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam là Tổng Công ty 91 mạnh nhất nước. Tuy nhiên, đây lại là Tổng Công ty dẫn đầu về số bị can (18 người và vẫn tiếp tục thêm) trong một đường dây tham ô đặc biệt nghiêm trọng. Chỉ qua việc thực hiện 2 dự án thuộc loại nhỏ và trung bình, 8 bị can, trong đó có một nguyên Phó Tổng Giám đốc đã làm thất thoát và chiếm đoạt 54,7 tỷ đồng. Trước đó, tại Tổng Công ty lớn thứ hai cả nước - Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông (VNPT) – cũng đã xảy ra hàng loạt sai phạm, trong đó có những sai phạm diễn ra tại một số đơn vị thành viên lớn như Bưu điện Hà Nội. Trong số hàng chục bị can của vụ án, có hai vị Giám đốc bưu điện tỉnh đã bị bắt. Đến lúc này, Tổng Công ty Điện lực Việt Nam (EVN) - Tổng Công ty lớn thứ 3 – đang được đánh giá là còn trong sạch hơn. Nhưng vụ nhập và lắp đồng hồ đo điện tử cũng làm dư luận đặc biệt quan tâm. Hiện tại, Giám đốc và một Phó Giám đốc Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh bị đình chỉ công tác. Dẫu vậy, tham ô, lãng phí, thất thoát trong dự án đầu tư, cải tạo lưới điện Hà Nội, Hải phòng... cũng không nhỏ. Có người cho rằng, chỉ có qua thanh tra mới có thể khẳng định được EVN có sai phạm, tham nhũng hay không, vì số dự án của Ngành này được thanh tra trong thời gian qua là ít. Nhiều người còn nhớ, trong vụ mua bán lòng vòng 4.000 tấn thép đường dây 500 kV trước đây, lúc đó Bộ trưởng Năng lượng cùng 1 Thứ trưởng, 2 Phó Tổng Giám đốc đã bị hầu tòa. Còn lại Tổng Công ty Hàng không Việt Nam, số tiền tham ô của một thành viên chủ chốt tại Tổng Công ty này có khả năng đạt mức kỷ lục trong các vụ án tham ô đang được điều tra. Đó là chưa kể đến những khuất tất khác về đầu tư, tài chính ở Tổng Công ty này sẽ được cơ quan thanh tra tiếp tục làm rõ. Có cả lãnh đạo một cụm cảng tự tử và nhiều người khác bị kỷ luật... Trước đây, những Tổng công ty lớn như Seaprodex, Dâu tằm Tơ, Cà phê, Xi măng, Hàng hải... cũng đều dã “có chuyện” khi cơ quan thanh tra hoặc cơ quan điều tra “viếng thăm”. Kết quả thanh tra cho thấy, tham nhũng không chừa bất cứ nơi nào, từ các đơn vị rất mạnh, rất giàu, đang “phất” hay thuộc loại “từ từ mà tiến”, cho tới những đơn vị đang đi đến phá sản. Sự việc đang diễn ra ở Tổng Công ty Đầu tư phát triển nhà và đô thị (HUD), ở đơn vị thành viên của Vinaconex, ở Seaprodex... là những ví dụ sinh động. Như vậỵ việc sử dụng vốn trong các DNNN còn tồn tại nhiều bất cập. Trước thực trạng trên cần có những giải pháp tích cực để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở các DNNN Phần III. Một số giải pháp nhằm tăng cường việc huy động vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các DNNN hiện nay I. Giải pháp huy động vốn đầu tư cho DNNN 1. Tạo lập vốn chủ sở hữu Muốn tạo lập được vốn chủ sở hữu đòi hỏi hoạt động của doanh nghiệp phải có lãi. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hằng năm phải luôn đảm bảo 23 được mức lợi nhuận hợp lý.Với mỗi mức lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được sau khi nộp nghĩa vụ nhà nước( 28%) doanh nghiệp sẽ trích % lợi nhuận còn lại vào quỹ đầu tư phát triển. Nguồn vốn chủ sở hữu này chính là cơ sở để doanh nghiệp gọi vốn đầu tư. Sở dĩ như vậy là vì mỗi dựa án muốn gọi được vốn đầu tư thì bản than chủ dự án phải có từ 15% đến 30% vốn. Nếu không đạt được tỷ lệ này thì không ai dám cho doanh nghiệp vay vốn. Để có thể thu được lợi nhuận cao tức là doanh thu phải lớn và chi phí bỏ ra nhỏ nhất có thể. Để thu hút đầu tư, DNNN phải nâng cao chất lượng hàng hoá trên thị trường và uy tín của doanh nghiệp. Ưu tiên sản xuất các sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao và có thể xuất khẩu.Giữ vững thị trường trong nước và có phát triển thêm thị trường ngoài nước, cải tiến mẫu mã sản phẩm phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng. Các ngành hoạt động về lĩnh vực máy móc thiết bị chuyển mạnh sang nhận thầu và cung cấp thiết bị toàn bộ, tổ chức thực hiện tốt các hợp đồng EPC Thực hiện đúng tiến độ các công trình, đầu tư có hiệu quả và có những thiết bị mang tính vượt trội trên cơ sở hợp tác sâu rộng trong và ngoài nước Tăng cường đào tạo và thu hút đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân có chuyên môn và tay nghề cao Làm tốt công tác tài chính kinh doanh để tái sản xuất mở rộng Tổng công ty và các doanh nghiệp thành viên Các nguồn vốn có khả năng huy động hiện nay chủ yếu là nguồn vốn tự có ( vốn khấu hao cơ bản, vốn bán cổ phiếu, quỹ đầu tư phát triển và lợi nhuận). Tăng cường các chính sách huy động mọi nguồn lực trong nước. 2. Tăng cường áp dụng các hình thức huy động mơí 2.1. Huy động từ trái phiếu Việc vay vốn từ các kênh huy động truyền thống không đáp ứng được nhu cầu vốn phát triển quá nhanh cuả doanh nghiệp, hình thức huy động vốn trong công chúng thông qua trái phiếu sẽ mang laị nguồn vốn lớn cho doanh nghiệp “Không vay không phải là doanh nghiệp thực thụ”, có doanh nhân đã ví von như thế khi nói về chuyện đi vay của doanh nghiệp.Có nhiều hình thức để huy động vốn như: phát hành cổ phiếu, trái phiếu vay từ các tổ chức tín dụng, các cá nhân trong doanh nghiệp … Ngoại trừ hình thức vay từ các tổ chức tín dụng hoặc các cá nhân thì phát hành cổ phiếu và trái phiếu còn khá mới mẻ ở Việt Nam, nhất là việc phát hành trái phiếu .Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19-5-2006 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp được chính phủ ban hành đã tạo ra cho doanh nghiệp thêm một công cụ để trực tiếp huy động vốn từ công chúng phục vụ cho nhu cầu đầu tư và phát triển Trái phiếu DN có 2 hình thức chủ yếu được sử dụng nhiều trên thị trường tài chính thế giới là trái phiếu phổ thông và trái phiếu có thể chuyển đổi. Điểm khác biệt giữa 2 loại trái phiếu này là khi đến hạn thanh toán thì trái phiếu thông thường sẽ nhận được gốc và lãi bằng tiền. Trong khi đối với trái phiếu có thể chuyển đổi thì trái chủ còn có thêm quyền lựa chọn đổi trái phiếu đó thành cổ phiếu doanh nghiệp. Nếu như với trái phiếu thông thường, ngoài khoản lãi và gốc phải trả là một áp lực lớn đối với doanh nghiệp thì trái phiếu chuyển đổi cho doanh nghiệp quyền lựa chọn không phải trả phần nợ gốc và lãi khi đáo hạn. Đồng thời doanh nghiệp vẫn giữ được 24 phần vốn huy động bằng cách chuyển đổi trái phiếu thành cổ phần mà không mất thêm thời gian để tái huy động vốn khi tái tạo Tuỳ theo tình hình nhu cầu vốn và khả năng trả nợ, DN có thể chọn nhiều hình thức khác nhau để huy động vốn. Nếu như đối với hình thức vay truyền thống từ các tổ chức tín dụng thì khả năng huy động vốn phụ thuộc rất nhiều vào việc đánh