KỸ THUẬT SẢN XUẤT GIỐNG TÔM CÀNG XANH

pdf
Số trang KỸ THUẬT SẢN XUẤT GIỐNG TÔM CÀNG XANH 22 Cỡ tệp KỸ THUẬT SẢN XUẤT GIỐNG TÔM CÀNG XANH 181 KB Lượt tải KỸ THUẬT SẢN XUẤT GIỐNG TÔM CÀNG XANH 0 Lượt đọc KỸ THUẬT SẢN XUẤT GIỐNG TÔM CÀNG XANH 9
Đánh giá KỸ THUẬT SẢN XUẤT GIỐNG TÔM CÀNG XANH
4.7 ( 19 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 22 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

KỸ THUẬT SẢN XUẤT GIỐNG TÔM CÀNG XANH Ts Nguyễn Thanh Phương và Ts Trần Ngọc Hải Khoa Thủy Sản – Đại học Cần Thơ 1. Xây dựng trại và chuẩn bị trại giống 1.1. Chọn vị trí Các tiêu chí thường được xem xét khi chọn lựa vị trí xây dựng trại giống bao gồm khí hậu, nguồn nước, nguồn tôm mẹ thị trường tôm giống, điện và giao thông. Thông thường, các trại được đặt ở gần biển, tuy nhiên, nhiều trại ở Thái Lan, Việt Nam vẫn đặt sâu trong nội địa và vẫn hoạt động tốt (Correria và ctv, 2000; New, 2002; Phương và ctv, 2003) 1.2. Thiết kế, xây dựng và trang bị phương tiện trại giống Trại giống tôm càng xanh có thể được xây dựng với qui mô gia đình hay qui mô lớn. Qui mô gia đình cần diện tích nhỏ, từ 50-500 m2, có thể tích bể ương ấu trùng tổng cộng khoảng 10-50 m3 và công suất khoảng 1-2 triệu tôm bột/năm. Nhà trại có thể xây dựng đơn giản bằng cây, gỗ kết hợp tấm bạt. Công ty, xí nghiệp có thể xây trại qui mô lớn với công suất đến 10-20 triệu PL/năm, có diện tích rộng cho phòng làm việc, phòng thí nghiệm, ao, bể ương. Tuy nhiên, hầu hết các trại thành công ở Châu Á đều ở qui mô gia đình. Các trại được lợp bằng mái che tối xen với mái che trong suốt để có ánh sáng, đặc biệt là đối với trại áp dụng mô hình nước xanh. Xung quanh, nên có nhiều cửa sổ có rèm để giữ thoáng vào ban ngày đồng thời giữa ấm vào ban đêm. Bể chứa: Bể có thể dùng để chứa nước ngọt hoặc nước lơ. Bể đa số làm bằng xi măng. Tùy theo vị trí trại giống, qui mô trại giống, qui trình sản xuất giống, độ mặn nước chứa… mà bể chứa cần thể tích khác nhau để chủ động sản xuất quanh năm. Thông thường, trại cần có 2 bể chứa riêng, mỗi bể có thể tích bằng tổng thể tích bể ương. Lọc cơ học: Hệ thống lọc cơ học dùng để loại bỏ chất thải rắn trong nước. Các loại vật liệu như cát mịn, cát to, san hô, đá nhỏ, than hoạt tính... được dùng làm giá thể cho bể lọc. Hệ thống lọc gồm bể lọc có thể tích khoảng 1-2 m3 và các bể chứa nước lọc có thể tích khoảng 10-20 m3 hay hơn tùy trường hợp. Ngoài ra, trong trại cần có túi vải lọc có kích cỡ lỗ 1-5 µm để lọc lại nước trước khi sử dụng. Lọc sinh học: Lọc sinh học là hệ thống bể có chứa nhiều giá thể như san hô, đá, vật liệu có nhiều lỗ rỗng, hay ngay cả rong tảo và thực vật thủy sinh lớn để hấp thu và chuyển hóa đạm trong nước từ dạng độc sang ít độc để tái sử dụng nước cho ương nuôi tôm hay các loài thủy sản nói chung. Có nhiều dạng