Kiến thức môn TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

doc
Số trang Kiến thức môn TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 13 Cỡ tệp Kiến thức môn TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 96 KB Lượt tải Kiến thức môn TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 9 Lượt đọc Kiến thức môn TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 37
Đánh giá Kiến thức môn TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
4 ( 3 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

+) TƯ TƯỞNG Hồ Chí Minh về cơ bản được hình thành trong ba thập kỷ đầu của thế kỷ 20 và được tiếp tục phát triển khá sinh động trong những thập kỷ sau trên cơ sở tiếp thụ, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và sự trải nghiệm thực tế trong những năm tháng Người đi tìm đường cứu nước. Có thể nêu tóm tắt nội dung tư tưởng đó như sau: Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, phải theo học thuyết của Mác, một học thuyết cách mạng nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, đem lại cho mọi người, không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc quyền tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no, việc làm, niềm vui, hòa bình và hạnh phúc.Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có quan hệ mật thiết với cách mạng vô sản ở "chính quốc" song không phụ thuộc cách mạng "chính quốc", mà nó có khả năng giành thắng lợi trước bằng sức mạnh và trí tuệ của dân tộc.Cách mạng giải phóng là lâu dài, gian khổ, trước hết là phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, giành quyền độc lập, tự do; thực hiện cách mạng dân chủ nhân dân, tạo tiền đề để quá độ lên giải phóng xã hội, giải phóng con người. Tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người; mọi nước đều độc lập, dân tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, mọi xã hội thông thái và đạo đức.Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc phải do Ðảng lãnh đạo và tổ chức chặt chẽ để đấu tranh giành quyền độc lập tự do, xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân để quản lý xã hội và phát triển đất nước.Cách mạng giải phóng dân tộc phải do chính đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc, được vũ trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, có đường lối chính trị đúng đắn và tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ đảng viên tiên phong, gương mẫu, trung thành với lợi ích của giai cấp và dân tộc.Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là quá trình Người tích cực chuẩn bị về tư tưởng, về tổ chức, đào tạo cán bộ về lý luận chuẩn bị cho việc thành lập Ðảng Cộng sản Việt Nam.Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh được truyền bá vào Việt Nam đã đáp ứng khát vọng thiêng liêng nhất của nhân dân Việt Nam, trước hết là tầng lớp học sinh, thanh niên trí thức yêu nước. Nhu cầu thành lập Ðảng Cộng sản để lãnh đạo quần chúng đấu tranh đã thúc đẩy các hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và của nhiều đảng viên của Ðảng Tân Việt tích cực vận động thành lập Ðảng Cộng sản. Ðồng chí Hà Huy Tập, vốn là một thành viên của Ðảng Tân Việt, đã viết, các hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và cả Tân Việt Cách mạng Ðảng tự coi cuốn Ðường Kách mệnh là cương lĩnh và hệ tư tưởng của họ. Ðó là cuốn sách gối đầu giường đối với tất cả đảng viên của Tân Việt và họ đã học gần như thuộc lòng. Ngay khi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Tân Việt Cách mạng Ðảng chưa phải là Ðảng Cộng sản, nhưng tất cả các thành viên của hai tổ chức đó luôn luôn nói với nhau hoặc nói với quần chúng rằng họ là những người cộng sản chân chính theo con đường cách mệnh của Hồ Chí Minh. Sự phát triển của phong trào đấu tranh trong nước đã dẫn đến sự hình thành các tổ chức cộng sản đầu tiên. Sự không thống nhất của các tổ chức đó đã gây cản trở cho việc phát triển chung của cách mạng Việt Nam. Trước tình hình cấp bách đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã rời Xiêm (11-1929) để trở lại Trung Quốc, kịp thời thực hiện nhiệm vụ lịch sử thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Cũng trong lúc này, tháng 12-1929, ở Mát-xcơ-va, Quốc tế Cộng sản cũng đã ra Nghị quyết về vấn đề thành lập một Ðảng Cộng sản ở Ðông Dương. Hội nghị hợp nhất Ðảng họp từ ngày 6-1-1930 tại Cửu Long, Hồng Công với sự hiện diện của hai đại biểu Ðông Dương Cộng sản Ðảng là Trịnh Ðình Cửu và Nguyễn Ðức Cảnh và đại diện của An Nam Cộng sản Ðảng là Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Ngoài ra, còn có hai người giúp việc tổ chức cho Hội nghị là Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn. Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản và bằng một thái độ chân thành, có sức thuyết phục, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ cho đại diện của cả hai đảng rõ về những sai lầm nếu không đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản. Các đại biểu đã đồng thuận quyết định thống nhất cả hai đảng để lập thành một đảng với tên gọi là Ðảng Cộng sản Việt Nam, và sau này kết nạp thêm tổ chức Ðông Dương Cộng sản Liên đoàn đã đáp ứng nhu cầu cấp thiết của lịch sử dân tộc. Hội nghị hợp nhất đã thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Ðảng - Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Ðảng, và các Văn kiện khác gồm Chương trình tóm tắt, Ðiều lệ vắn tắt của Ðảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Việc thống nhất các tổ chức Cộng sản tiền thân thành Ðảng Cộng sản là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử giải phóng và phát triển sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam. Ðảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc, sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ 20. Ðây là một đặc trưng về sự hình thành Ðảng Cộng sản Việt Nam. Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời trên cơ sở một học thuyết cách mạng sáng tạo, với một quyết định lịch sử của Hồ Chí Minh, thông qua sự thử thách, sàng lọc chọn lựa lịch sử, là sự hiện thực hóa của cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam theo con "Ðường Kách mệnh" của Hồ Chí Minh.Ngay khi ra đời, Ðảng đã có cương lĩnh, sách lược (tuy còn vắn tắt) cách mạng sáng tạo, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia dân tộc và quốc tế, trong đó thấm đượm yếu tố dân tộc, yếu tố quyết định tính đặc sắc của cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới. Chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo. Thực tiễn lịch sử diễn ra từ sau ngày được thành lập, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã là người lãnh đạo duy nhất cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, mở đầu là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đưa dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu và chính khách trên thế giới đã đánh giá tầm vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh, nhãn quan sáng suốt nhìn xa thấy rộng của Người bắt nguồn từ nhận thức sâu sắc về những lực lượng thúc đẩy sự biến đổi có tính chất bùng nổ nhất của lịch sử ở những bước ngoặt có tính chất cách mạng nhất. Ðồng chí Gớt Hôn - Tổng Bí thư Ðảng Cộng sản Mỹ viết: "Hồ Chí Minh là con người cần thiết xuất hiện đúng lúc, đúng yêu cầu của lịch sử, với những tư tưởng và ý kiến đúng. Chính vậy mà đồng chí đã làm ra lịch sử". Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mac - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đoàn kết toàn dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh (TTHCM) gắn với các thời kì hoạt động của Người trong phong trào cách mạng Việt Nam và quốc tế. Đó là thời kì hình thành tư tưởng yêu nước; thời kì đi tìm con đường cứu nước (1911 - 20); thời kì hình thành về cơ bản con đường cách mạng Việt Nam (1921 - 30); thời kì kiểm nghiệm, khẳng định và phát triển (1930 - 45); thời kì phát triển và thắng lợi (1945 - 69). Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6.1991) của Đảng chính thức ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ Đảng: "Đảng lấy chủ nghĩa Mac - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động...". Toàn bộ tác phẩm của Người, nhất là "Tuyên ngôn độc lập" và "Bản Di chúc", là một di sản tư tưởng vô giá Người đã để lại cho nhân dân ta. Từ những năm 1923 - 24 qua "Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ" và những bài viết về Lênin, một số bài trả lời phỏng vấn, ở Người đã sớm hình thành một thái độ độc lập, sáng tạo trong nhận thức và vận dụng chủ nghĩa Mac, biểu thị một nhân cách, một phong thái sống và ứng xử của "một con người mới" trong một "xã hội tương lai". TTHCM soi đường cho cuộc đấu tranh giành thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại và tính thời đại sâu sắc, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Cùng với chủ nghĩa Mac - Lênin, TTHCM là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân dân Việt Nam. + ) VẬN DỤNG TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH TRONG ĐỜI SÔNG. Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư là những khái niệm đạo đức truyền thống của phương Đông, được ông cha ta đặc biệt coi trọng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dùng những khái niệm đạo đức truyền thống, nhưng lược bỏ đi những nội dung đã lạc hậu, giữ lại những gì tốt đẹp và thêm vào những nội dung mới phù hợp với thời đại.Theo Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm, chính, là bốn đức cơ bản của con người. Bác nói: Trời có 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông; Đất có 4 phương: Đông, Tây, Nam, Bắc; Người có 4 đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính; Thiếu một mùa, không thành trời; Thiếu một phương, không thành đất; Thiếu một đức, không thành người. Như vậy đạo đức là một vấn đề cực kỳ quan trọng đối với con người. Người giải thích nội dung cần, kiệm, liêm, chính rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ. Mặc dù bận trăm công nghìn việc, song Người đã dành thời gian viết hẳn một cuốn sách giải thích 4 chữ "Cần, kiệm, liêm, chính", với bút danh Lê Quyết Thắng vào năm 1949. Cần: Người phân tích cả nghĩa rộng, nghĩa hẹp. Chỉ ra rằng cần không chỉ là cần cù, siêng năng, chăm chỉ, dẻo dai, mà còn là phải biết làm việc có kế hoạch, có sự phân công, tính toán một cách khoa học, là phải biết lao động có năng suất cao, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm tăng năng suất lao động. Vì xét cho đến cùng, như Lênin nói, cái quyết định thắng lợi của chế độ mới đối với chế độ cũ là ở chỗ nó đưa ra được năng suất lao động mới cao hơn.Đối với cán bộ công nhân viên chức, Người cho rằng: Cần là làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến muộn, về sớm, làm việc mau chóng, chu đáo. Việc ngày nào nên làm xong ngày ấy, chớ để đến ngày mai. Phải nhớ rằng dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta, trong những thời giờ đó, ai lười biếng tức là lừa gạt dân.Nhìn trên tầm vĩ mô, cả nước cần cù siêng năng có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Mỗi người siêng năng thì ắt sẽ tiến bộ. Cả nhà siêng năng thì chắc chắn ấm no. Cả làng siêng năng thì làm phồn thịnh. Cả nước cần cù siêng năng thì dân giàu nước mạnh. Theo Hồ Chí Minh, cần cù, siêng năng phải đi liền với kế hoạch thì cần cù, siêng năng mới có tác dụng to lớn. Công việc bất kỳ to nhỏ đều có điều nên làm trước, điều nên làm sau. Nếu không có kế hoạch, thì sẽ hao tổn thì giờ, mất công nhiều mà kết quả ít.Cần và chuyên phải đi đôi với nhau. Chuyên nghĩa là dẻo dai bền bỉ. Nếu không chuyên, nếu một ngày cần mà 10 ngày không cần thì cũng vô ích... cần là luôn luôn cố gắng, chăm chỉ, cả năm, cả đời. Nhưng không làm quá trớn. Phải biết nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng của mình để làm việc cho lâu dài. Kiệm: được hiểu, đó chính là sự tiết kiệm: Tức là tiết kiệm sức lao động; tiết kiệm thì giờ; tiết kiệm tiền của dân, của đất nước, của ngay cả chính mình; phải biết tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm. Tiết kiệm thì phải kiên quyết chống xa xỉ, ăn chơi, ăn không ngồi rồi, mà hãy tự mình lo chính cuộc sống của mình và xã hội v.v... Liêm: Tức là trong sạch; không tham lam, không tham tiền của, địa vị, lợi danh, không tham ăn ngon, mặc đẹp, sống yên, không ham người tâng bốc mình... những cán bộ ở các công sở, từ xã, phường cho đến Trung ương phải luôn lấy chữ Liêm làm đầu. Khổng tử nói: "Làm sỹ mà không liêm không bằng con vật". Bác nói: "Liêm là thước đo có tình người hay không"; "Nếu tham tiền của, địa vị, danh tiếng là bất liêm". Cán bộ phải thực hành - chữ liêm trước để làm kiểu mẫu cho dân "Quan tham vì dân dại" bởi lẽ nếu dân hiểu biết không chịu đút lót, thì quan dù không liêm cũng phải hoá liêm. Chính vì thế dân phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ liêm. Mỗi người phải nhận thấy rằng tham lam là một điều rất xấu hổ, kẻ tham lam là có tội với nước với dân. Cán bộ thi đua thực hành liêm khiết, thì sẽ gây nên tính liêm khiết trong nhân dân. Một dân tộc biết cần, kiệm, liêm, chính là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ. Thực tiễn trong cuộc sống hôm nay chúng ta đã mất những cán bộ cách mạng đã từng vào sinh ra tử, chỉ vì một chốc lát họ không làm chủ bản thân đã