gía chủ quan của tổ chức cho vay. Hình thức này khá thụ động và thông thường mức vốn huy động thường thấp hơn so với nhu cầu thực sự của doanh nghiệp.Nhưng với trái phiếu DN có thể huy động nhiều nguồn lực hơn với mục đích lớn hơn, nhất là với doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, có thương hiệu trên thị trường .Hình thức này cho phép doanh nghiệp chủ động hơn trong việc vay vốn, có thể lựa chọn nhiều hình thức khác nhau. Tuy mức lãi suất DN huy động thường phải cao hơn mức huy động từ lãi suất ngân hàng để thu hút công chúng nhưng thực sự chi phí vốn vay bằng hình thức này thấp hơn do không phải trả phần chênh lệch huy động của ngân hàng. Hơn nữa, mức huy động vốn thường lớn hơn nhiều và thời hạn vay cũng dài hơn nhiều. Trong tương lai đây là một kênh huy động vốn trong công chúng thông qua trái phiếu sẽ chiếm ưu thế Nhiều người cho rằng một doanh nghiệp tốt là một doanh nghiệp có tỷ lệ nợ ít. Điều này đã không còn phù hợp nữa mà còn có thể nói là lạc hậu. Theo chuyên viên tài chính thì tỷ lệ nợ càng cao chưa hẳn là xấu mà còn thể hiện được khả năng chiếm dụng vốn mà nhất là uy tín của doanh nghiệp. Vì thế việc phát hành trái phiếu ra công chúng cũng góp phần quảng bá hình ảnh DN và nâng cao vị thế của chính doanh nghiệp phát hành trái phiếu VD: Công ty cổ phần đầu tư hạ tầng kyc thuật tp HCM( CII). Sau khi công ty này công bố việc phát hành 131.500 trái phiếu chuyển đổi với mệnh giá 1.000.000 đồng với kỳ hạn 3 năm và mức lãi suất hàng năm cố định là 8%.Tỷ lệ chuyển đổi là 1:76 nghĩa là một trái phiếu có thể chuyển đổi 76 cổ phiếu khi đến hạn. Điều này lập tức tăng mệnh giá của cổ phiếu trên thị trường Một minh chứng hung hồn nữa là việc phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường quốc tế. Với hơn 225 nhà đầu tư tham gia mua trái phiếu chính phủ Việt Nam, đây là con số dao động kỷ lục từ trước tới nay và gần 4.5 tỷ USD được huy động chỉ trong một tuần. Một con số không hề dễ dàng huy động qua các kênh thông thường. Sự thành công nay tạo tiền đề cho một loạt các doanh nghiệp chuẩn bị huy động vốn trên thị trường quốc tế với mức lãi suất thấp hơn lãi suất trong nước như trái phiếu BIDB và tới đây sẽ là Vietcombank … 2.2. Huy động từ cổ phiếu Thị trường chứng khoán luôn là nơi huy động vốn hiệu quả nhất trong các phương thức huy động vốn. Tại đây, mục tiêu của đại đa số các công ty là huy động vốn dài hạn, phục vụ các kế hoạch đầu tư lâu dài. Tính toán huy động vốn cách nào là việc giải bài toán vốn gọi được nhiều nhưng chỉ chia quyền quản trị ít.Đây là một kênh huy động mới rất hiệu quả đang được nhiều doanh nghiệp xem trọng và thực hiện. Để huy động vốn, công ty sẽ bán cổ phiếu cho cổ đông tùy theo số tiền cần có. Nếu định bán cho công chúng, trước khi bán công ty phải đăng ký cổ phiếu với Sở giao dịch chứng khoán, được gọi là niêm yết chứng khoán trên thị trường chứng khoán; lúc đó cổ phiếu có thêm một tên mới là chứng khoán. Nếu chỉ bán cho vài người thì không phải đăng ký cổ phiếu. Tùy theo tình hình tài chính của công ty, nếu làm ăn khấm 25 khá, công ty sẽ mua lại số cổ phiếu đặc ưu đem về cất giữ, gọi là treasury stock. Số còn lại nằm trong tay cổ đông sẽ gọi là outstanding share. Sau khi gọi vốn lần đầu, những lần sau, muốn tăng vốn, công ty bán nốt số cổ phiếu hãy