bể lọc sinh học được sử dụng như lọc ngầm có nước từ trên xuống, lọc ngầm nước từ dưới lên, lọc ngầm nước chảy ngang có nhiều ngăn, lọc ướt có nước phun từ trên xuống, lọc lồng xoay chứa giá thể, hay lọc có giá thể dạng dĩa xoay. Tuy nhiên, dạng lọc ngầm nước chảy ngang và có nhiều ngăn được áp dụng phổ biến nhất do tiện lợi và hiệu quả. Bể lọc chứa các giá thể có thể tích khoảng 4-20% thể tích ương. Trước khi ương ấu trùng, cần kích thích hệ vi khuẩn Nitrosomona và Nitrobacter phát triển trong giá thể bằng cách bón đạm Amôn (dạng NH4Cl) với nồng độ bằng 10% nồng độ có thể có trong bể ương. Kiểm tra nồng độ Amôn, nếu thấy nồng độ giảm xuống thì bón tiếp với lượng như trên và lặp lại đến khi nào toàn bộ Amôn được chuyển hóa hoàn toàn thành Nitrate trong 24 giờ thì bón tiếp với lượng gấp đôi. Quá trình bón Amon, theo dõi nồng độ và tăng gấp đôi nồng độ cần lặp lại đến khi nào bể lọc có thể có đủ lượng vi khuẩn để chuyển hóa hết lượng đạm có thể có trong bể ương trong vòng 24 giờ thì có thể đưa vào sử dụng. Bể nuôi tôm mẹ: Trại giống cần có bể ể xi-măng để nuôi nuôi dưỡng tôm trứng trước khi cho nở. Các bể có thể tích dao động 5-50m3. Số lượng bể cũng thay đổi tùy qui mô của trại. Bể nên có lớp cát phủ mặt đáy dày 0,5-20 cm. Bể nên có nước chảy liên tục và nên đặt nhiều giá thể cho tôm ẩn nấp. Bể cho tôm nở:. Trại sản xuất qui mô gia đình, đơn giản, chỉ cần dùng 5-10 bể kính hay bể nhựa 50-100 lít để cho tôm nở là đủ. Mỗi bể có thể chứa 2-3 tôm trứng. Bể có thể bằng composite hay nhựa, màu tối để dễ dàng thu ấu trùng. Bể ương ấu trùng: Bể ương ấu trùng có thể đa dạng như bể tròn, hình chữa nhật hay vuông và được làm bằng compostite, nhựa cao cấp hay ximăng. Bể compostite và nhựa cao cấp tiện lợi trong quản lý, thao tác và dễ di chuyển. Bể bêtông chi phí rẻ, ổn định nhiệt hơn nhưng không cơ động. Bể ương nên có màu xám sậm hay xanh lá cây. Qui mô gia đình nên làm bể nhỏ, thể tích 0,5-2 m3, tốt nhất làm 0,5-1 m3 để dễ quản lý và năng suất cao. Bể ương tôm bột: Trại sản xuất giống cũng cần có bể, giai lưới hay ao để ương tôm bột. Bể và giai nên có thể tích 1020 m3/bể. Ao có diện tích 100-500 m2. Bể ấp Artemia: Bể ấp Artemia tiện lợi nhất nên bằng composite, có đáy hình chóp và có khóa ở đáy, thể tích 20 – 100 lít. Bể đặt nơi có ánh sáng, nhưng tránh ánh nắng trực tiếp làm ảnh hưởng đến tỷ lệ nở của trứng. Qui mô sản xuất gia đình, đơn giản, có thể dùng 5-10 keo thủy tinh 10 lít để ấp Artemia. Bể nuôi tảo: Các trại áp dụng mô hình nước xanh cần có bể nuôi tảo để cấp cho bể ương ấu trùng. Bể nuôi tảo nên có màu trắng, thể tích các bể khoảng 0.5-1m3, tiện nhất là bằng composite. Bể được đặt trong nhà dưới mái che nhựa để vừa có ánh sáng vừa hạn chế tác động lớn của môi trường ngoài. Hệ thống thổi khí: Tùy theo vị trí trại có điện