đánh mất chữ liêm trong lòng mình. Chính: là không tà, thẳng thắn, đúng đắn v.v... đều là những đức tính cần thiết cho con người, mỗi gia đình, mỗi tập thể, mỗi cơ quan, địa phương cũng như của cả dân tộc. Là người làm việc công, phải có công tâm, công đức. Chớ đem của công dùng vào việc tư. Chớ đem người tư làm việc công. Việc gì cũng phải công bình, chính trực, không nên tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán. Mình có quyền dùng người thì phải dùng những người có tài năng làm được việc. Chớ vì bà con bầu bạn, mà kéo vào chức nọ, chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ có tài năng hơn mình. Phải trung thành với chính phủ, với đồng bào. Chớ lên mặt làm "quan cách mệnh". Theo Hồ Chí Minh mỗi người cần thực hiện đạo đức trên 3 mặt: Đối với mình: Không tự cao tự đại, vì tự cao tự đại thì thất bại. Thất bại vì kiêu ngạo vừa cạn lại bé như đĩa như chén, còn người khiêm tốn thì rộng lại sâu như biển như sông. Đối với người: Không nịnh trên nạt dưới, vì nịnh hót là đánh mất mình, mà đánh mất mình là sai lầm lớn nhất của đời người; vì đối với loài người, lễ vật lớn nhất là sự bao dung. Đối với công việc: Không dối trá lọc lừa, vì dối trá lọc lừa cũng như "tiền giả", "thuốc độc" nó vô cùng nguy hiểm. Việc công đặt trên việc tư. Việc thiện việc đúng dù nhỏ mấy cũng làm, khó mấy cũng làm, việc ác việc sai trái dù nhỏ mấy cũng tránh, lợi mấy cũng không làm. Chí công vô tư: Có nghĩa là hết sức lo cho việc chung không màng tư lợi. Hết sức về sự công bằng, đặt lợi ích của tập thể, của Đảng, của cách mạng, của nhân dân, của Tổ quốc lên trên các lợi ích riêng tư. Thực hiện chí công vô tư cũng có nghĩa như thực hiện đạo đức, mình vì mọi người, mọi người vì mình, theo tinh thần của chủ nghĩa tập thể. Hồ Chí Minh đã nêu ra một quan điểm cơ bản là: Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, bởi vì, theo người: Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ thù nguy hiểm của đạo đức cách mạng XHCN. "Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng CNXH. Cho nên thắng lợi của CNXH không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ gian ngoan, xảo quyệt, nó khéo léo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là nguyên nhân sinh ra căn bệnh tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa, tham danh, trục lợi, thích địa vị, quyền hành, tự kiêu, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, mệnh lệnh v.v... Một người mà cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư thì đó là một con người đáng kính. Vì đó là những người: "Giàu sang không thể quyến rũ; nghèo khó không thể chuyển lay; uy vũ không thể khuất phục". Đó là những con người trọng đạo lý, vì đạo lý, tôn thờ đạo lý, vì lẽ công bằng, không khuất phục quyền uy. "Trợn mắt coi khinh ngàn lực sĩ; cúi đầu làm ngựa đám nhi đồng". Khi nghiên cứu Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư chúng ta thấy lung linh chữ Nhân của Hồ Chí Minh. Chữ Nhân theo Hồ Chí Minh được hiểu: "Trung với nước hiếu với dân là Nhân; cần, kiệm, liêm, chính là Nhân; yêu Tổ quốc yêu đồng bào là Nhân; Nhân là phải đồng cam cộng khổ; Nhân là phải yêu quí săn sóc bộ đội và nhân dân; Nhân với cả kẻ thù v.v... Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, cơ bản kinh tế - xã hội đất nước trong những năm qua được ổn định, giữ vững và phát triển. Tuy nhiên do tác động tiêu cực trong quá trình mở cửa, hội nhập đổi mới đất nước, nên thực tiễn xã hội nước ta vẫn đang tồn tại một số hạn chế khuyết điểm. Nếu soi trong góc độ đạo đức xã hội thì chúng ta có một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, đạo đức - Đây là cơ hội cho kẻ thù khoét sâu để chống phá hòng làm giảm uy tín của Đảng, Nhà nước ta với nhân dân. Bởi vậy, việc nâng cao giáo dục đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong tình hình hiện nay là vấn đề quan trọng và cấp thiết. Vì vậy cần phải tăng cường công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên; đồng thời xây dựng chỉnh đốn Đảng cốt nhằm cho Đảng luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, đáp ứng yêu cầu cách mạng trong thời kỳ mới. Đặc biệt nâng cao bản lĩnh chính trị, khả năng trí tuệ, năng lực lãnh đạo, phẩm chất đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên. Đồng thời nắm vững và có khả năng vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Hiểu rõ những vấn đề cơ bản về quản lý kinh tế, xã hội. Đồng thời