còn giữ lại lúc đầu, hay phát hành một đợt cổ phiếu mới, gọi là phát hành mới. Loại nào, bao nhiêu thì do hội đồng quản trị công ty quyết định. nếu đã bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán rồi, mỗi lần phát hành mới, công ty đặt ra ba cách “dụ dỗ” cổ đông hiện có hay để thưởng cho nhân viên cao cấp của mình. Nếu đã bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán rồi, mỗi lần phát hành mới, công ty đặt ra ba cách “dụ dỗ” cổ đông hiện có hay để thưởng cho nhân viên cao cấp của mình. Cách thứ nhất là phát hành cổ phiếu lựa chọn (stock option) cho nhân viên. Khi cầm nó nhân viên được quyền mua hay bán một số chứng khoán của công ty theo một giá đã định trước khi hết hạn vào một ngày nào đó. Cổ phiếu lựa chọn có thể là một Call option cho họ quyền mua hay một Put option cho họ quyền bán. Với giá đã định, người nắm Call option có lợi khi giá chứng khoán của công ty tăng trên thị trường chứng khoán vào lúc đến hạn mua, thì được mua với giá cũ. Nếu giá chứng khoán xuống thì người có Put option có lợi vì được bán cho công ty với giá đã định cao hơn giá hiện thời. Phần thưởng cho họ nằm ở sự chênh lệch giá. Cách thứ hai là ấn định quyền (rights) cho người nắm cổ phiếu thông thường. Có rights họ được quyền mua một số cổ phiếu thông thường mới phát hành với một giá đã ấn định, nếu mua trước một ngày nào đó thường là một năm. Đến ngày hết hạn mà giá chứng khoán của công ty lên thì họ có lời vì được mua với giá cũ Cách thứ ba là Cổ phiếu bảo đảm (stock warrant) dành cho những ai có cổ phần ưu đãi hay có trái phiếu. Ai có nó sẽ được mua chứng khoán của công ty với giá đã định trước một ngày hết hạn nào đó. Khi ấy nếu giá lên thì họ có lời. Với những quy định về huy động vốn như vậy, các công ty sẽ luôn hoạt động rất nhộn nhịp kể cả trong những thời điểm giá chứng khoán tụt dốc. Đồng thời với đó, các công ty thường xuyên có được những nguồn vốn cần thiết phục vụ hoạt động kinh doanh của mình trên thương trường. Hơn nữa vốn huy động từ phát hành cổ phiếu là không kỳ hạn, tránh được sức ép trả ngân hàng trả vốn và lãi khi đáo hạn , đó là chưa kể việc phát hành tạo thêm thanh khoản cho cổ phiếu, thu hút thêm nhà đầu tư. Ngoài ra trong trường hợp có dự án khả thi trong tương lai,doanh gnhiệp có thể phát hành thêm cổ phiếu ngay do đã có kinh nghiệm từ đợt phát hành sắp tới.Và chỉ còn lại vấn đề là việc sử dụng đồng tiền thu từ phát hành thêm cổ phiếu sao cho có hiệu quả nhất. 2.3. Một số nguyên tắc khi huy động vốn Để tối ưu hoá hoạt động huy động vốn, các công ty cần đề ra cho mình những nguyên tắc nhất định, “đánh bóng” chính bản thân công ty, từ đó tạo ra sự tin cậy trong con mắt các nhà tài trợ vốn. Tạo dựng độ tin cậy của công ty Trước mỗi quyết định tài trợ vốn, các nhà tài trợ thường căn cứ vào độ tin cậy và uy tín của công ty. Nếu công ty muốn sớm nhận được quyết định tài trợ vốn, thì một bộ tài liệu chứng minh độ tin cậy của công ty sẽ là rất cần thiết. Văn bản này càng trung thực và rõ ràng bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Các nhà tài trợ sẽ tiến hành xác 26 minh, nếu phát hiện có chi tiết thiếu trung thực, lập tức họ sẽ đặt dấu hỏi về độ tin cậy của công ty.Bên cạnh đó, một bộ máy kế toán tài chính hiệu quả cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo dựng độ tin