lưới hay không, tùy vào qui mô trại mà có thể dùng máy nén khí hay máy thổi khí, vận hành bằng dầu hay điện, công suất lớn hay nhỏ. Một trại qui mô 10-20 m3 bể ương, đơn giản chỉ cần dùng 2 máy thổi khí điện, mỗi máy có công suất khoảng 1 HP. Nên thiết kế sao cho hai máy có thể vận hành luân phiên nhau, đảm bảo thổi khí liên tục mà vẫn bảo trì máy tốt. Hệ thống điện: Trại tôm giống tốt nhất nên có nguồn điện lưới quốc gia. Tuy nhiên, trại cũng cần trang bị máy phát điện dự phòng. Hệ thống cấp nước: Tùy vị trí trại, nguồn nước sử dụng và qui mô trại mà có thể lắp đặt hệ thống bơm nước đủ công suất. Các dụng cụ và thiết bị khác: Ngoài các phương tiện trên, trại tôm cần được trang bị các dụng cụ như dụng cụ kiểm tra nước như máy đo độ mặn, pH kế, nhiệt kế, máy đo oxy, bộ hóa chất thử đạm, chlorine và các dụng cụ chế biến thức ăn cho tôm như sàn, khay, nồi, bếp, máy xay sinh tố, tủ lạnh, cân... 1.3. Vệ sinh bể, dụng cụ và xử lý nước ương nuôi Vệ sinh bể và dụng cụ: Các bể cần phải được vệ sinh kỹ trước khi vận hành. Đối với bể ximăng mới xây cần phải được xử lý kỹ bằng cách cho nước ngọt vào ngâm một ngày, sau đó xả ra và lập lại vài lần. Tiếp đến, cho nước vào đầy bể và dùng phèn chua xử lý với lượng 250 g/m3. Ngâm bể khoảng một tuần sau đó xả nước và xử lý tiếp như các bể thông thường. Trước và sau mỗi đợt sản xuất, cần phải vệ sinh trại, các dụng cụ và bể ương nuôi thật cẩn thận. Các hoá chất thường dùng để rửa bể và dụng cụ như xà phòng, hay dung dịch Chlorine 100-200 mg/l. Sau khi rửa, nếu có thể, nên phơi dưới ánh nắng trực tiếp một ngày. Giữa các đợt sản xuất nên tạm nghỉ 10-15 ngày để đảm bảo khâu vệ sinh được hoàn chỉnh. Pha nước và xử lý nước ương nuôi : Hai nguồn nước được sử dụng trong trại sản xuất giống tôm là nguồn nước mặn và nước ngọt. Nguồn ngước mặn có thể là nước biển hay nước mặn từ ruộng muối có độ mặn 60-140 %o. Nước mặn sau khi để lắng, có thể cho qua lọc cơ học để có được nước trong sạch hơn. Sau đó xử lý nước bằng Chlorine với nồng độ 20g/m3 (tính trên cơ sở Chlorine nguyên chất). Sau khi hòa chlorine vào nước, để yên một đêm, sau đó sục khí thật mạnh ít nhất 4 ngày để loại bỏ chlorine trước khi sử dụng. Trước khi sử dụng, có thể kiểm tra nồng độ chlorine còn lại trong nước. Nếu nước còn chlorine, nên dùng thiosulphate natri để trung hòa. Bổ sung thiosulphate natri bằng nồng độ chlorine còn dư trong nước. Sau đó, kiểm tra lại chlorine và xử lý như trên vài lần đến khi không còn chlorine. Đối với nước ngọt, đơn giản nhất là dùng nước máy sinh hoạt đã qua xử lý mà không cần phải xử lý thêm. Nếu dùng nước sông hay nước ao, nên xử lý nước bằng chlorine trước khi sử dụng. Nước giếng ngầm cần chú ý độ cứng. Độ cứng nước tốt nhất là 50-150 mg/l. Hai nguồn nước mặn và nước ngọt này được dùng để pha thành nước có độ mặn 12‰ cho ương ấu trùng. 