xây dựng ý chí cách mạng cao, rèn luyện đạo đức cách mạng theo Di chúc và gương sáng đạo đức Hồ Chí Minh. Xây dựng lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác; sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ. Cổ nhân thường nói: "Danh chính thì ngôn thuận" xem xét từ chức trách, nhiệm vụ của cá nhân mỗi người. Đối với mỗi chúng ta, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là xử lý mối quan hệ hằng ngày "mình đối với mình", tức là bản thân mình làm đối tượng. Những tiêu chí này gắn liền với hoạt động thực tiễn hàng ngày mà chúng ta là cái thấy được của đạo đức. Nó cần trước cho bản thân mình, gia đình mình. Vì nó làm cho tâm ta sáng, lòng ta trong lời ta thanh. Vì ai cũng để Nhân để Đức lại cho con cháu. Chúc cho tất cả chúng ta, ai cũng dành cho con cháu nhiều Nhân nhiều Đức. Chúc cho tất cả chúng ta ai cũng Chí công vô tư./. Các nhà sáng lập và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học như C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh là những người rất quan tâm đến trí thức và vấn đề tri thức, bởi chính các ông là những người trí thức lớn, rất uyên bác về chính trị và thời cuộc. Mục đích sử dụng trí thức của các ông là nhằm vào việc cải tạo thế giới, giải phóng xã hội, giải phóng con người. V.I.Lênin định nghĩa về trí thức: “Trí thức bao hàm không những chỉ các nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả mọi người có học thức, các đại biểu của những nghề tự do nói chung, các đại biểu của những người lao động trí óc”(1). Quan niệm của V.I.Lênin về người trí thức cũng rất rõ ràng: “Người trí thức đấu tranh, tuyệt nhiên không phải là bằng cách dùng thực lực theo lối này hay lối khác, mà là bằng cách dùng những lý lẽ. Vũ khí của họ chính là sự hiểu biết của cá nhân họ, những năng lực của cá nhân họ, lòng tin của cá nhân họ. Họ chỉ nhờ vào những phẩm chất cá nhân của họ, cho nên mới có thể đóng được một vai trò nào đó. Vì vậy, đối với họ, quyền được hoàn toàn tự do biểu hiện bản chất cá nhân của mình là điều kiện đầu tiên để công tác được kết quả. Với tư cách là một bộ phận trong toàn thể, họ chỉ phục tùng toàn thể đó một cách miễn cưỡng, phục tùng vì bắt buộc, chứ không phải tự nguyện. Họ chỉ thừa nhận kỷ luật là cần thiết đối với quần chúng, chứ không phải đối với những nhân vật được lựa chọn. Dĩ nhiên là họ xếp mình vào những hàng ngũ những nhân vật được lựa chọn...”(2). Hồ Chí Minh định nghĩa về trí thức: “Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra. Ngoài hai cái đó, không có trí thức nào khác. Một người học xong đại học, có thể gọi là trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải trí thức hoàn toàn. Y muốn thành một người trí thức toàn toàn, thì phải biết đem trí thức đó áp dụng vào thực tế”(3). Qua nghiên cứu những trước tác của Hồ Chí Minh, có thể rút ra một số vấn đề trong tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức: 1) Trí thức phải biết lấy việc phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc làm mục tiêu phấn đấu suốt đời của mình. 2) Trí thức phải đồng hành với dân tộc, cùng dân tộc tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước phồn vinh. 3) Trí thức phải có tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội. 4) Trí thức phải biết đem kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ và sự hiểu biết của mình áp dụng vào thực tế. Xa rời thực tế, trí thức trở thành lý luận suông. 5) Trí thức phải gắn bó mật thiết với công nhân, nông dân và nhân dân lao động và cũng phải học hỏi họ ở tinh thần cần cù lao động. 6) Trí thức phải tiếp tục học hỏi, không ngừng chiếm lấy đỉnh cao của khoa học và kỹ thuật. 7) Trí thức phải có cuộc sống lành mạnh, có đạo đức và tư cách. 8) Đảng và Chính phủ phải biết tôn vinh trí thức và trí thức phải biết tôn trọng Đảng, Chính phủ, tôn trọng nhân dân lao động. 9) Đảng và Chính phủ phải có chính sách trọng dụng trí thức, trọng dụng nhân tài, hiền tài. 10) Đảng và Chính phủ phải thật sự dân chủ đối với trí thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương tuyên truyền, giáo dục có hiệu quả mà Đảng ta đã vận dụng qua các thời kỳ cách mạng. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần quán triệt hơn nữa tư tưởng, tấm gương của Người trong công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng. Bởi, trong công cuộc đổi mới hôm nay, công tác tuyên truyền, giáo dục có một vị trí, vai trò rất lớn. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác tuyên truyền, giáo dục, nhất là tuyên truyền, giáo dục đường lối chính trị của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị. Nói đến công tác tuyên truyền, giáo dục ở đây là tuyên truyền, giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, là giáo dục tư tưởng chính trị, quan điểm, lập trường của giai cấp công nhân, phục vụ lợi ích của giai cấp và dân tộc. Thông qua hoạt động tuyên truyền, giáo dục phải phân tích, làm sáng tỏ cơ sở khoa học, căn cứ lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, qua đó cung cấp cho đối tượng một thế giới quan khoa học, phương pháp luận đúng đắn và những thông tin chân thực, những tri thức cần thiết hướng dẫn cho hành động cải tạo hiện thực, giải quyết những mâu thuẫn, những vấn đề phức tạp do thực tiễn đặt ra, đồng thời giúp cho đối tượng có được những vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh tư tưởng để chống lại những âm mưu, thủ đoạn và hành vi thâm độc của các thế lực thù địch đang muốn tìm mọi cách phủ định chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đi ngược lại con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Để đạt được mục đích đó khi đi tuyên truyền, giáo dục chúng ta cần phải xác định rõ một số tiêu chí sau: Thứ nhất, người đi tuyên truyền, giáo dục phải xác định rõ mục đích và đối tượng tuyên truyền, giáo dục. Mục đích của công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng là nhằm biến những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, những tri thức khoa học thành niềm tin, thành hành động cụ thể, xây dựng, bảo vệ quê hương đất nước, làm cho cuộc sống mỗi người ngày càng tiến bộ, ấm no, hạnh phúc. Muốn làm được điều đó, người đi tuyên truyền phải nắm vững tâm lý của đối tượng được tuyên truyền. Tức là, người tuyên truyền phải xác định rõ đối tượng mình muốn truyên truyền, giáo dục là ai?, họ có nhu cầu gì?, tâm tư, nguyện vọng của họ như thế nào?, đời sống vật chất, tinh thần của họ hiện tại ra sao?….Trên cơ sở đó, người tuyên truyền hoạch định cụ thể nội dung, lựa chọn thời gian, địa điểm và cách thức, phương tiện tuyên truyền như thế nào cho phù hợp với nhận thức, điều kiện của họ. Khi bàn đến vấn đề này, Hồ Chí Minh đã từng dạy những người đi tuyên truyền, giáo dục: “Người đi tuyên truyền bao giờ cũng phải tự hỏi: Viết cho ai xem?. Nói cho ai nghe?. Nếu không vậy thì cũng như cố ý không muốn cho người ta nghe, không muốn cho người ta xem. Người tuyên truyền không điều tra, không phân tích, không nghiên cứu, không hiểu biết quần chúng, chỉ gặp sao nói vậy, bạ gì viết nấy, nhất định sẽ thất bại. Chẳng những các người phụ trách, tuyên truyền, những người viết báo, viết sách, những người nghệ sĩ là những người tuyên truyền, mà tất cả cán bộ, đảng viên, hễ những người có tiếp xúc với quần chúng đều là người tuyên truyền của Đảng. Vì vậy ai cũng phải học nói, nhất là học nói cho quần chúng hiểu”(1) Thứ hai, người tuyên truyền, giáo dục phải lựa chọn nội dung, hình thức, phương pháp và cách thức tuyên truyền, tác động đến đối tượng phải thật hay và hấp dẫn, dễ tiếp nhận. Nội dung hay, có chất lượng, có ý nghĩa là bài nói, bài viết, sản phẩm dùng để tuyên truyền, giáo dục phải đảm bảo các tiêu chí: đúng đắn về quan điểm và thông tin mới mẻ, phong phú, hấp dẫn, có ý nghĩa tích cực, tiến bộ, nhân văn và đặc biệt phải thiết thực, bổ ích đối với đối tượng giúp họ thay đổi nhận thức và hành vi, hướng đến cái chân, thiện, mỹ. Nội dung dù phong phú, sâu sắc đến mấy, nhưng người nghe không thể hiểu, không thể nhớ, không thể áp dụng được, không thiết thực và bổ ích, không tạo được dấu ấn đối với người được tuyên truyền thì không thể nói nội dung tuyên truyền đó là hay và có chất lượng được. Đương nhiên, chất lượng tuyên truyền không chỉ bị quy định và phụ thuộc vào nội dung tuyên truyền. Cùng một nội dung nhưng được chuyển tải bằng những hình thức, phương pháp tuyên truyền khác nhau sẽ mang lại hiệu quả khác nhau với những đối tượng khác nhau. Vì vậy, cùng với nội dung hay thì hình thức và phương pháp thể hiện phù hợp cũng được coi là một tiêu chí để xem xét chất lượng, hiệu quả của công tác tuyên truyền, giáo dục. Hiện nay, việc tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, chính trị, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được thực hiện qua nhiều kênh, nhiều hình thức và tổ chức khác nhau: trong sinh hoạt các đoàn thể chính trị - xã hội, các nhóm dân cư, qua các phương tiện thông tin đại chúng (sách, báo, phát thanh, truyền hình…), qua các thể loại văn học, nghệ thuật, bằng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, qua tuyên truyền miệng….