cậy của công ty. Tạo dựng hình ảnh về năng lực của công ty Nếu công ty bạn chứng minh được với các nhà tài trợ vốn về khả năng quản lý, kỹ năng hoạt động, năng lực tài chính cũng như sự nhạy bén trong kinh doanh, thì bạn sẽ rất thuận lợi trong việc huy động vốn, bởi năng lực công ty là một trong những yếu tố tiên quyết mà các nhà tài trợ vốn xem xét và cân nhắc trước khi đưa ra quyết định tài trợ vốn.Ngoài việc chủ động huy động vốn và trình bày các năng lực kinh doanh, bạn còn phải thể hiện cam kết tài chính của công ty đối với những hoạt động kinh doanh cụ thể. Nhà tài trợ vốn sẽ luôn nhìn vào giá trị thực của công ty và các hệ số chuẩn mực về tài chính. Bạn nên chuẩn bị các bản báo cáo tài chính về hiệu quả kinh doanh, năng lực quản lý (chứng nhận tiêu chuẩn ISO, TQM…)..., bởi chúng là những biểu hiện rõ ràng nhất khả năng của công ty trong con mắt các nhà tài trợ. Báo cáo tài chính sẽ “tiết lộ” hoạt động của công ty bạn, đồng thời cung cấp những thông tin cần thiết cho các cơ quan quản lý, các nhà đầu tư hiện tại và tương lai, các chủ nợ,… về tình hình tài chính của công ty. Vì vậy, tính trung thực trong báo cáo tài chính có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Hạn chế rủi ro đối với nhà tài trợ vốn Trong các kế hoạch huy động vốn, vấn đề lo ngại nhất của các nhà tài trợ là những rủi ro tài chính do sự biến động của thị trường, như giá ngoại tệ lên xuống thất thường, đồng nội tệ mất giá, thị trường bất động sản thay đổi, tình trạng trượt giá phi mã,… Các nhà tài trợ vốn sẽ luôn xem xét và suy tính rất kỹ về các rủi ro xấu nhất có thể xảy ra.Chính vì vậy, để giúp các nhà tài trợ sớm ra quyết định, công ty nên có các phương án giải thích rõ ràng về tính tối ưu và khả thi của khoản tiền huy động, đồng thời việc giải thích càng chi tiết, rõ ràng bao nhiêu sẽ càng có lợi cho bạn bấy nhiêu. DN chỉ nên cân nhắc tới một khoản huy động vốn, khi DN tin tưởng và tính toán thấy rằng lợi nhuận thu được từ các hoạt động kinh doanh được đầu tư từ khoản vốn huy động đó sẽ cao hơn các chi phí huy động vốn. Và DN tuyệt đối không nên huy động vốn để trang trải các khoản lỗ của công việc kinh doanh hiện tại, bởi việc này có thể kéo bạn lún sâu vào “vũng lầy” với tình trạng khó khăn hơn về tài chính . Thay vào đó,DN có thể cắt giảm các loại chi phí, hợp lý hoá hoạt động kinh doanh sao cho tốt hơn và hiệu quả hơn.DN chỉ nên tập trung vào các hoạt động kinh doanh nào chắc chắn mang lại lợi nhuận. Nếu ngay cả biện pháp này cũng không giúp gì cho bạn, thì bạn nên suy nghĩ tới việc chuyển hướng hoạt động kinh doanh của mình. II. Giải pháp sử dụng vốn hiệu quả cho các DNNN 1. Giải pháp thúc đẩy nhanh CPH DNNN DNNN chiếm tỷ trọng ít về số lượng nhưng lại nắm một phần rất lớn về vốn. lượng vốn nằm trong các DNNN không được sử dụng có hiệu quả, sự thất thoát vốn không phải là nhỏ. Nhiều DN tuy đã chuyển sang cty cổ phần với mục đích đa dạng sở hữu về vốn, nhưng nhà nước vẫn nắm phần lớn cổ phần. Điều này đã hạn chế sự tham gia tiến trình CPH của các nhà đầu tư chiến lược. Chính vì vậy để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các DNNN trước hết cần đẩy nhanh cuộc cải cách DNNN. Trọng tâm của cải cách DNNN phải nhằm vào công tác CPH. Việc nhà nước nắm cổ 27 phần chi phối tại rất nhiều công ty cổ phần đã làm