2. Tôm bố mẹ Các trại sản xuất nhỏ thông thường không phải nuôi tôm bố mẹ mà chủ yếu thu tôm từ tự nhiên hoặc thu mùa từ các trại nuôi tôm thịt để đơn giản và tiện lợi cũng như giảm chi phí trong sản xuất. Tuy nhiên, các trại lớn đôi khi phải chủ động nuôi để có được nguồn tôm cho sản xuất quanh năm và có chất lượng cao. Daniels và ctv (2000); Reddy (2000), New (2002) và Phương và ctv (2003) thảo luận chi tiết về các kỹ thuật thu, vận chuyển, và nuôi tôm bố mẹ. 3. Ương nuôi ấu trùng 3.1. Cho tôm nở Tôm trứng chọn cho nở phải khỏe mạnh, không bị thương tích, không có dấu hiệu bệnh (đốm đen, đốm nâu, đóng rong,...), có trọng lượng tốt nhất là 50-80 g và trứng có màu xám đen. Nên chọn đủ số lượng tôm trứng có màu sắc tương tự nhau để cho nở đồng loạt. Có thể xử lý tôm mẹ trước khi cho nở bằng formaline 20-25 mg/l (tính cho formol nguyên chất) trong 30 phút, sau đó thay nước. Tôm sau khi xử lý xong được cho vào bể nở. Bể nhỏ 50 lít có thể thả 2-3 con tôm trứng. Bể lớn thì thả nhiều hơn. Cần sục khí liên tục cho bể nở. Tốt nhất, nước bể nở nên có độ mặn khoảng 5-7 ‰ để tránh gây sốc cho tôm mẹ, trứng tôm cũng như ấu trùng ít bị sốc khi chuyển vào bể ương với độ mặn cao 12 ‰. Nếu chọn tôm tốt, trứng sẽ nở ngay đêm đó. Trường hợp tôm chưa nở sáng sớm để chuyển vào bể ương. 3.2. Thu và bố trí ấu trùng vào bể ương Sau khi ấu trùng nở, thu ấu trùng vào buổi sáng. Ngừng sục khí bể, che tối bể, chừa một góc để có ánh sáng hoặc dùng đèn để tập trung ấu trùng lại một góc để hút ra bằng ống hút. Ấu trùng khỏe sẽ có tính hướng quang mạnh và tập trung nơi chiếu sáng, ấu trùng kích cỡ lớn, màu trong sáng, và hoạt động tích cực. Ấu trùng thu được nên xử lý với Formol 200 ppm trong 30 giây, sau đó, bố trí vào bể ương đã được chuẩn bị sẵn. Bể ương ấu trùng có mức nước tùy vào qui trình ương với khoảng 0,8-1m đối với hệ thống nước trong hở và nước trong kín; và khoảng 0,6-0,7 m đối với hệ thống nước xanh cải tiến để tảo phát triển. Nước ương có độ mặn 10-12 %o. Sục khí liên tục và vừa phải cho bể ương với số lượng 3-4 đá bọt/m2 mặt bể. Đối với mô hình nước xanh cải tiến, cần bổ sung tảo (tảo Chlorella thuần hoặc nước xanh từ bể nuôi cá rô phi) trước khi bố trí ấu trùng với mật độ khoảng 0.5-1 triệu tế bào/ml để nước có màu xanh nhạt. Mật độ ấu trùng bố trí nên trong khoảng 50-60 con/lít đối với mô hình nước trong kín và nước xanh cải tiến; và 100-150 con/lít đối với mô hình nước trong hở. Qui trình nước trong hở cũng có thể bố trí với mật độ cao 300-500 ấu trùng/Lít để ương trong 10-15 ngày đầu (đạt giai đoạn V-VII) thì sang thưa ương với mật độ 60-100 ấu trùng/L (Ang, 1987&1995; Reddy, 2000b; Correia và ctv, 2000; New, 2002; Phương và ctv, 2003).
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.