ở mỗi hình thức, thể loại đều có những thế mạnh và những hạn chế nhất định. Tuy nhiên, dù bằng hình thức nào, thể loại nào thì trong tuyên truyền, giáo dục muốn đạt hiệu quả cao đều phải có phương pháp tốt, nghĩa là phương pháp phải phù hợp với nội dung và đối tượng. Ngôn ngữ thường dùng trong tuyên truyền, dù nói hay viết, đều phải đảm bảo yêu cầu: ngắn gọn, giản dị, rõ ràng, sinh động và hấp dẫn, phù hợp với quảng đại quần chúng nhân dân, để mọi người dễ hiểu, dễ nhớ và làm theo. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người mẫu mực của việc thực hiện những yêu cầu trong cách nói và cách viết của mình. Người dạy rằng:“Tuyên truyền cũng thế, huấn luyện cũng thế, phải làm sao cho dễ hiểu, nói sao để người ta hiểu được, hiểu để làm”(2). Để đạt được điều đó theo Hồ Chí Minh, trong tuyên truyền phải “nói thiết thực, nói đúng lúc, đúng nước ta khi trình độ dân trí còn thấp, Hồ Chí Minh thường hay dùng phương pháp so sánh và đưa ra những ví dụ đơn giản, gần gũi với đời thường khi diễn đạt những vấn đề lý luận, chính trị trừu tượng, khô khan. Đặc biệt nước ta là một quốc gia đa dân tộc, mỗi thành phần dân tộc lại có một truyền thống văn hoá, tâm lý, phong tục, tập quán, lối sống, ngôn ngữ với những sắc thái riêng, nhất là đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đây là điều cần lưu ý khi lựa chọn nội dung và phương pháp tuyên truyền. Hồ Chí Minh dạy rằng:“Một tỉnh có đồng bào Thái, đồng bào Mèo thì tuyên truyền, huấn luyện đối với đồng bào Thái khác, đối với đồng bào mèo khác, phải có sự thay đổi cho thích hợp”(3). Những vấn đề chính trị, các Nghị quyết, văn bản pháp luật thường dùng văn chính luận, ngôn ngữ phổ thông, cô đọng, khái quát, đôi khi là trừu tượng, khó hiểu đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Vì vậy, Hồ Chí Minh dặn những cán bộ tuyên truyền phải tìm cách diễn đạt “nôm na” để đồng bào dễ hiểu, dễ làm theo. Theo Hồ Chí Minh, “nếu cứ nói nào là “làm cách mạng xã hội chủ nghĩa”, nào là “tiến lên chủ nghĩa xã hội”, nào là “xây dựng chủ nghĩa xã hội”, đồng bào các dân tộc thiểu số khó hiểu, ít người hiểu. Phải nói rõ xây dựng chủ nghĩa xã hội là phải làm cái gì?. Nói nôm na để cho người ta dễ hiểu, hiểu để người ta làm được. Không nên lúc nào cũng trích Mác, cũng trích Lê nin”(4). Hồ Chí Minh còn yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên và những người trực tiếp làm công tác tuyên truyền, giáo dục phải biết cách nói của quần chúng “mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết phải tỏ rõ tư tưởng và lòng ao ước của quần chúng”, “chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ chớ nói, chớ viết”(5). Vì điều kiện vùng dân tộc, vùng miền núi có nhiều đặc điểm đặc thù so với các vùng khác nên Hồ Chí Minh đòi hỏi việc tuyên truyền, giáo dục và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách cũng phải có những nội dung, hình thức và bước đi phù hợp. Người dạy: “Miền núi đất rộng người thưa, tình hình vùng này không giống tình hình vùng khác. Vì vậy, áp dụng chủ trương và chính sách phải thật sát với tình hình thực tế ở mỗi nơi. Tuyệt đối chớ rập khuôn, chớ máy móc, chớ nóng vội”(6). Thứ ba, một trong những tiêu chí cơ bản để xem xét, đánh giá chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng là mức độ thuyết phục đối tượng. Thuyết phục tức là công tác tuyên truyền, giáo dục phải đi sâu vào tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất là với đối tượng cụ thể ít nhiều có thắc mắc, băn khoăn, do dự…., để giúp họ hiểu rõ vấn đề đi đến đồng cảm, thông suốt, ủng hộ và tự nguyện tiếp nhận chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, “tâm phục, khẩu phục”, từ đó quyết tâm, tự giác thực hiện và tuyên truyền, vận động người khác cùng thực hiện. Để đạt được điều đó, công tác tuyên truyền, giáo dục phải gắn với thực tiễn, hiểu rõ đối tượng, từng bước nâng cao nhận thức, tư tưởng, tình cảm của họ. Đặc biệt không nên tuyên truyền một chiều, theo kiểu áp đặt mà phải đảm bảo thông tin hai chiều, sử dụng đa dạng các hình thức thông tin phản hồi từ cơ sở, coi trọng ý kiến của quần chúng nhân dân. Thông tin phản hồi được thu nhận qua nhiều hình thức như: toạ đàm, đối thoại, trao đổi, phê bình, góp ý….Thông qua đây chúng ta sẽ biết được các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước sau khi được tuyên truyền, phổ biến trong nhân dân đã phát huy tác dụng và có ảnh hưởng như thế nào, có vấn đề gì đặt ra qua kiểm nghiệm cần đổi mới, bổ sung, hoàn thiện….