hạn chế sự tham gia của các nhà đầu tư chiến lược và các cty nước ngoài. Đại bộ phận DNNN phải là DN đa sở hữu, trong đó nhà nước nắm không phải là trên 50% vốn điều lệ như hiện nay ở trong một số ngành then chốt mà chỉ vào khoảng 30-35%. Cần thiết phải có quy định thời hạn tối đa cho phép kéo dài từ khi đấu giá bán cổ phần đến khi tổ chức đại hội cổ đông thành lập công ty cổ phần. Lộ trình hội nhập đang tạo áp lực lớn cho quá trình CPH DNNN. những DN quy mô nhỏ hầu như đã được cổ phần hoá, nhưng mới chỉ cổ phần được 10% tổng vốn nhà nước tại các DN. Nghĩa là số DN còn lại có quy mô lớn về vốn và là các DN nằm ở những ngành những lĩnh vực được coi là quan trọng. đó có thể được coi là những “lô cốt” trong cải cách DNNN. Không nên coi việc chuyển đổi DNNN thành cty TNHH nhà nước một thành viên là một cách để duy trì sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. việc chuyển đổi DNNN thành cty TNHH một thành viên không thể khắc phục được tính chất một chủ (hờ) của DNNN, không góp phần đổi mới phong cách quản lý, không làm giảm được sự can thiệp trực tiếp của các cơ quan nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Đó là do sau khi chuyển thành cty TNHH, các DN này vẫn do nhà nước nắm thông qua các cơ quan và cấp hành chính chủ quản. Thực tế trong rất nhiều tổng công ty, kể cả các tổng cty đã chuyển sang hoạt động theo mô hình cty mẹ-cty con và các tổng cty được thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế, có rất nhiều DN mà nhà nước giữ 100% vốn điều lệ dưới dạng cty TNHH một thành viên. Thí dụ trong tập đoàn Than và Khoáng sản có 16 cty mà nhà nước nắm 100% vốn điều lệ, tâp đoàn Dệt may Việt Nam có 9 cty, Tổng cty Thuốc lá có 10 cty TNHH một thành viên. Tại các DN này, số lượng các DN mà nhà nước nắm 51% vốn điều lệ cũng rất lớn, tương ứng là 25 đơn vị ở tập đoàn Than-Khoáng sản, 24 đơn vị ở Dệt May, 7 đơn vị ở Tổng cty Thuốc lá. rất nhiều DN trong số này nhà nước không cần thiết phải nắm 100% vốn điều lệ hay trên 50% vốn điều lệ. Do đó cần phải thu hẹp diện các DN 100% vốn nhà nước, tức là hạn chế tới mức lớn nhất việc chuyển DNNN thành cty TNHH một thành viên. Cần thiết phải từ bỏ quan niệm tổng công ty và tập đoàn kinh tế phải do nhà nước nắm 100% vốn điều lệ hoặc nắm giữ cổ phần chi phối. Cho đến nay chưa có tổng cty nào tiến hành đại hội cổ đông để thành lập tổng cty cổ phần mặc dù từ tháng 5/2004, Thủ tướng chính phủ đã quyết định cho 03 tổng cty thí điểm CPH. Về thực chất, việc nhà nước nắm cổ phần chi phối trong các cty cổ phần là một sự níu kéo cái “mũ bảo hộ” cho các DN, không tạo điều kiện để các DN được chơi trên một “sân chơi” chung, một mặt bằng bình đẳng trước pháp luật. Trong 15 năm qua chúng ta mới chỉ sắp xếp được1/2 số DNNN. Số còn lại phải làm trong 4 năm. Nếu không làm được thì vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước khó được đảm bảo. Muốn làm được điều đó phải đổi mới tư duy, vượt qua chính mình, phải có cách nhìn mới, quan niệm mới về kinh tế nhà nước, về vai trò chủ đạo của nó, về CPH và cải cách DNNN. Phải dám từ bỏ (tuy rất nuối tiếc) lợi ích cục bộ để đảm bảo lợi ích của toàn cục, từ bỏ chiếc “mũ bảo hộ” của nhà nước để tự vượt lên chính mình. Đó chính là chiếc chìa khoá dẫn đến thành công trong cải cách DNNN. 28 2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng về vốn Cùng với việc sắp xếp, đổi mới nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là khâu quan trọng. Vốn đầu tư cho các DNNN do các ngân hàng thương mại nhà nước cho vay chiếm xấp xỉ đến trên dưới 50%. Trong lộ trình cổ phần hóa DN hiện nay, bên cạnh những doanh nghiệp đã được tiến hành sắp xếp, chuyển đổi hình thức sở hữu thì cũng còn những doanh nghiệp Nhà nước hiện nay hoạt động kém hiệu quả, không bảo toàn được vốn, còn tư tưởng ỷ lại trông chờ vào sự chi viện của Nhà nước. Trong những năm vừa qua, phần lớn các DNNN được sắp xếp lại theo hướng cổ phần hóa đã nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm đối với nền kinh tế, sản xuất kinh doanh đã có lãi, nhiều DN đã mạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị để nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, khắc phục tình trạng lỗ lũy kế và có vốn tích lũy để tái sản xuất mở rộng. Về cơ cấu vốn trong doanh nghiệp bao gồm nhiều nguồn như nguồn vốn chủ sở hữu, vốn được bổ sung từ lợi nhuận hàng năm, các quỹ của xí nghiệp, vốn đi vay của các tổ chức tín dụng; vốn đi chiếm dụng của khách hàng. Mỗi loại vốn phản ánh tính chất và nguồn hình thành khác nhau. Thực tế hiện nay cần đi sâu xem xét công tác quản lý vốn của DN chủ yếu là các loại vốn trong thanh toán như công nợ phải thu; các khoản nợ phải trả trong đó có nợ vay ngân hàng. Bởi lẽ những khoản nợ này chiếm tỷ trọng lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu công tác quản lý tốt thì khả năng phát sinh những khoản nợ này chỉ tồn tại trong thời gian nhất định và ngược lại nếu công tác quản lý yếu kém (nợ từ các năm trước chuyển sang) thì công nợ sẽ tăng lên. Vấn đề đặt ra là không cho phép DN để khách hàng chiếm dụng vốn lâu ngày, chỉ được phép chiếm dụng trong thời hạn cho phép khoảng trong vòng 1 tháng (khoảng 30 ngày). Mô hình của các DN khi đã được sắp xếp lại và tiến hành cổ phần hóa được cấp có thẩm quyền phê duyệt là hai hướng đi lâu dài trong tương lai của mỗi DN. Để triển khai mô hình này đạt hiệu quả kinh tế cao đòi hỏi phải có nhiều yếu tố, chính sách tác động, trong đó đổi mới phương thức quản lý và điều hành của Giám đốc DN giữ vai trò quyết định. Vốn là một trong những yếu tố không thể thiếu được trong giai đoạn ban đầu khi tiến hành cổ phần hóa, xác định giá trị DN. Như vậy cái gốc của vấn đề vẫn là bắt nguồn từ sản xuất kinh doanh. Nếu sản xuất kinh doanh khá, sản phẩm cạnh tranh được với thị trường thì không những có lợi nhuận mà vốn cũng được quay vòng nhanh, ngược lại nếu sản xuất kinh doanh kém hiệu quả thì vốn sẽ bị ứ đọng. Để từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN cần tiếp tục đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa DN, kinh nghiệm cho thấy chỉ có cổ phần hóa thì vốn mới được quản lý chặt chẽ hơn. Trước hết, đối với DNNN, kiên quyết xóa bỏ các loại bảo hộ bất hợp lý như khoanh nợ, giãn nợ, xóa nợ cấp vốn tín dụng ưu đãi tràn lan đối với các hoạt động kinh doanh của DNNN. Thực hiện đầu tư vốn thông qua các Công ty đầu tư tài chính của Nhà nước. Từ thực tế hiện nay, vẫn còn nhiều vướng mắc về cơ chế chính sách trong quá trình thực hiện chưa được tháo gỡ, tiến độ thực hiện chậm, hiệu quả hoạt động của nhiều DNNN còn thấp, tình trạng thất thoát, lãng phí và tham nhũng