Đương nhiên để thông tin hai chiều phát huy tác dụng thì những câu hỏi, ý kiến thắc mắc của dân về chế độ, chính sách, quy định, về các thông tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng….cần được các cơ quan chức năng giải đáp, trả lời, làm sáng tỏ. Có như vậy, quần chúng mới được thông suốt, giải toả khúc mắc trong tư tưởng, nhận thức. Hồ Chí Minh đã có lần phê bình cách tuyên truyền qua các báo cáo theo kiểu “đánh trống bỏ dùi”, “im hơi lặng tiếng”. Người viết: “Các báo cáo thường đăng lời phê bình của nhân dân. Nhưng nhiều khi như “nước đổ đầu vịt”, cán bộ, cơ quan và các đoàn thể được phê bình cứ im hơi lặng tiếng, không tự kiểm điểm, không đăng báo tự phê bình và hứa sửa chữa”(7). Người yêu cầu : “Mong rằng các cơ quan hay địa phương có những vấn đề mà báo đã nêu lên phát biểu ý kiến, nói rõ chỗ nào báo phê bình đúng, chỗ nào sai và có khuyết điểm thì phải sửa như thế nào”(8). Để thuyết phục người nghe, những người đi tuyên truyền, nhất là tuyên truyền miệng, phải lắng nghe, theo dõi thái độ, phản ứng của đối tượng được tuyên truyền, tránh tác phong xa rời quần chúng, tự cho mình là bề trên, thông thạo, chỉ có bổn phận “dạy dỗ”, giáo hoá người dưới. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chớ có tưởng đi tuyên truyền là đi dạy người ta chứ không cần học lại người ta; lãnh đạo người ta chứ không chịu người ta phê bình”(9). Người căn dặn cán bộ tuyên truyền phải luôn bám sát cơ sở, “phải biết chịu kham khổ”, “phải biết nhẫn nại”, “Về đức tính này cần phải học người đi truyền giáo”(10). Một trong những phương pháp tuyên truyền, giáo dục có sức thuyết phục cao chính là nêu gương người tốt, việc tốt, giáo dục bằng việc làm, hành động cụ thể, nói đi đôi với làm, thông qua người thật, việc thật, những điều “tai nghe, mắt thấy”. Đây là phương pháp sinh thời Hồ Chí Minh rất quan tâm và thường xuyên sử dụng trong hoạt động tuyên truyền, giáo dục. Theo Người; “Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng cuộc sống mới, con người mới”(11). Từ những tiêu chí và phân tích trên chúng ta có thể rút ra một số biện pháp tác động chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng hiện nay là: - Một là: Điều tra, nắm bắt, dự báo tình hình, diễn biến tư tưởng của quần chúng. - Hai là: Tăng cường giáo dục tư tưởng, giáo dục niềm tin và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. - Ba là: Kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, lời nói với việc làm…. - Bốn là: Luôn chủ động và đấu tranh không khoan nhượng với các âm mưu, thủ đoạn phá hoại về tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động thù địch đối với chủ nghĩa xã hội và dân tộc Việt Nam. - Năm là: Đấu tranh chống các tư tưởng phản động, lạc hậu và tâm lý mê tín dị đoan. - Sáu là: Không ngừng rèn luyện, bồi dưỡng nhân cách và nâng cao uy tín của cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ tuyên truyền ở cơ sở. Tóm lại, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Tuy nhiên, yếu tố ảnh hưởng chủ yếu nhất là phẩm chất và năng lực của người đi tuyên truyền, giáo dục. Chính vì vậy, muốn tuyên truyền, giáo dục có hiệu quả người đi tuyên truyền phải không ngừng bồi dưỡng phẩm chất đạo đức và nâng cao năng lực, uy tín cho bản thân. Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay và trước nhiều biến cố khó lường về tình hình chính trị - xã hội trên trường quốc tế. Bên cạnh các thế lực thù địch đã, đang và vẫn sẽ tìm mọi cách chống lại CNXH, Đảng ta và nhân dân ta vẫn kiên định với con đường đã chọn, quyết tâm đưa đất nước phát triển nhanh, mạnh trong xu thế hội nhập. Quyết tâm đó có trở thành hiện thực hay không phần nhiều phụ thuộc vào công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng - phụ thuộc vào phẩm chất, năng lực của người đi tuyên truyền, giáo dục. Thấm nhuần tư tưởng, tấm gương tuyên tuyền, giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tin rằng công tác tuyên truyền, giáo dục sẽ đạt được kết quả như mong muốn, góp phần đưa đất nước đến sự thắng lợi trong công cuộc đổi mới, hội nhập hiện nay./.
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.