chưa được khắc phục. 29 Thứ hai là, trong điều kiện vốn ngân sách Nhà nước còn nhiều khó khăn phải giải quyết nhu cầu chi tiêu lớn cho an ninh quốc phòng và các nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa xã hội khác nên việc trợ giúp cho các DN cũng rất hạn hẹp. Bản thân các ngân hàng thương mại cũng là DN nên nguồn vốn cho vay cũng là nguồn vốn huy động. Nếu DN không trả được nợ thì ngân hàng cũng sẽ không có vốn để quay vòng và ngược lại. Nên DN phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh là chính, tận dụng mọi nguồn thu và huy động vốn từ nhiều nguồn để giảm bớt những áp lực khó khăn nói chung. Thứ ba là, đối với các DNNN đã, đang và sẽ sắp xếp lại để cổ phần hóa, các ngân hàng thương mại chủ động tham gia xây dựng và quyết định phương án sắp xếp lại DNNN với vai trò là chủ nợ, phù hợp với chính sách và giải pháp tiếp tục đổi mới DNNN. Đồng thời, tiếp tục mở rộng đầu tư vốn tín dụng để giúp cho các DN đổi mới công nghệ bằng nguồn vốn trung dài hạn để mua sắm các loại máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất và xây dựng nhà xưởng để DN có đủ sức cạnh tranh cao, phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững trong quá trình hội nhập quốc tế. Thứ tư, đối với tín dụng ngân hàng cần tập trung đầu tư vốn vào các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có dự án khả thi và có khả năng trả nợ. Thứ năm, tăng cường đôn đốc thu hồi nhanh vốn nhanh, thực hiện phương thức "tiền vào hàng ra, tiền trao cháo múc" hạn chế tối đa nhất các khoản vốn đi chiếm dụng và vốn bị chiếm dụng trong thanh toán. Tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Trên cơ sở đó tạo ra lợi nhuận trong DN, nâng cao đời sống của người lao động. Thứ sáu là phát triển mạnh các DN vừa và nhỏ, khuyến khích đầu tư cho các DN tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, cần phát triển mạnh mẽ các mô hình DN tư nhân, mô hình này rất thích hợp với nền kinh tế thị trường ở nước ta. 30 KẾT LUẬN Trong xu thế hội nhập, cải cách toàn diện nền kinh tế, khối DNNN đã kịp thời nắm bắt vận hội mới, phát huy đựơc vị thế, vai trò chủ đạo định hướng cho các DN khác. Nhưng bên cạnh việc huy động với nhiều hình thức mới đa dạng hiệu quả,cùng với tình hình sử dụng vốn khả quan hơn so với trước thì trong DNNN vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề như: vẫn còn tồn tại sự bảo hộ của Nhà Nước,khả năng quản lý và tổ chức chưa chuyên nghiệp, chưa quảng bá được uy tín của doanh nghiệp, không tạo được độ tin cậy cho nhà đầu tư. Qua đây chúng ta hiểu rõ hơn về thực trạng của DNNN hiện nay từ đó rút ra những lợi thế của DNNN cũng như những mặt hạn chế để khắc phục và sửa chữa . Góp phần phát triển DNNN, tạo cho DNNN có chỗ đứng trên thương trường. Tuy còn nhiều thiếu sót và hạn chế trong nhận thức mong thầy cùng các bạn đóng góp ý kiến để đề tài hoàn thiện hơn TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Giáo trình kinh tế đầu tư 2. Giáo trình tài chính doanh nghiệp 3.Giáo trình tài chính tiền tệ 4.Tạp chí ngân hàng 5.T/c Nghiên cứu kinh tế 6.T/c Tài chính 7.T/c Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương 8. www.vnn.vn 9. www.kiemtoan.com.vn 10. www.vneconomy.com 11. www.mpi.gov.vn 12. www.moi.gov.vn
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.